Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Một số vấn đề lí luận về thuế và pháp luật thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.99 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. LỜI MỞ ĐẦU
2
B. NỘI DUNG
2
I. Một số vấn đề lí luận về thuế và pháp luật thuế ........................................ 2
1. Khái niệm chung về thuế .......................................................................... 2
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế ............................................................ 2
1.2. Phân loại thuế ........................................................................................ 3
2. Khái niệm pháp luật thuế ......................................................................... 4
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay .......................................... 5
III.Thực trạng việc áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam – Giải pháp nhằm
phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế ........................................................................................................... 8
1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam ........................................ 8
2. Nguyên nhân của thực trạng ..................................................................... 11
3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế ........................................................................... 14
C. KẾT LUẬN
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
17

1


A. LỜI MỞ ĐẦU
Hơn 20 năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và
hội nhập, hệ thống chính sách thuế đã được cải cách và hoàn thiện không ngừng để
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu vai trò của pháp luật thuế


và những giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao hiệu lực của
hệ thống pháp luật thuế, và từ đó phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn tới.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lí luận về thuế và pháp luật thuế
1. Khái niệm chung về thuế
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu
khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Sự
phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn, lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công
cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã hội ấy.
Để đưa ra khái niệm mới về thuế hoàn toàn không đơn giản. Các nhà kinh tế
học đã có quá trình nghiên cứu sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm tìm khái
niệm thuế theo cách đánh giá của mình. Các Mác viết “thuế là cơ sở kinh tế của bộ
máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của
người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước”. (1) Bằng cách định nghĩa khác,
các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng thuế là “một hình thức phân phối thu nhập tài
chính của Nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị,
tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế và không
hoàn lại”.(2) Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh
của luật pháp, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định “thuế là một trật tự
xã hội đã được thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng

1(1).

Xem: Các Mác, Ăng ghen Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961.

2(2).


Xem: Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Đại từ điển kinh tế thị trường, Hà
Nội, 1998, tr. 669.
2


thực hiện nghĩa vụ thu, nộp vào ngân sách. Thuế không có bất kỳ sự phân biệt đối
xử nào giữa các bang hay vùng lãnh thổ”.(3)
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa về thuế như vậy nhưng chúng ta có thể đưa
ra một khái niệm chung về thuế như sau: thuế là các khoản thu nộp mang tính bắt
buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều
kiện nhất định. Từ đó, ta có thể thấy thuế mang những đặc điểm sau:
+ là khoản thu bắt buộc;
+ do Quốc hội ban hành;
+ không mang tính chất đối giá;
+ không có tính hoàn trả trực tiếp.
1.2. Phân loại thuế
Căn cứ vào mục đích điều tiết, thuế có hai loại cơ bản là thuế trực thu và
thuế gián thu.
Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập, thuế đánh vào của
cái, thuế đánh vào đối tượng thường trú. Chúng được gọi là thuế trực thu vì người
có nghĩa vụ nộp thuế thường là người gánh chịu thuế. Nói cách khác, người nộp
thuế không thể chuyển nghĩa vụ thuế sang cho các đối tượng khác. Thuế trực thu có
ưu điểm đảm bảo sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người
nộp thuế nhưng thường gây ra sự phản ứng về thuế của người nộp thuế do không có
sự chuyển dịch về thuế và có một sự đảm bảo chắc chắn rằng phải thực hiện một
nghĩa vụ nộp tiền.
Thuế gián thu bao gồm các loại thuế như thuế xuất nhập khẩu, thuế gắn với
sản xuất và bán hàng hóa. Gọi chung là thuế gián thu vì người gánh chịu thuế là
khách hàng, nhưng người nộp thuế lại là người bán hàng, nhà nhập khẩu. Nói khác
đi, đã có sự chuyển dịch nghĩa vụ thuế từ khách hàng sang người kinh doanh. Thuế

gián thu có ưu điểm thường hạn chế sự phản ứng thuế từ người gánh chịu thuế
nhưng lại không tạo ra sự bình đẳng về điều tiết thu nhập của những đối tượng có
thu nhập chênh lệch.
Căn cứ vào đối tượng tính thuế, có thuế đánh vào tài sản, thuế đánh vào thu
nhập và thuế tiêu dùng.
3().

