Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩmvà việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.81 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………………….1
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………………………..1
I. Quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm………………...1
1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa…………………………………………………………………..2
1.1 Quy định của BLTTHS về việc bắt đầu phiên tòa…………………………………………2
1.2 Gỉai quyết các yêu cầu trong tủh tục bắt đầu phiên tòa…………………………………...3
1.3 Quy định về cách ly những người tham gia tố tụng………………………………………4
2. Thủ tục xét hỏi……………………………………………………………………………….4
2.1 Quy định về đọc bản cáo trạng……………………………………………………………..5
2.2 Quy định về xét hỏi…………………………………………………………………………5
3. Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm………………………………………………….8
3.1 Trình tự phát biểu khi tranh luận………………………………………………………….8
3.2 Đối đáp tại phiên tòa………………………………………………………………………..9
3.3 Trở lại việc xét hỏi…………………………………………………………………………..9
3.4 Xem xét việc rút quyết định truy tố…………………………………………………………9
3.5 Kết thúc tranh luận và lời nói sau cùng của bị cáo……………………………………….10
4. Nghị án và tuyên án………………………………………………………………………...10
4.1 Quy định về việc nghị án…………………………………………………………………..10
4.2 Quy định về việc tuyên án………………………………………………………………….11
II. Hoàn thiện những quy định của BLTTHS về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm……..11
1. Sửa đổi quy định về thủ tục bắt đầu phiên toà…………………………………………...12
2. Sửa đổi quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên toà…………………………………………12
3. Bổ sung một số quy định chương Tranh luận tại phiên toà……………………………...14
4. Bổ sung, thay đổi một số quy định trong chương Nghị án và tuyên án…………………...15
C. KẾT BÀI……………………………………………………………………………………15
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………16


A. LỜI NÓI ĐẦU
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng, giai đoạn trung tâm của tố tụng


hình sự. Nó đánh dấu sự kết thúc của một quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra,
truy tố cho đến xét xử. Đồng thời, các thủ tục tố tụng sau đó như thủ tục thi hành án hay thủ tục
xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đều phát sinh trên cơ sở thủ tục xét xử sơ
thẩm.
Sau đây bài làm của em xin đi sâu vào tìm hiểu vấn đề “Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm
và việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này”. Nhưng do kiến thức, khả năng
lập luận cũng như thời gian nghiên cứu vấn đề còn nhiều hạn chế nên bài làm của em khó tránh
khỏi những sai sót. Kính mong Thầy Cô giáo góp ý chỉ bảo để bài làm của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. Quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm (XXST) là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án được giao thẩm
quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm
sau đây:
- Là việc xét xử lần đầu vụ án hình sự. Trước đó vụ án chưa được Tòa án nào xét xử (kể cả
trường hợp vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm hủy để xét xử lại thì
vẫn được coi là xét xử lần đầu, vì kết quả xét xử trước đó đã bị hủy).
- Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Chỉ khi có cáo trạng truy
tố bị can ra trước Tòa án thì mới có xét xử sơ thẩm.
- Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án, tội phạm và
hình phạt, các biện pháp tư pháp… Như vậy, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng hơn xét xử phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc XXST vụ án hình sự được thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự sơ thẩm. Bất kỳ
một phiên tòa hình sự sơ thẩm (HSST) nào, dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, đơn giản hay
phức tạp, xét xử trong khoảng thời gian ngắn hay dài… cũng phải được diễn ra theo một thủ tục
nhất định được quy định trong BLTTHS – đó là thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học Việt Nam năm 2003 thì “phiên tòa” được
hiểu là “lần họp để xét xử của Tòa án”, còn “thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức”.

Như vậy có thể hiểu thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm là trình tự tiến hành xét xử lần đầu
nhằm giải quyết toàn diện các nội dung trong vụ án hình sự, được quy định trong BLTTHS.


BLTTHS năm 2003 quy định về thủ tục phiên tòa HSST tại các điều luật từ Chương XIX
đến Chương XXII. Theo đó, phiên tòa HSST được tiến hành theo một trình tự bắt buộc, bao
gồm:
-

Thủ tục bắt đầu phiên tòa;

-

Thủ tục xét hỏi;

-

Thủ tục tranh luận;

-

Thủ tục nghị án và tuyên án.

1. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa là phần mở đầu của một phiên tòa, bao gồm một số công việc chủ
yếu do chủ tọa phiên tòa tiến hành, từ thời điểm đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi
phiên tòa chuyển sang phần xét hỏi. BLTTHS quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa nhằm giúp
cho Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định được các điều kiện cần thiết cho việc xét xử. Việc tiến
hành thủ tục bắt đầu phiên tòa còn đảm bảo sự khách quan, vô tư của những người tiến hành tố
tụng tại phiên tòa; đồng thời cũng thể hiện sự uy nghi, trang trọng của phiên tòa, làm cho những

