MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG 1
I. Một số vấn đề lý luận 1
1. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích đối với sự
hình thành và phát triển của trẻ em.
1
2. Quyền được học tập của trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. 4
II. Tình trạng trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm 5
1. Thực trạng về việc trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm. 5
2. Nguyên nhân của tình trạng trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học
sớm bắt nguồn từ chính gia đình của trẻ.
7
3. Một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trẻ em không được đi học hoặc
phải bỏ học sớm.
9
KẾT LUẬN 10
Danh mục tài liệu tham khảo 11
A. LỜI MỞ ĐẦU
Giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định hình thành nên tính cách
của mỗi con người.Việc nuôi dạy con trẻ gần nhất là gia đình, sau đó là xã hội.
Giáo dục cho mọi người và tiến tới xây dựng xã hội học tập còn là mục tiêu căn
bản, chiến lược của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên,
21
tình trạng trẻ em bỏ học và nghỉ học sớm ở Việt Nam hiện nay vẫn còn là vấn đề
đáng quan tâm mà trách nhiệm trên hết là của cha mẹ và những người thân trong
gia đình.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận
1. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ và những người thân thích đối với sự hình
thành và phát triển của trẻ em.
Trong mỗi gia đình, cha mẹ luôn có vị trí và vai trò rất quan trọng. Người
cha là trụ cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập
và noi theo; còn người mẹ là chỗ dựa, là nguồn lửa sưởi ấm tình yêu thương trong
gia đình, dành tình cảm vô tận cho các con. Bởi vậy gia đình là cái nôi văn hóa đầu
tiên hình thành nhân cách cho trẻ em.
Văn hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng đều có sự ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các thành viên trong
gia đình. Bầu không khí tâm lý – đạo đức của gia đình tác động trực tiếp đến nếp
sống, lối suy nghĩ của trẻ. Mọi xung khắc của các cá nhân trong gia đình, nhất là
giữa bố và mẹ, đều ảnh hưởng đến con cái.
Trong gia đình, ngoài các mối quan hệ nói trên còn có mối quan hệ giữa ông
bà và các cháu, anh chị và các em. Mối quan hệ này càng bền chặt thì càng làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của các cá nhân trong gia đình. Những người
lớn tuổi phải làm gương cho con cháu, tự điều chỉnh hành vi của mình thì mới đáp
ứng được vấn đề đạo đức, văn hóa và các mối quan hệ đặt ra trong phạm vi gia
đình.
Giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà phải bằng những việc làm và
hành động cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người lớn có có tác động trực
tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ em sẽ không tôn trọng
người lớn nếu nó như chúng thấy cha mẹ mình thể hiện sự thiếu tôn trọng lẫn nhau.
22
Những bậc cha mẹ luôn quan tâm đến con cái sẽ chú trọng đến việc giáo dục
hình thành nhân cách cho trẻ. Nhưng cũng có nhiều gia đình thiếu quan tâm đến
việc giáo dục con cái, người lớn đối xử với nhau bằng lời nói, cử chỉ, hành động
thiếu văn hóa… những hành động xấu đó đã phản chiếu vào tâm hồn non nớt của
trẻ em, dần làm cho các em trở lên cộc cằn, thô lỗ. Những mâu thuẫn, lục đục trong
gia đình hay gia đình tan vỡ đã đẩy nhiều trẻ em rơi vào tình trạng hụt hẫng về mọi
phương diện, nhiều em không đủ ý chí để vượt qua khó khăn này đã rơi vào những
bệnh như trầm cảm, rối loạn tâm lý, bỏ học hay thậm chí là bỏ nhà đi lang thang, dễ
dẫn đến nguy cơ trở thành tội phạm.
Sống trong các gia đình có bố mẹ hoặc người lớn khác có hành vi thiếu văn
hóa, đạo đức hoặc có những hành vi phạm tội, như bố mẹ bất hòa hay đánh chửi
nhau, nghiện rượu, nghiện ma túy, trộm cắp, tham ô…thì những gương xấu này làm
cho trẻ em dần dần coi thường pháp luật, nhiễm các thói hư tật xấu và dễ bị lôi kéo
rồi dẫn tới vi phạm pháp luật. Cũng có nhiều trường hợp bố mẹ là người tốt, có đủ
kiến thức nhưng không chú ý đúng mức đến việc giáo dục con cái hoặc không có
điều kiện gần gũi trẻ, có người ỷ lại cho nhà trường, một số mải làm ăn, kiếm sống
hoặc phải đi công tác trong thời gian dài.