Xem: Taxation Law in Australia. Geoffrey Lehmann, Cynthia Coleman. Butterworths, 1997.
3


Thuế tài sản là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh vào
phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó. Các loại thuế như thuế nhà đất, thuế vốn,
thuế chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn là loại thuế tài sản.
Thuế đánh vào thu nhập chỉ thực hiện đối với những đối tượng có giá trị
thặng dư phát sinh từ tài sản của họ. Các loại thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân có đối tượng tính thuế là những phần thu nhập phát sinh
trong quá trình sử dụng tài sản của mình hay do kết quả của lao động…
Thuế tiêu dùng, phần lớn là loại thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt.
Ngoài các tiêu chí phân loại và nội dung phân loại trên đây, còn có rất nhiều
tiêu chí phân loại và nội dung phân loại thuế, tùy theo mục đích của người nghiên
cứu đánh giá.
2. Khái niệm pháp luật thuế
Quan hệ thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên
những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực
hiện các mục tiêu xác định trước. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân

định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp
luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt Nam cho
thấy pháp luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, sử
dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cái xã hội mà không phụ
thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Điều này cũng giúp cho việc
phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách nhà nước mặc dù giữa luật thuế và luật
ngân sách nhà nước có mối liên hệ nội tại.
Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Luật quản lý thuế 2006;
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
- Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008;
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008;
4


- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008;
- Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007;
- Luật thuế tài nguyên năm 2009;
- Luật thuế sư dụng đất phi nông nghiệp năm 2010 (chưa có hiệu lực).
- Các nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các
nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với
các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng,
chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước. Theo kết quả nghiên
cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia đã cho

thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở Việt Nam, từ
những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu
ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một
phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ thuế
chiếm khoản 90% tổng thu ngân sách Nhà nước (theo Chiến lược cải cách hệ thống
thuế giai đoạn 2001 – 2010). Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách Nhà nước
được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước quy định rõ “Ngân sách
Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn
tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát
triển”.
Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất của sự điều chỉnh quan hệ
pháp luật thu – nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách nhà nước. Hầu hết các quốc
gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách nhà nước.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của
nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt
động mà đòi hỏi nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập
5


trung nguồn tài chính vào ngân sách nhà nước, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi
ngày càng tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay,
nguồn thu nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả.
Trước tiên, thuế là một công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài.
2. Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
và đời sống xã hội. Hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng thông qua sự phân bổ và
sử dụng các nguồn lực. Nó cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích hiệu

quả sản xuất kinh doanh.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của
mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực
hiện công bằng xã hội.
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, pháp luật thuế còn
có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều 26 Hiến
pháp 1992 ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt
Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, nhà nước thể chế hóa và thực hiện
chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà
nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm
thuế… Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò
này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến
tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các
thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn
chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, nhà nước chủ động can thiệp đến
cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của nhà nước để điều chỉnh cung – cầu của
6


nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh
tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, nhà nước tác động một cách tích cực đến
tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Điều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, nhà nước tác động đến các

quan hệ tiêu dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng
hóa, dịch vụ. Nhà nước tăng thuế suất, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…
đối với việc sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và
khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định
khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất khẩu, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự
khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất
phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy
định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc
phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, nhà nước có tác
động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng
hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu
và cơ cấu kinh tế.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành
nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và
công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều
kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
7


Vai trò điều thiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp

luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi nhà nước phải sử
dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất cân đối về mặt
xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm
công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ
thông qua các quy định của pháp luật thuế. Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu
nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của
pháp luật thuế và cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có
tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp
luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế
suất. Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó cũng không làm triệt tiêu vai trò
pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý thuế
cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn
với chế độ hóa đơn chứng từ, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức
kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn
đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế, trên cơ sở
đó có hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng
trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các
đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân
thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát
hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm
trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
III.Thực trạng việc áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam – Giải pháp nhằm
phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế.