người tham gia tố tụng tại phiên tòa có thái độ tôn trọng HĐXX, khai báo trung thực. Do đó,
nếu thủ tục bắt đầu phiên tòa được tiến hành một cách đầy đủ và chặt chẽ thì sẽ là điều kiện để
các bước tiến hành tố tụng tiếp theo tại phiên tòa diễn ra thuận lợi, có hiệu quả hơn.
1.1 Quy định của BLTTHS về việc bắt đầu phiên tòa
* Đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử
Điều 201 BLTTHS quy định “Khi bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa
vụ án ra xét xử”. Như vậy, mở đầu một phiên tòa HSST là việc chủ tọa phiên tòa đọc quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Mặc dù quyết định đưa vụ án ra xét xử đã được giao cho bị cáo trước
khi xét xử nhưng chủ tọa phiên tòa vẫn phải đọc tại phiên tòa, bởi vì quyết định đưa vụ án ra
xét xử chính là căn cứ pháp lý của việc tổ chức phiên tòa HSST. Nó thể hiện sự khẳng định
công khai của Tòa án về việc đưa bị cáo ra xét xử về hành vi phạm tội theo các cáo trạng truy tố
của Viện kiểm sát.
Thông qua đó, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có thể nắm bắt được những
thông tin cơ bản như thời gian, địa điểm mở phiên tòa, thành phần những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng; tội danh và điều khoản của BLHS mà bị cáo bị VKS áp
dụng.
Một trong các quyền cơ bản của bị cáo là quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử
cũng như các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS. Điều 201 BLTTHS quy
định: “Trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản cáo trạng theo quy định tại khoản 2


Điều 49 và quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 182 của Bộ
luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa”.
* Kiểm tra căn cước và giải thích quyền, nghĩa vụ của những người được triệu tập tham gia
tố tụng tại phiên tòa.
Điều 201 BLTTHS quy định: “Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người
được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải
thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa”.
Kiểm tra căn cước của những người tham gia tố tụng là việc chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo,
người bị hại và những người được triệu tập tham gia tố tụng khác về những vấn đề liên quan

đến nhân thân của họ như họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh… Việc kiểm tra căn cước của
họ là một thủ tục bắt buộc. Mục đích của việc này nhằm xác định những người được triệu tập
hiện có mặt tại phiên tòa có đúng là những người đã có lý lịch được phản ánh trong hồ sơ vụ án
hay không.
BLTTHS quy định sau khi kiểm tra căn cước những người tham gia tố tụng được triệu tập,
chủ tọa phiên tòa tiến hành giải thích quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa. Vệc này nhằm
đảm bảo cho họ có thể biết và thực hiện được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa,
qua đó giúp cho quá trình tranh tụng diễn ra nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả hơn.
1.2 Gỉai quyết các yêu cầu trong thủ tục bắt đầu phiên tòa
* Gỉai quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa.
Điều 205 BLTTHS quy định: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những người
tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật
chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa
phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì
HĐXX xem xét và quyết định”.
Có thể nói phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như là một cuộc điều tra công khai. Tại
phiên tòa, ngoài những chứng cứ tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ vụ án còn có
cả những chứng cứ, tài liệu khác được đưa ra xem xét, kiểm tra, đánh giá một cách khách quan
và toàn diện. Đó chính là những chứng cứ, tài liệu mới do những người tham gia tố tụng cung
cấp trên cơ sở thực hiện quyền “đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu” tại phiên tòa. Quy định này góp
phần làm vụ án được xem xét một cách khách quan và toàn diện hơn, tránh tình trạng “án tại hồ
sơ”, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta.
* Gỉai quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và người phiên dịch, người giám định.
Điều 202 BLTTHS quy định: “Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng phải được
chủ tọa phiên tòa hỏi xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký


Tòa án, người giám định, người phiên dịch hay không. Nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét
và quyết định”.
Sau khi giải thích xong quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, chủ tọa phiên

tòa phải hỏi Kiểm sát viên xem có yêu cầu thay đổi ai trong thành phần HĐXX hoặc Thư ký
Tòa án hay không và lý do của việc yêu cầu thay đổi đó.
BLTTHS quy định những người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền yêu cầu thay đổi
người phiên dịch, người giám định nhằm giúp cho quá trình xét xử tại phiên tòa được vô tư,
khách quan hơn vì người phiên dịch, người giám định là những người tham gia tố tụng tại phiên
tòa, là những người có trình độ chuyên môn phù hợp, phục vụ cho việc tiến hành tố tụng, việc
thực hiện nhiệm vụ của họ tại phiên tòa có ảnh hưởng nhất định đến kết quả của quá trình xét
xử tại phiên tòa, ảnh hưởng đến phán quyết của Tòa án.
1.3 Quy định về cách ly những người tham gia tố tụng.
- Cách ly những người làm chứng: Khoản 2 Điều 204 BLTTHS quy định: “Trước khi người
làm chứng được hỏi về vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp để cho
những người làm chứng không nghe được những lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những
người có liên quan”. Như vậy theo quy định này thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định việc
cách ly những người làm chứng với nhau chứ không nhất thiết phải bắt buộc thực hiện việc này.
Tuy nhiên Điều 211 BLTTHS lại quy định: “HĐXX phải hỏi riêng từng người làm chứng
và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó”. Theo quy định
này thì việc cách ly những người làm chứng với nhau là bắt buộc trong mọi trường hợp.
- Cách ly bị cáo với người làm chứng: Khoản 2 Điều 204 BLTTHS cũng quy định: “Trong
trường hợp lời khai của bị cáo và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì chủ tọa phiên
tòa có thể cách ly bị cáo với người làm chứng trước khi hỏi người làm chứng”.
- Cách ly các bị cáo với nhau: quy định tại khoản 1 Điều 209 BLTTHS: “HĐXX phải hỏi
riêng từng bị cáo. Nếu lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác
thì chủ tọa phiên tòa phải cách ly họ. Trong trường hợp này, bị cáo bị cách ly được thông báo
lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị cáo đó”.
2. Thủ tục xét hỏi
Xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan
trọng nhất để xác định sự thật của vụ án. Trong giai đoạn này, HĐXX, Kiểm sát viên và những
người khác theo quy định của BLTTHS phải kiểm tra chứng cứ, tài liệu của vụ án một cách
công khai bằng cách trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị hại, người làm chứng và những người
tham gia tố tụng khác; tiến hành các công việc khác như nghe nhận xét, kết luận của người