Có gia đình bố mẹ ly hôn, có con ngoài giá thú, một trong hai người chết…
dẫn đến việc con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha mẹ, không
được dạy dỗ và chăm sóc chu đáo trẻ sẽ có tâm lý lệch lạc, tự do ngang bướng, bất
cần. Chúng dễ dàng phạm tội khi bị rủ rê, lôi kéo… Có những gia đình bố mẹ thiếu
hiểu biết hoặc không kiềm chế được nên đã coi việc đánh đập hoặc dùng nhục hình
với trẻ như là quyền của họ.
Nhiều đứa trẻ bị bạo hành đã nghĩ gia đình không còn yêu thương, che chắn
và bảo vệ mình nữa. Chính cách xử sự này của bố mẹ đã khiến trẻ bị khủng hoảng
về tâm lý, tự ti, khó hòa nhập, trẻ trở lên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và
căm ghét gia đình. Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế
23
thực hiện những hành vi trái pháp luật. Con hư còn bởi cách dạy, sự quá nuông
chiều, thỏa mãn mọi nhu cầu của con cái, thói quen đòi gì được nấy.
Ngày nay, với những biến đổi của nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường
văn hóa gia đình đang có biểu hiện xuống cấp vì những tác động xấu của đời sống
xã hội. Với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã
kích thích nhu cầu ham muốn vật chất, ít chú trọng đời sống tình cảm tinh thần,
tình trạng xung đột gia đình dẫn đến đổ vỡ và ly hôn ngày càng gia tăng, làm cho
gia đình không được bền vững. Do đó chúng ta càng phải đặc biệt quan tâm, chú
trọng tới việc giáo dục con trẻ trong gia đình.
2. Quyền được học tập của trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Một trong những quyền cơ bản nhất của trẻ em là quyền được học tập. Trong
Công ước về quyền trẻ em cũng như trong pháp luật Việt Nam, học tập không
những được quy định là quyền của trẻ em mà còn là bổn phận của cha mẹ, gia đình
và toàn xã hội. Chính vì vậy, cha mẹ và những người thân trong gia đình phải có
nghĩa vụ giáo dục con cái, chăm lo và tạo điều kiện cho con cái được học tập. Mục
tiêu giáo dục được thể hiện trong Công ước về quyền trẻ em: “Giáo dục phải nhằm
phát triển nhân cách, tài năng, các khả năng tinh thần và thể chất của trẻ em đến
mức cao nhất. Giáo dục phải chuẩn bị cho trẻ em một cuộc sống tích cực ở tuổi
người lớn trong một xã hội tự do và khuyến khích trẻ em lòng kính trọng cha mẹ,
bản sắc, văn hóa, ngôn ngữ và các giá trị của mình cũng như nguồn gốc văn hóa và
các giá trị của người khác”.
Cũng nhằm khẳng định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc giáo dục và
giúp đỡ con hoàn thiện về nhân cách, trưởng thành lành mạnh và trở thành người
có ích cho xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định trong một số điều
như:
Khoản 1 Điều 34 về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ:
24
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc
học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.”
Khoản 1 Điều 37 về quyền và nghĩa vụ giáo dục con:
“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho
con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,
hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và
các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con….”
Như vậy, các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam thể hiện sự
dân chủ, tiến bộ, đề cao được trách nhiệm của cha mẹ trong việc bảo đảm được
quyền lợi tương lai của con cái, đồng thời thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của
gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ em phát triển toàn diện.
II. Tình trạng trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm
1. Thực trạng về việc trẻ em không được đi học hoặc phải bỏ học sớm.
Việt Nam là nước có truyền thống dành ưu tiên cao cho giáo dục. Hàng năm,
Chính phủ đã dành 20% ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục. Quyền được học
tập của trẻ em được khẳng định trong Hiến pháp và Chính phủ đã sớm phê chuẩn
Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Luật Giáo dục, Luật Phổ cập Giáo dục
Tiểu học. Tuy rất nhiều nỗ lực của chính phủ và toàn dân đã dành cho giáo dục,
tình trạng trẻ em bỏ học vẫn xảy ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau và đang thu
hút sự chú ý của toàn xã hội. Theo thống kê của Bộ GD&ĐT:
- Đối với cấp Tiểu học, 58/64 tỉnh, thành có tỷ lệ học sinh bỏ học từ 0% - 0,65%; 5
tỉnh có tỷ lệ bỏ học từ 0,95 - 2% và Kiên Giang là tỉnh có tỷ lệ bỏ học nhiều nhất
với 5,16%.
25