1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam
8


1.1. Năng lực thuế thấp
Nguồn thu thuế ở nước ta chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu ngân
sách nhà nước với khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên 90% (các
nước Bắc Âu trên 95%), trong đó thì:
- Thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên,
khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam
đang tham gia.
- Thu từ thuế gián thu chiểm tỷ trọng lớn trong đóng góp ngân sách Nhà
nước, 45% trong giai đoạn 2001 – 2005. Các loại thuế gián thu ở Việt Nam bao
gồm thuế xuất khẩu – thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
phí xăng, dầu.
Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và
VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập nhập
khẩu giảm theo.
Kinh tế thế giới khủng hoảng và kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động mạnh,
theo dự kiến thì tăng trưởng kinh tế 2009 chỉ dạt 5 - 6% (giảm 0.5 – 1.5% so với
mức Quốc hội thông qua, chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 9% sẽ làm cho Ngành thuế
quản lý 2009 giảm thu khoảng 5 – 7% so với dự toán được giao.
Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế cũng đã làm cho giảm thu thuế
5% - 6% so với được giao, thêm nữa là giá cả của dầu thô dao động trong khoảng
70USD cũng làm giảm thu ngân sách.
Theo báo cáo của Tổng cục thuế (Bộ Tài chính), việc thực hiện các giải pháp
về thuế làm giảm số thu ngành thuế năm 2009 khoảng 16% – 20% so với dự toán
được giao.
1.2. Thất thu thuế lớn

Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp chống
thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các
đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn
thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể hiện trong thuế thu nhập
cá nhân (với người có thu nhập cao) mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia
tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho
9


khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa
đơn. Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó nhà nước không thu được thuế, cả
thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những
gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ
thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các doanh nghiệp.
Thanh tra Chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của
ngành thuế trong thời gian qua. Thanh tra chính phủ cho biết, sau khi hoàn tất việc
thanh tra tại Tổng Cục thuế, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế Tp Hồ Chí Minh đã phát
hiện nhiều sai phạm với số tiền hơn 11.000 tỷ đồng.
Thanh tra Chính phủ cho rằng, việc Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế và một số
Cục thuế địa phương ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về thuế
đã dẫn đến thất thu thuế và trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư,
kinh doanh.
Tổng số tiền thuế thất thoát do một số văn bản không đúng quy định của
pháp luật được ban hành là hơn 373 tỷ đồng. Trong đó, việc hướng dẫn miễn, giảm
thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hoạt động dịch
vụ cung cấp suất ăn công nghiệp cho doanh nghiệp chế xuất không đúng quy định
đã làm thất thu 233,4 tỷ đồng.
Ngoài những bất cập nêu trên, trong bài viết Áp dụng pháp luật trong lĩnh
vực thuế của Ths. Trần Vũ Hải – giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội cũng chỉ

ra một số hạn chế tiêu biểu trong việc áp dụng pháp luật thuế. Đó là:
- Xác định sai số tiền thuế: trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý thuế là chủ
thể trực tiếp xác định số tiền thuế hoặc kiểm tra việc tự xác định số thuế của chủ
thể nộp thuế nhưng đã xác định sai số thuế. Việc này thường dẫn đến tranh chấp,
khiếu nại do cơ quan thuế đã xác định số tiền thuế phải nộp nhiều hơn thực tế.
- Thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn của cấp trên: Một
trong những đặc trưng của áp dụng pháp luật chính là đưa những quy định áp dụng
chung vào từng trường hợp cụ thể. Tuy những hướng dẫn của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền như Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã tương đối đầy đủ, nhưng việc
vận dụng tại các cơ quan quản lý thuế tại địa phương còn nhiều lúng túng. Nếu chỉ
nhìn vào số lượng những thắc mắc của Cục thuế địa phương gửi lên Tổng cụ thuế,
10