giám định, xem xét vật chứng, công bố lời khai, xem xét tại chỗ nhằm “tái hiện, củng cố và


khẳng định những tình tiết, sự kiện vụ án một cách đầy đủ và toàn diện nhất. Trên cơ sở đó hình
thành những thông tin chính xác giúp cho việc tranh luận, nghị án và tuyên án được tốt”.
Những hoạt động này được tiến hành theo một trình tự nhất định, đó chính là thủ tục xét hỏi tại
phiên tòa được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 BLTTHS năm 2003.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là trình tự tiến hành xét hỏi và những công
việc khác tại phiên tòa theo quy định của BLTTHS nhằm kiểm tra chứng cứ của vụ án một cách
công khai tại phiên tòa, qua đó có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án, làm cơ sở
cho quá trình tranh luận, nghị án và tuyên án.
2.1 Quy định về đọc bản cáo trạng
Điều 206 BLTTHS quy định: “Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng
và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có”. Như vậy, mở đầu thủ tục xét hỏi là việc Kiểm sát viên đọc
bản cáo trạng. Việc Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng tại phiên tòa là thủ tục bắt buộc, nó thể
hiện sự truy tố công khai của Viện kiểm sát đối với bị cáo.
Thông qua nội dung của bản cáo trạng được Kiểm sát viên đọc tại phiên tòa, những người
tham gia tố tụng cũng như những người tham dự phiên tòa nắm được toàn bộ diễn biến nội
dung vụ án, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát (bao gồm tội danh, điều khoản của BLHS, các
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ…), phục vụ cho quá trình xét hỏi sau đó. Việc Kiểm sát viên
đọc cáo trạng tại phiên tòa cũng giúp bị cáo đối chiếu, so sánh với nội dung của bản cáo trạng
mà mình đã được giao nhận, qua đó đảm bảo thực hiện được các quyền của mình được
BLTTHS quy định.
2.2 Quy định về xét hỏi
* Phạm vi nội dung xét hỏi:
Theo quy định của BLTTHS thì những người được tiến hành xét hỏi tại phiên tòa gồm
HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định.
Tuy nhiên, do chức năng và tư cách tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể này khác
nhau nên phạm vi nội dung xét hỏi cũng khác nhau.
Phạm vi nội dung HĐXX xét hỏi tại phiên tòa là toàn bộ các tình tiết, sự việc của vụ án

phục vụ cho việc kiểm tra chứng cứ, nhằm xác định sự thật của vụ án.
Đối với nội dung tham gia xét hỏi của Kiểm sát viên, khoản 3 Điều 207 BLTTHS quy định:
“Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo”.
Ngoài ra, trong quá trình xét hỏi, Kiểm sát viên còn tham gia xét hỏi những tình tiết liên quan
đến việc giải quyết nội dung khác trong vụ án hình sự như vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ
án…


Theo quy định của BLTTHS, người bào chữa được hỏi về những tình tiết liên quan đến việc
bào chữa cho bị cáo. Bào chữa được hiểu là việc dùng chứng cứ và lý lẽ để bác bỏ toàn bộ hay
một phần sự buộc tội và để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó, phạm vi nội dung
người bào chữa tham gia hỏi là những tình tiết có ý nghĩa tích cực cho việc bào chữa.
Ngoài ra, BLTTHS cũng quy định cho người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia
hỏi “về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự” (khoản 3 Điều 209
BLTTHS).
* Thứ tự xét hỏi:
Trong một vụ án hình sự có thể có nhiều sự việc và mỗi sự việc lại bao gồm nhiều tình tiết
khác nhau, hoặc trong vụ án có thể có nhiều tội khác nhau. Đối với mỗi sự việc và từng tội
trong vụ án, HĐXX phải sắp xếp theo một thứ tự xét hỏi hợp lý.
Thứ tự xét hỏi hợp lý bao gồm cả thứ tự xét hỏi đối với những người tham gia tố tụng tại
phiên tòa. Những người tham gia tố tụng tại phiên tòa không thể được xét hỏi cùng một lúc mà
phải lần lượt từng người, theo thứ tự nhất định và chủ tọa phiên tòa phải xác định xét hỏi người
nào trước, người nào sau. Việc xác định xét hỏi người tham gia tố tụng nào trước, người nào
sau phải căn cứ vào mục đích của hoạt động xét hỏi tại phiên tòa.
* Trình tự tiến hành xét hỏi:
Khoản 2 Điều 207 BLTTHS quy định: “Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi trước
rối đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên
quan đến việc giám định”.

