Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.69 KB, 17 trang )

Bài tập lớn học kỳ

Môn: luật thương mại

Đề bài: Tìm hiểu pháp luật về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa

BÀI LÀM
Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại
có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, bảo hiểm
và chia sẻ rủi ro đối với các nhà sản xuất, kinh doanh. Trong nền kinh tế thị
trường việc hình thành và phát triển hoạt động này ở nước ta trong thời điểm hiện
nay là yêu cầu cần thiết nhằm tạo ra một thị trường mới cho trao đổi hàng hóa
phát triển trong điều kiện hoàn thiện các hoạt động thương mại phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tự do kinh doanh và hội nhập nền kinh tế quốc
tế. Dưới góc độ pháp lý, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa trong luật
thương mại Việt Nam là một chế định hoàn toàn mới. Các quy định của luật tại
chế định này đã bắt đầu ghi nhận hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là một trong các hoạt động thương mại và được nhà nước bảo đảm thực
hiện. Tuy nhiên, các giai đoạn này chỉ dừng ở mức độ là các quy định khung, xác
định các nguyên tắc cho việc hoàn thành mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa. Ở nước ta, việc nghiên cứu bản chất kinh tế, cơ chế tổ chức và hoạt động cũng
như các quy định của pháp luật có liên quan tham khảo học tập kinh nghiệm của
nước ngoài đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch phù hợp với thực tiễn nước ta là một yêu cầu tất yếu đặt ra cho cơ quan nhà
nước trong thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung và các hoạt
động thương mại nói riêng

B GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Một số quy định về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
1.Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa


Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được hiểu là hoạt động thương
mại theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của
một loại hàng hóa nhất định qua sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của
sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và
thời gian giao hàng được xét tại một thời điểm trong tương lai
Từ khái niệm ta có thể thấy mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa có
những điểm riêng biệt so với mua bán hàng hóa thông thường. Đó là:
Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, sở giao dịch có tư cách là
người trung gian giữa các bên trong giao dịch.
Trần Thị Chiền-HC33C037

1


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
Đối tượng giao dịch là hàng hóa có cung cầu lớn và thường xuyên có sự biến
động về giá trên thị trường.
Việc mua bán hàng hóa được thực hiện theo các tiêu chuẩn nhất định do sở
giao dịch hàng hóa quy định gồm các tiêu chuẩn về loại hàng hóa, số lượng, giá cả,
thời hạn giao kết hợp đồng và thời hạn giao hàng tại một thời điểm trong tương
lai.
Mục đích của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là tìm kiếm lợi
nhuận do sự chênh lệnh giá giữa lúc ký kết và lúc giao hàng và bảo hiểm rủi ro về
giá.
Đây là những điểm để ta có thể phân biệt được hoạt động mua bán hàng hóa
và mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
2.Đặc điểm của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán hàng háo qua sở giao dịch bao
gồm bên bán và bên mua, bên cạnh đó còn có một số chủ thể đặc biệt mà hợp đồng

mua bán hàng hóa thông thường không có.Trong thị trường mua bán hàng hóa
tương lai có tổ chức có ba chủ thể chính tham gia là các nhà giao dịch, nhà môi giới
và khách hàng.
Nhà giao dịch là những thành viên tham gia vào hoạt động mua bán hàng
hóa kỳ hạn quyền chọn cho chính bản thân họ, giao dịch từ chính tài khoản của họ.
Họ tham gia với mục đích đầu cơ hoặc tự bảo hiểm sự rủi ro cho mình và thường
là các nhà kinh doanh hay nhà sản xuất lớn, am hiểu về mua bán kỳ hạn quyền
chọn.
Nhà môi giới là một loại thương nhân ở sở giao dịch hàng hóa, có thể là một
nhà buôn độc lập hoặc đại diện cho một công ty môi giới lớn. Họ thực hiện các giao
dịch cho những người không phải là thành viên của sở giao dịch để kiếm tiền bằng
cách thu một khoản tiền gọi là phí hoa hồng của người mua hoặc bán các hợp đồng
kỳ hạn hoặc quyền chọn khi họ tham gia vào mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa
Khách hàng là người bán hoặc người mua tham gia vào giao dịch hàng hóa
tương lai thông qua nhà môi giới. Khách hàng ủy thác cho nhà môi giới thực hiện
việc mua bán tại sở giao dịch trên cơ sở thiết lập một hợp đồng môi giới thực hiện
việc mua bán hàng hóa tại sở giao dịch trên cơ sở thiết lập một hợp đồng môi giới.
Sau đó, người môi giới sẽ bảo đảm với sở giao dịch về việc thực hiện hợp đồng
được ký cho khách hàng bằng việc chính nhà môi giới là người ký hợp đồng.
Bên cạnh đó còn có một số chủ thể khác là các nhà tư vấn thực hiện việc
phân tích thị trường lập báo cáo, cho ý kiến tư vấn hoặc đưa ra các đề xuất về việc
mua bán hợp đồng kỳ hạn cho một số người nào đó và thu phí dịch vụ, các đại lý
Trần Thị Chiền-HC33C037