sẽ rất dễ dẫn đến quan niệm rằng pháp luật thuế còn rất nhiều bất cập cần khắc
phục hoặc nhiều trường hợp còn chưa có quy định. Tuy nhiên, nếu đọc công văn trả
lời của Tổng cục thuế thì sẽ thấy ngay rằng đại đa số các trường hợp thắc mắc đều
đã được giải thích hết sức rõ ràng qua Thông tư hướng dẫn thi hành. Điều đó chứng
tỏ, việc nắm vững và vận dụng pháp luật thuế của các Cục thuế địa phương còn rất
nhiều hạn chế.
- Chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế: Ưu đãi thuế là những quy định
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể nộp thuế trong hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc chia sẻ gánh nặng thuế khi chủ thể nộp thuế gặp những sự cố khách
quan bất lợi (thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ…). Chính sách ưu đãi thuế chỉ thực
sự có hiệu quả khi việc triển khai thực hiện được nhanh chóng và đúng đối tượng.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế
hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức quản
lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách vượt ra ngoài những
yêu cầu của pháp luật. Không kể đến mục đích gây khó khăn để thực hiện hành vi
tham nhũng, thì những yêu cầu quá mực này đã cản trở chủ thể nộp thuế thực hiện

quyền của mình một cách hợp pháp, làm giảm hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi
thuế.
- Còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được giải quyết
thỏa đáng: Với thực trang đã phân tích ở trên, thì hiện tượng khiếu nại, tố cáo chắc
chắn sẽ xuất hiện. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, việc khiếu nại, tố cáo là
quyền của cá nhân, tổ chức và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng nghĩa với việc
công chức quản lý thuế hay cơ quan quản lý thuế đã vi phạm pháp luật. Bên cạnh
những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo thỏa đáng, đúng pháp luật, cũng vẫn
còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không được giải quyết đúng thời hạn, dây
dưa, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực tiếp theo của cá nhân, tổ chức khiếu
nại, tố cáo. Bên cạnh đó, hiện tượng bao biện, không nhận trách nhiệm và không xử
lý đúng pháp luật công chức quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế mắc sai phạm cũng
làm cho sự việc càng trở nên phức tạp hơn.
2. Nguyên nhân của thực trạng
2.1. Ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu kém.
11


Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước, và đồng thời để nhà nước
thực hiện các chức năng của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà
nước thường không cụ thể, nên đối với một số chủ thể nộp thuế, những thiệt hại vật
chất cụ thể dường như lớn hơn so với những giá trị vô hình mà nhà nước đem lại.
Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để
làm giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp luật.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế
không phải có được ngay lập tức bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá
nhân, tổ chức trong xã hội thật sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa
vụ nộp thuế. Ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên thông qua nhiều phương

thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu quả. Theo
đánh giá của chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến, nhưng công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung, do vậy hiệu
quả còn nhiều hạn chế.
2.2. Trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn
bản, số lượng chủ thể nộp thuế ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, những thủ đoạn
gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó khăn không nhỏ cho công tác quản
lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức được việc trau dồi, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không đồng đều. Nhiều địa phương,
trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác,
nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, làm sai hoặc sợ
làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc ra quyết định.
Thêm vào đó, chính vì nhận thức không đúng về vai trò của chủ thể nộp
thuế, nên một số công chức thuế luôn giữ quan niệm, chủ thể nộp thuế là “những kẻ
muốn trốn thuế”, nên nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay, nhưng vẫn
cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc, chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
2.3.Trong công tác quản lý và ra quyết định quản lý thuế còn nhiều tiêu cực
12


Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, công chức thuế thông đồng với chủ
thể nộp thuế để gian lận thuế vẫn còn xảy ra. Những tiêu cực này đã dẫn đến những
quyết định trái pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể
khác nên thường gây ra tình trạng khiếu kiện, tố cáo và thất thoát cho ngân sách
nhà nước. Mặc dù trong thời gian vừa qua, công tác phòng và chống tham nhũng
được đẩy mạnh, nhưng nhiều vụ việc trốn lậu thuế bị phát hiện thường có liên quan
đến công chức quản lý thuế. Từ những phản ánh trên các phương tiện thông tin đại
chúng và các vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, thì có thể