Việc tiến hành xét hỏi của HĐXX, Kiểm sát viên và những người khác theo quy định của
BLTTHS đối với từng người tham gia tố tụng tại phiên tòa được tiến hành cụ thể như sau:
- Hỏi bị cáo: Sau khi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng xong, chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo có
ý kiến gì về bản cáo trạng hay không, bị cáo bị truy tố về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS.
Trong trường hợp bị cáo không trả lời các câu hỏi thì HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài
liệu có liên quan đến vụ án.
- Hỏi người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ: HĐXX yêu cầu họ trình bày về những
tình tiết liên quan đến vụ án. Sau đó, HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ
quyền lợi của đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu
thuẫn.


- Hỏi người làm chứng: Trước khi người làm chứng được hỏi về những tình tiết trong vụ
án, chủ tọa phiên tòa phải hỏi người làm chứng xem họ có mối quan hệ như thế nào với bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác; hỏi xem giữa những người làm chứng với bị cáo và các
đương sự có mâu thuẫn gì không… Khi xét hỏi người làm chứng, HĐXX tiến hành xét hỏi
trước sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Trong
trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên thì chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu cha,
mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy cô giáo giúp đỡ để hỏi. Sau khi đã trình bày xong, người làm
chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
- Hỏi người giám định: Việc hỏi người giám định tại phiên tòa được tiến hành sau khi người
giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề được giao giám định và giải thích bổ sung trên
cơ sở kết luận giám định. Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia phiên tòa có
quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi về những vấn đề còn chưa rõ hoặc mâu thuẫn
trong kết luận giám định. Nếu người giám định vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa công bố kết luận
giám định. Khi xét thấy cần thiết, HĐXX quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
* Công bố lời khai tại Cơ quan điều tra:
Theo khoản 2 Điều 208 BLTTHS, chỉ được công bố lời khai của người được xét hỏi tại Cơ

quan điều tra trong các trường hợp sau:
-

Lời khai tại phiên tòa của người được xét hỏi có mâu thuẫn với lời khai của chính họ tại
Cơ quan điều tra;

-

Người được xét hỏi không trả lời các câu hỏi được đưa ra tại phiên tòa;

-

Người được xét hỏi vắng mặt tại phiên tòa hoặc đã chết.

Đối với những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa, HĐXX và Kiểm sát viên không
được nhắc hoặc công bố lời khai tại Cơ quan điều tra trước khi họ khai báo. Trong mọi trường
hợp việc công bố lời khai tại Cơ quan điều tra “…không phải để khuất phục bị cáo mà là để
đảm bảo nguyên tắc tất cả các chứng cứ và tài liệu mà HĐXX căn cứ vào đó để xem xét, kết
luận đều đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, trong đó có những lời khai của bị can tại Cơ
quan điều tra”.
* Xem xét vật chứng và xem xét tại chỗ:
Trong quá trình xét hỏi, HĐXX có thể đưa những vật chứng có liên quan trong vụ án ra xem
xét vào bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên việc đưa vật chứng ra xem xét tại phiên tòa luôn phải
kết hợp với việc xét hỏi.
Trong trường hợp vật chứng không thể đưa đến xem xét tại phiên tòa được thì khi cần thiết,
HĐXX cùng Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có thể đến xem xét tại chỗ những
vật chứng này.


Điều 213 BLTTHS quy định, trong quá trình xét hỏi “nếu xét thấy cần thiết, HĐXX có thể

cùng Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét nơi
đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án”. Trong quá trình xem
xét tại chỗ, HĐXX, Kiểm sát viên và người bào chữa có thể đặt câu hỏi với những người liên
quan đến địa điểm đang được xem xét.
Ngoài ra trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa, để xem xét, đánh giá được vụ án một cách
đúng đắn, khách quan và toàn diện, trong quá trình xét hỏi HĐXX còn cho trình bày, công bố
các tài liệu của vụ án và những nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức về vụ án hoặc về bị cáo
(Điều 214 BLTTHS).
Theo quy định tại Điều 216 BLTTHS thì “khi nhận thấy những tình tiết của vụ án đã được
xem xét đầy đủ chủ tọa phiên tòa, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác
tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không. Trong trường hợp có người
yêu cầu xét hỏi thêm và nếu xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên tòa quyết định
tiếp tục việc xét hỏi”.
Như vậy, việc xét hỏi chỉ kết thúc sau khi các tình tiết của vụ án đã được làm sáng tỏ.
3. Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Theo từ điển Tiếng Việt năm 2003 của Viện ngôn ngữ học Việt Nam thì tranh luận được
hiểu là việc bàn cãi để tìm ra lẽ phải. Trong thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm, tranh luận là
bước tiếp theo sau phần xét hỏi tại phiên tòa.
Các chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động tranh luận gồm Kiểm sát viên, bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và một số người tham gia tố tụng
khác (trừ người làm chứng, người giám định và người phiên dịch). Trong phần tranh luận,
HĐXX không tham gia tranh luận mà chỉ theo dõi, lắng nghe các bên tranh luận với nhau. Chủ
tọa phiên tòa giữ vai trò là người điều hành các bên tham gia tranh luận theo quy định của pháp
luật. Trong quá trình các bên tranh luận với nhau, HĐXX không được đưa ra các ý kiến nhận
xét của mình về quan điểm, lập luận của những người tham gia tranh luận.
3.1 Trình tự phát biểu khi tranh luận
* Trình bày lời luận tội: Theo khoản 1 Điều 207 BLTTHS thì mở đầu phần tranh luận là
việc Kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Việc Kiểm sát viên trình bày lời luận tội được coi là
điều kiện để thực hiện tranh luận, vì qua lời luận tội của những người tham gia tố tụng mới xác
định được nội dung để tranh luận và đối đáp.