2


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại

giao dịch được cấp phép làm đại lý cho công ty môi giới hàng hóa sau việc môi giới
các lệnh mua bán từ khách hàng.
3.Đối tượng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Hàng hóa mua bán qua sở giao dịch hàng hóa là những hàng hóa mang
những đặc điểm riêng biệt và được thực hiện như sau:
+) Những hàng hóa có sự biến động lớn về giá trong thị trường giao ngay. Sự
tiềm ẩn nguy cơ biến động lớn về giá buộc các nhà sản xuất và các nhà chế biến
phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ nên biến động giá theo một xu hướng nào đó.
Điều đó thúc đẩy họ tham gia vào thị trường kỳ hạn và quyền chọn để tự bảo hiểm
tức là chuyển rủi ro về giá sang các nhà nắm rủi ro chuyên nghiệp và cho phép có
một cơ chế giá phục hồi.
Hàng hóa đưa vào mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa còn là loại
hàng hóa thu hút được khối lượng lớn các bên tham gia và không có bên nào chi
phối được thị trường.
Hiện nay, đối với giao dịch kỳ hạn có thể thông kê được gần 100 loại hàng
hóa được mua bán trên các sở giao dịch hàng, tuy nhiên có những loại hàng hóa
không được giao dịch nhiều, thậm chí một số loại không được giao dịch trong một
thời gian dài.
Theo thông lệ quốc tế, hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa phải đảm
bảo điều kiện tiêu chuẩn hóa về chất lượng và độ lớn giá trị được giao dịch.
4.Hình thức mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Hình thức mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được thực hiện trên
cơ sở hợp đồng, gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
+)Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận theo đó bên bán cam kết giao và bên mua
cam kết nhận hàng hóa tại một thời điểm hoặc một thời hạn trong tương lai theo
hợp đồng. Sự khác biệt lớn nhất giữa hợp đồng kỳ hạn và các hợp đồng mua bán
hàng hóa thông thường khác là việc giao hàng được thỏa thuận tại một thời điểm
trong tương lai và giá cả đã được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng. Đây là
hợp đồng để mua bán hàng hóa được giao và thanh toán vào một ngày nhất định

trong tương lai nhưng theo giá thỏa thuận hiện tại. Về nguyên tắc khi đã giao kết
hợp đồng kỳ hạn các bên có nghĩa vụ thực hiện việc giao, nhận hàng và thanh toán
khi đến hết hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong hợp đồng này các
bên có thể thỏa thuận việc bên mua có thể thỏa thuận cho bên bán một khoản tiền
bằng mức chênh lệnh giữa giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở
giao dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và không phải
nhận hàng bên bán có thể thanh toán cho bên mua một khoản tiền bằng mức
Trần Thị Chiền-HC33C037

3


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
chênh lệnh giữa giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch
hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và không phải giao hàng.
Mua bán hàng hóa theo hợp đồng này giúp thương nhân hoặc nông dân hạn
chế được rủi ro do biến động giá, bảo vệ được lợi nhuận hợp đồng này thích hợp
với việc bán các hàng hóa mà giá cả thường biến động vì tại thời điểm giao hàng
dù giá có lên hay xuống thì hàng hóa vẫn được giao theo giá được “ chốt” lệnh từ
trước.
Ví dụ: Tháng 6 /2006 thương nhân A ký hợp đồng bán 1000 tấn cà phê với giá
600 USD/ tấn giao hàng vào tháng 12/2006. Sau đó, dự đoán giá cà phê có thể tăng
cao thương nhân A sẽ vào sở giao dịch hàng hóa ký hợp đồng kỳ hạn mua 1000 tấn
cà phê cũng với giá 600 USD/tấn giao hàng tháng 12/2006. Đến thời điểm giao hàng
giá cả tăng lên 750USD/tấn. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thực thương nhân
X lỗ 150USD/ tấn. Nếu giá cả giảm xuống 550USD/ tấn thì thương nhân X đã lãi 50
USD/ tấn. Như vậy, thương nhân đã tránh được khoản lỗ của hợp đồng mua bán
hàng hóa thực bằng khoản lời có được từ hợp đồng kỳ hạn trong sở giao dịch hàng
hóa.

+)Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là thỏa thuận theo đó bên mua có quyền được mua
hoặc bán một hàng hóa được xác định với mức giá định trước và phải trả một
khoản tiền nhất định để mua quyền này. Bên mua có quyền chọn thực hiện hoặc
không thực hiện việc mua bán hàng hóa đó. Như vậy, bên mua quyền hoàn toàn có
quyền chủ động trong việc mua hoặc bán hàng hóa và quyết định thực hiện quyền
chọn sẽ tùy thuộc vào biến động giá cả trên thị trường của hàng hóa đó tại thời
điểm thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: anh B sản xuất ngũ cốc, đã mua quyền chọn bán. Đến kỳ hạn giao hàng
nếu giá cả trên thị trường giao ngay cao hơn giá cố định trong hợp đồng thì anh B
có quyền hủy hợp đồng và tự do bán ngũ cốc của mình trên thị trường. Ngược lại,
nếu giá thực tế trên thị trường vào lúc thực hiện hợp đồng tụt xuống thấp hơn giá trị
chi trong hợp đồng thì anh B có thể bán số ngũ cốc đó theo hợp đồng với người đã
bán hợp đồng tự chọn.
Hợp đồng kỳ hạn khác với hợp đồng tự chọn ở chỗ, hợp đồng tự chọn chỉ đặt
nghĩa vụ duy nhất vào một bên, hợp đồng tự chọn chỉ có lợi cho bên quyền chứ
không có nghĩa vụ bắt buộc phải mua hay bán hàng hóa đã nếu tại thời điểm
trong tương lai. Nếu người mua lựa chọn thực hiện quyền này thì người bán của
hợp đồng lựa chọn có nghĩa vụ thi hành tức là mua hoặc bán theo hợp đồng.
+)Nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa
Trần Thị Chiền-HC33C037