khẳng định rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động quản lý
thuể còn khá phổ biến như đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng nhiều
hình thức tinh vi khác.
2.4. Cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp ứng nhu
cầu nhiệm vụ.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ
thông tin, thì những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước ngày
càng được đẩy mạnh. Với số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế như khai thuế qua mạng internet,
phần mềm dữ liệu quản lý thông tin người nộp thuế, các trang website thông tin về
ngành thuế… nếu được đầu tư thoả đáng sẽ đem lại những cải thiện đáng kể, nhằm
giảm chi phí xã hội dành cho công tác quản lý thuế, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành
thuế nhìn chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào
tạo công chức quản lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng
công nghệ thông tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.
2.5. Còn nhiều hạn chế về tính hợp lý và sự minh bạch của hệ thống pháp luật
thuế
Có lẽ trên hết, hiệu quả áp dụng pháp luật chịu ảnh hưởng lớn nhất từ chính
các quy định pháp luật được áp dụng. Như chúng ta đã biết, nếu pháp luật phù hợp
với thực tiễn kinh tế xã hội và có tính định hướng, thì sẽ góp phần phát triển kinh tế
xã hội và ngược lại, nếu pháp luật bất cập thì sẽ kìm hãm sự phát triển.
Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay đang trong giai đoạn hoàn
thiện nên không tránh khỏi những bất cập. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển
13


nhanh, “bỏ xa” những quy định pháp luật cũng là một thực tế. Hiện nay, hệ thống
pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý, nên khi
áp dụng vào thực tiễn sẽ gặp khó khăn, không hiệu quả.

3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế
Đất nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang rất cần
một nguồn tài chính đủ mạnh. Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn thiện quản lý
thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước cần tiền hành với những nội
dung sau:
Một là, hoàn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế theo hướng:
- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải
huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất
vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế).
- Xác định và lựa chọn đúng mục tiêu của thuế: mục tiêu của thuế chủ yếu là
kích thích, điều tiết kinh tế và tăng thu cho ngân sách nhà nước, không nên đặt ra
cho thuế phải thực hiện một lúc nhiều mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội.
- Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các
tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế.
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục, dễ
hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp nhận.
- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều
tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.
- Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh tình
trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm
soát của người nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế.
- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ bản
của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội.

14



- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng
nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế không
hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
Hai là, kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận
thức của mỗi cán bộ thu thuế, mặc khác cũng tăng cường thanh tra kiểm tra để
phát hiện và xử lý ngay sai phạm.
Cơ quan thuế các cấp sẽ thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá phân tích, dự
báo những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, làm
rõ những khoản còn thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy
giảm kinh tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế
giới và trong nước tác động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối
Doanh nghiệp để có những đề xuất, kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà
suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
Ngành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành,
các cấp có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá
cả, xử lý kịp thời các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất
của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạnh hoạt động đầu
tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra sẽ được ngành Thuế đẩy mạnh và làm
quyết liệt trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát, xử
lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý
vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biên pháp thu hồi nợ thuế,
triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ đọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có
dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung
vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có
số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có dấu hiệu thất thu
lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn

đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã kết luận vào ngân sách Nhà nước.
Ba là, tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát
triển cơ sở hạ tầng ngành thuế.
15


Như trên đã phân tích, sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi
hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương
xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng
công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản lý thuế phải được bồi dưỡng
nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần
phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu
thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
Bốn là, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức
và dân cư về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách
nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, đây là một sức mạnh to lớn để thực hiện chính
sách trốn thuế, lậu thuế…
C. KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta, pháp luật thuế
cần phải được thường xuyên sửa đổi, thay thế và bổ sung để đáp ứng nhu cầu của
nhà nước và phù hợp với đời sống xã hội.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. CAND, Hà

Nội, 2010.

2.

Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.

3.

Luật quản lí thuế năm 2006.

4.

Nguyễn Văn Tuyến, “Bản chất của thuế - sự tiếp cận từ các học thuyết thuế cổ
điển và hiện đại”, Tạp chí luật học, số 5/2009.

5.

“Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài khoa học
cấp trường năm 2008.

6.

Trần Vũ Hải, “Thực trạng pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện
nay và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí luật học, số 10/2007.

7.

Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 3,

tháng 3/2008.

17



×