* Trình bày lời buộc tội tại phiên tòa: Buộc tội tại phiên tòa được hiểu là việc người bị hại
(hoặc người đại diện hợp pháp của họ) trình bày ý kiến buộc bị cáo về tội phạm đã thực hiện
đối với người bị hại đồng thời đề xuất với HĐXX về việc xử lý bị cáo và giải quyết các nội


dung khác tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Tuy
nhiên, BLTTHS lại không quy định cụ thể trình tự về việc trình bày lời buộc tội đó như thế nào.
* Bào chữa tại phiên tòa: Theo quy định tại khoản 3 Điều 217 BLTTHS thì sau khi Kiểm sát
viên trình bày lời luận tội, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người
này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
* Việc trình bày ý kiến của đương sự và người bảo vệ quyền lợi của đương sự: Theo khoản
3 Điều 217 BLTTHS thì sau khi người bào chữa và bị cáo đã trình bày lời bào chữa tại phiên
tòa, chủ tọa phiên tòa cho phép người bảo vệ quyền lợi của đương sự trình bày ý kiến bảo vệ
cho quyền lợi của đương sự mà mình bảo vệ, sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Trong các đương
sự thì người bị hại và người đại diên hợp pháp của họ hoặc người bảo vệ quyền lợi cho người bị
hại được trình bày ý kiến trước các đương sự khác.
3.2 Đối đáp tại phiên tòa
Đối đáp là sự trả lời của một người tham gia tranh luận đối với lời phát biểu của người
tham gia tranh luận khác.
BLTTHS quy định, sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội thì bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và
đưa ra đề nghị của mình, Kiểm sát viên phải đáp lại từng ý kiến của những người tham gia tố
tụng. Trong quá trình tranh luận, mỗi ý kiến có thể được các bên đối đáp nhiều lần. Chủ tọa
phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát
viên tranh luận (Điều 218 BLTTHS).
3.3 Trở lại việc xét hỏi
Theo quy định tại Điều 219 BLTTHS, trong quá trình tranh luận, nếu các bên có yêu cầu
xuất trình chứng cứ mới thì HĐXX phải xem xét quyết định trở lại phần xét hỏi nhằm kiểm tra
chứng cứ mới đó. Đồng thời qua quá trình tranh luận tại phiên tòa, nếu HĐXX thấy cần thiết

phải xem xét thêm chứng cứ thì mặc dù không có ai yêu cầu nhưng chủ tọa vẫn có thể quyết
định trở lại việc xét hỏi.
Khi trở lại việc xét hỏi, trình tự xét hỏi vẫn tiến hành bình thường như quy định của
BLTTHS về trình tự xét hỏi. Sau khi xét hỏi xong, chủ tọa phiên tòa lại cho các bên tiếp tục
tranh luận, đối đáp.
3.4 Xem xét việc rút quyết định truy tố
Theo quy định của BLTTHS thì luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào kết quả xét hỏi
tại phiên tòa. Mà kết quả xét hỏi tại phiên tòa chính là việc các chứng cứ trong vụ án đã được
kiểm tra và nội dung của vụ án đã sáng tỏ, trên cơ sở xét hỏi của các chủ thể theo quy định của


pháp luật. Vì vậy, qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa mà có căn cứ thì Kiểm sát viên có thể rút
một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa, nếu Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội
nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của BLTTHS. Nếu Kiểm sát viên
rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị cáo thì HĐXX vẫn xét xử vụ án. Nhưng trong trường
hợp này, trước khi nghị án HĐXX phải yêu cầu những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó.
3.5 Kết thúc tranh luận và lời nói sau cùng của bị cáo
Điều 220 BLTTHS quy định: “Sau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì
thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận. Bị cáo được nói lời sau cùng…”. Khi bị
cáo nói lời sau cùng, HĐXX không được đặt câu hỏi nhưng có quyền yêu cầu bị cáo không
được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án và không được hạn chế thời gian đối với
bị cáo. Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối
với vụ án thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
4. Nghị án và tuyên án
4.1 Quy định về việc nghị án
Nghị án trong TTHS được hiểu là việc HĐXX thảo luận, bàn bạc và thông qua bản án tại
phòng nghị án. Nghị án là một hoạt động đặc thù của HĐXX , theo quy định tại Điều 222
BLTTHS thì chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án.

Khi nghị án HĐXX chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Vì vậy qua việc nghị án, nếu thấy có tình tiết của vụ án
chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì HĐXX phải quyết định trở lại việc xét hỏi và
tranh luận theo trình tự được quy định trong BLTTHS.
Thực tiễn xét xử cho thấy những vấn đề mà HĐXX thông qua tại phòng nghị án xuất phát từ
tính chất của xét xử sơ thẩm là giải quyết toàn bộ nội dung vụ án, bao gồm: bị cáo có tội hay
không có tội; nếu bị cáo có tội thì là tội gì; theo điều khoản nào của BLHS; loại và mức hình
phạt mà HĐXX áp dụng đối với bị cáo; bị cáo có được hưởng án treo hay không; các biện pháp
tư pháp…
Trong quá trình nghị án, các thành viên của HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ
án bằng cách biểu quyết từng vấn đề một và mỗi vấn đề được thông qua khi có đa số thành viên
HĐXX biểu quyết tán thành. Khi biểu quyết về từng vấn đề trên thì các Hội thẩm biểu quyết
trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng.


Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố khi trình bày lời luận tội thì khi
nghị án HĐXX vẫn tiến hành thảo luận. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì HĐXX
tuyên bố bị cáo không có tội. Nếu thấy việc rút quyết định truy tố của Kiểm sát viên không có
căn cứ thì HĐXX phải quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp xem xét.
Việc nghị án của HĐXX phải được lập thành biên bản. Trong biên bản nghị án phải ghi
chép đầy đủ các ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX. Biên bản nghị án phải được các
thành viên trong HĐXX ký tên.
Trong quá trình nghị án, HĐXX không chỉ thảo luận và thông qua bản án, mà “cùng với
việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần
thiết để khắc phục những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức
đó”.
4.2 Quy định về việc tuyên án
Là kết quả của hoạt động xét xử công khai, trực tiếp nên bản án cũng được công bố một

cách công khai và trực tiếp tại phiên tòa thông qua việc tuyên án của HĐXX. Tuyên án là việc
HĐXX đọc toàn bộ nội dung bản án đã được thông qua trong phòng nghị án tại phiên tòa.
Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Trong trường hợp bản án quá
dài, chủ tọa phiên tòa có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy khi đọc
phần mở đầu và phần quyết định của bản án. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của
HĐXX đọc bản án sau đó có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.
Trường hợp bị cáo không biết tiếng Việt, ngay sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc
lại cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết.
II. Hoàn thiện những quy định của BLTTHS về thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm
Theo quy định của BLTTHS phiên toà hình sự được tiến hành theo 4 bước với sự phân định
chức năng giữa các chủ thể trong từng thủ tục không rõ ràng vì vậy thực tế phiên toà xét xử
diễn ra với hoạt động chủ yếu do HĐXX thực hiện. Thực trạng đó dẫn đến có những nhìn nhận
đánh giá sai lệch về hoạt động xét xử tại Toà án, cảm nhận chung khi theo dõi phiên toà hình sự
sơ thẩm là Toà án tiến hành khẳng định các chứng cứ buộc tội có sẵn trong hồ sơ vụ án hình sự
để ra phán quyết. Trong khi hoạt động xét xử có yêu cầu toàn diện hơn rất nhiều, đó là tìm hiểu
cân nhắc để nhận biết, đánh giá đúng đắn sự việc để đưa ra kết luận khách quan về vụ án hình
sự. Việc tìm hiểu cân nhắc để xác định sự thật vụ án có thể được tiến hành bởi nhiều hoạt động
và không phải trong thủ tục nào HĐXX cũng trực tiếp tham gia như một chủ thể bắt buộc. Có
những hoạt động tố tụng mà HĐXX sẽ chỉ giữ vai trò điều khiển nghe các bên trình bày, lập
luận rồi từ đó cân nhắc để quyết định tính đúng sai trong yêu cầu do các chủ thể khác đưa ra.


Xác định đúng đắn vai trò của từng chủ thể để quy định thủ tục hợp lý trong phiên toà sơ thẩm
sẽ đảm bảo xác định sự thật vụ án khách quan, toàn diện, đầy đủ, đồng thời bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng.
1. Sửa đổi quy định về thủ tục bắt đầu phiên toà
Trong các quy định tại phần thủ tục bắt đầu phiên toà cần xem xét sửa đổi quy định tại điều
205 BLTTHS (Giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên toà khi có người
vắng mặt). Điều 205 BLTTHS quy định: “Chủ toạ phiên toà phải hỏi KSV và những người
tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật

chứng và tài liệu ra xem xét hay không.” Qua quy định này có thể thấy pháp luật TTHS bảo
đảm sự bình đẳng trước Toà án giữa đại diện VKS và những người tham gia tố tụng trong việc
giải quyết các yêu cầu, trong việc cung cấp nguồn chứng cứ cũng như đưa ra chứng cứ trực
tiếp. Tuy nhiên nghiên cứu quy định về thủ tục tố tụng trong phần xét hỏi, tranh luận tại phiên
toà có thể nhận thấy yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng
và tài liệu ra xem xét chỉ được giải quyết khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên toà.
Điều 191,192 của BLTTHS 2003 quy định Toà án có thể vẫn tiến hành xét xử vắng mặt
người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác, trong khi xét hỏi HĐXX sẽ công bố lời
khai của họ tại cơ quan điều tra theo quy định tại Điều 208. Trong trường hợp các chứng cứ
được công bố trong lời khai của những người vắng mặt mâu thuẫn với các chứng cứ mà Toà án
thu được trực tiếp tại phiên toà mà việc giải quyết được mâu thuẫn đòi hỏi phải triệu tập thêm
người làm chứng, KSV hoặc người tham gia tố tụng có yêu cầu thì theo quy định của BLTTHS
yêu cầu này sẽ không được chấp nhận. Căn cứ để HĐXX không chấp nhận yêu cầu này vì việc
giải quyết yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra
xem xét chỉ tiến hành ở phần thủ tục bắt đầu phiên toà.
Nâng cao chất lượng tranh tụng là một yêu cầu trong tiến trình cải cách tư pháp, để đảm bảo
bản án của Toà án được phán quyết trên cơ sở các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại
phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứg cứ, ý kiến của KSV, bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác thì trong trường hợp này yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng… dù ở bất kỳ thời điểm nào tại phiên toà nếu xét thấy cần thiết đều phải được
giải quyết. Quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng phải là quyền không bị hạn chế, quy
định này sẽ là bổ sung những yếu tố tranh tụng vào thủ tục tố tụng xét hỏi của TTHS Việt Nam
và là những bước đi ban đầu tiến tới xây dựng thủ tục phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp.
2. Sửa đổi quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên toà
Chương XX “Thủ tục xét hỏi tại phiên toà” đổi thành “Thủ tục điều tra xét hỏi tại phiên
toà”.


Điều 206 hiện nay quy định “Trước khi tiến hành xét hỏi, KSV đọc bản cáo trạng và trình
bày ý kiến bổ sung, nếu có” sau đó HĐXX sẽ tiến hành xét hỏi để xác định các tình tiết của vụ

án. Quy định này làm cho quá trình tiến hành xét xử tại phiên toà giống như việc HĐXX kiểm
tra lại các chứng cứ trong cáo trạng do KSV công bố mà chưa biết được ngay bên bị buộc tội có
đồng ý hay không. Phiên toà vì vậy sẽ khó đảm bảo bình đẳng giữa các bên. Điều 206 có thể
được sửa đổi như sau:
Điều 206. Bắt đầu điều tra xét hỏi tại Toà án
“Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung,
nếu có. Chủ toạ phiên toà hỏi bị cáo xem nội dung cáo trạng vừa công bố có giống cáo trạng bị
cáo đã được nhận hay không. Bị cáo, người bào chữa có đồng ý hay không đồng ý với kết luận
nào trong cáo trạng.”
Điều 207 BLTTHS 2003 quy định trình tự xét hỏi với thứ tự HĐXX hỏi trước rồi đến KSV,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đã đặt trách nhiệm chứng minh chủ yếu
vào HĐXX, trong khi phải xác định rõ KSV thay mặt VKS công bố cáo trạng phải có trách
nhiệm đưa ra chứng cứ và chứng minh tính đúng đắn của các chứng cứ trước Toà án. Người
bào chữa, bị cáo nếu không đồng ý thì có thể đưa ra các chứng cứ thể hiện sự không đồng tình.
Vì vậy có thể tạm thời hình dung bước thứ 2 sau khi các bên có ý kiến là việc đưa ra chứng cứ
để chứng minh.
Điều 207. Trình tự xem xét chứng cứ
1. Viện kiểm sát đưa ra chứng cứ trước. Người bị hại, nguyên đơn dân sự và người bảo vệ
quyền lợi của họ có thể đưa thêm các chứng khác. Sau khi xem xét chứng cứ do Viện kiểm sát
và các chủ thể trên đưa ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét các chứng cứ do bị cáo, người bào
chữa, bị đơn dân sự, người bảo vệ quyền lợi của họ đưa ra.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị cáo thì trình tự đưa ra chứng cứ của các bị cáo do
Chủ toạ phiên toà quyết định.”
Điều 209 hiện nay quy định về thứ tự xét hỏi bị cáo theo đó khoản 1 quy định “HĐXX phải
hỏi riêng từng bị cáo”, khoản 3 quy định “KSV hỏi về những tình tiết liên quan đến việc buộc
tội…”. Chính quy định như vậy nên thực tế khi xét hỏi, việc xét hỏi chủ yếu do HĐXX tiến
hành và trong trường hợp những tình tiết của vụ án đã được làm sáng tỏ KSV thường không hỏi
nữa. Xác định Toà án đứng giữa nhằm xem xét chứng cứ do các bên đưa ra có thể sửa đổi Điều
209 theo hướng quy định trách nhiệm hỏi như sau:
Điều 209. Hỏi bị cáo

1. Các bị cáo được hỏi riêng nếu vụ án có nhiều bị cáo. Chủ toạ phiên toà có thể cho cách
ly các bị cáo nếu lời khai của các bị cáo có ảnh hưởng đến nhau. Trong trường hợp này bị cáo


bị cách ly được thông báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với
bị cáo đó.
2. Kiểm sát viên hỏi bị cáo, sau đó đến người bị hại, người bảo vệ quyền lợi của người bị
hại và các chủ thể thuộc bên buộc tội; sau đó đến lượt người bào chữa và những người tham
gia tố tụng thuộc bên bị buộc tội hỏi bị cáo. Chủ toạ phiên toà sẽ không chấp nhận các câu hỏi
có tính chất gợi ý hoặc không liên quan đến vụ án.
3. Sau khi các bên đã hỏi bị cáo, Hội đồng xét xử hỏi bị cáo
4. Giữ nguyên
Cũng trên cơ sở xác định trách nhiệm xét hỏi như trên, Điều 211 đề xuất sửa đổi như sau:
Điều 211. Hỏi người làm chứng
1. Người làm chứng được hỏi riêng và không có mặt những người làm chứng chưa được
đưa ra xét hỏi.
2. Trước khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ mối quan hệ giữa họ với bị
cáo và các đương sự trong vụ án.
Bên yêu cầu triệu tập người làm chứng đến phiên toà hỏi người làm chứng trước. Sau khi
các bên hỏi xong, Hội đồng xét xử đưa ra câu hỏi với họ.
3. Giữ nguyên
4. Giữ nguyên
5. Giữ nguyên
3. Bổ sung một số quy định chương Tranh luận tại phiên toà
Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước Toà án được
tôn trọng và thực hiện trên thực tế, có một vài đề xuất một vài bổ sung trong phần tranh luận
như sau:
Điều 220. Bị cáo nói lời sau cùng
“…Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối
với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi. Sau khi xét hỏi Toà án lại

cho tiến hành tranh luận và cho phép bị cáo nói lời sau cùng”.
Điều 221. Kết luận về việc truy tố
1. Sau khi các bên tham gia tranh tụng đã trình bày ý kiến và đối đáp xong, Kiểm sát viên
kết luận về việc truy tố của Viện kiểm sát.
Kiểm sát viên có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về một tội danh
nhẹ hơn khi kết luận về việc truy tố.
2. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì HĐXX
vẫn tiếp tục xét xử vụ án.


3. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án,
HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng có quyền, nghĩa vụ trong vụ án trình bày ý kiến
của mình về việc rút truy tố đó.
4. Bổ sung, thay đổi một số quy định trong chương Nghị án và tuyên án
Hiện nay BLTTHS chưa có quy định cụ thể về việc HĐXX công bố thời gian nghị án và
tuyên án. Mặc dù trên thực tế tại phiên toà bao giờ thủ tục này cũng được thực hiện. Để đảm
bảo hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là hoạt động xét xử công khai của Toà án
đúng pháp luật cần bổ sung thêm quy định này vào BLTTHS. Bổ sung Điều 222 như sau:
Điều 222. Nghị án
“Trước khi nghị án, chủ tọa phiên tòa phải thông báo công khai cho những người tham
gia tố tụng tại phiên toà về thời gian tuyên án…”.
Điều 223. Trở lại việc xét hỏi và tranh luận
Qua nghị án nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì
HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận. Sau khi xét hỏi và tranh luận, Hội đồng xét
xử cho bị cáo nói lời sau cùng.”
Sửa đổi quy định tại điều 227 BLTTHS: Theo quy định HĐXX phải tuyên bố trả tự do ngay
tại phiên toà cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội khác trong
trường hợp “Bị cáo bị xử phạt bằng các hình phạt không phải là hình phạt tù” (khoản 3 điều
227). Căn cứ vào quy định này có thể hiểu HĐXX phải trả tự do cho bị cáo cả khi bản án tuyên
hình phạt là tử hình, trục xuất (vì đây không phải là hình phạt tù). Mặc dù thực tế áp dụng

không HĐXX nào trả tự do trong trường hợp nêu trên vì đều hiểu hình phạt không phải là hình
phạt tù trong quy định tại điều luật là nói đến hình phạt ít nghiêm khắc hơn như cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ…Tuy nhiên để đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ trong quy định của pháp
luật cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 227 như sau: “Bị cáo bị xử bằng hình phạt không
phải là hình phạt tù trừ trường hợp bản án tuyên bị cáo bị phạt tử hình hoặc trục xuất.”
C. KẾT BÀI
Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm là trình tự tiến hành xét xử lần đầu nhằm giải quyết toàn
diện vụ án hình sự tại phiên tòa, được quy định trong BLTTHS năm 2003. Theo đó, một phiên
tòa hình sự sơ thẩm phải trải qua các bước tuần tự từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến thủ tục xét
hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Mặc dù mỗi bước tiến hành tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm có những nhiệm vụ, mục đích cụ thể khác nhau nhưng mục đích chung, cuối cùng vẫn là
hướng tời việc giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn trên cơ sở một bản án công minh,
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật của Tòa án.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gíao trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp,
Hà Nội – 2006
2. Thủ tục phiên toà hình sự sơ thẩm theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 :
Luận văn thạc sĩ luật học / Đào Trung Kiên; Người hướng dẫn: PGS TS Trần Văn Độ
H., 2008
3. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần cải
cách tư pháp, Chủ nhiệm đề tài TS. Hoàng Thị Minh Sơn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội – 2009



×