4


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được thực hiện một
cách thường xuyên, chuyên nghiệp với những đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn

nghiệp vụ thông thường các điều khoản trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa được quy định với những ràng buộc chặt chẽ, có tính chất tiêu
chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa giúp cho việc giao kết hợp đồng được thuận lợi và đảm bảo an toàn
về mặt pháp lý, hạn chế rủi ro cho các chủ thể tham gia. Mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa các điều khoản quan trọng được tiêu chuẩn hóa trong hợp
đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch bao gồm: tên hàng, chất lượng, giá trị
hợp đồng, thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng.
5. Vai trò của hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Qua thực tiễn tồn tại và phát triển đã chứng minh được tầm quan trọng của
thị trường hàng hóa tương lai đối với nền kinh tế thế giới nói chung và đối với từng
quốc gia nói riêng. Hiện nay việc giao dịch hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
ngày càng gia tăng mạnh mẽ là một chỉ số cho thấy giá trị của giao dịch tương lai.
+)Đối với các nhà sản xuất kinh doanh
Đối với người mua đó là bảo hiểm việc giá giao ngay có thể lên cao và đối với
người bán đó là bảo hiểm giá có thể xuống quá thấp. Mục tiêu của việc tự bảo hiểm
giá lên mà người mua sử dụng là để “ cố định” giá.
Ví dụ: H là nhà chế biến cà phê cần 50 000 tấn cà phê trong tháng 10 năm
2010, nhà chế biến có thể mua hàng vào ngày hôm nay và bảo quản hàng háo cho
đến tháng 10 năm 2010 hoặc nhà chế biến có thể đợi đến tháng 10 và mua hàng trên
thị trường giao ngay. Nếu thực hiện theo cách thứ nhất, nhà chế biến sẽ phải bỏ ra
một chi phí rất lớn để bảo quản hàng hóa, còn nếu thực hiện theo cách thư hai thì
nhà chế biến có thể sẽ gặp phải rủi ro về giá cả vì lúc đó giá cả có thể lên. Trong
trường hợp này nhà chế biến có thể tham gia vào thị trường kỳ hạn mua theo giá cả
của ngày hôm sau bằng việc ký hợp đồng ngay từ hôm nay bằng cách này nhà chế
biến sẽ không phải bỏ chi phí bảo quản hàng hóa và có thể tránh được rủi ro về giá
do việc giá cả của hàng hóa tăng quá cao.
Đối với người bán mục tiêu tham gia thị trường hàng hóa tương lai là để tự
bảo hiểm giá bán. Nếu thấy giá giao ngay là chấp nhận được thì người bán sẽ tự
bảo hiểm giá xuống bằng cách ký hợp đồng kỳ hạn trước kỳ thu hoạch thực sự.

Tương tự như vậy, trong hợp đồng quyền chọn người mua quyền chọn tự
bảo hiểm giá bằng cách bỏ một khoản tiền để mua quyền, coi như đó là phí bảo
hiểm. Người mua không dùng đến quyền chọn và tiền bán quyền thu chính là lợi
nhuận.
Bên cạnh đó thị trường hàng hóa giao sau còn đem lại cho các nhà sản xuất
kinh doanh những thuận lợi khác như đem lại cơ hội vay vốn của ngân hàng, tính
5
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
toán những thuận lợi khác như chi phí sản xuất, cho phép đưa ra kế hoạch sản
xuất tốt ngay cả khi có sự biến động về giá, ổn định được lợi nhuận thông qua tự
bảo hiểm giá của hàng hóa, đặc biệt đối với hàng hóa khó bảo quản thì mua bán
hàng hóa giao sau sẽ là một công cụ hết sức hữu hiệu.
Vai trò của thị trường hàng hóa tương lai đối với các nhà sản xuất và kinh
doanh trong xã hội là rất to lớn. Đó chính là nhờ chức năng tự điều khiển và chức
năng thông tin của nó.
-Đối với nền kinh tế
Thị trường hàng hóa giao sau giúp cho các tác nhân kinh tế trong xã hội có
một nền kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý hơn, quá trình sản xuất lưu thông
hàng hóa được đẩy mạnh. Đồng thời thị trường hàng hóa giao sau đưa đến thương
mại tập trung hàng hóa tại đây thông tin về việc cung cầu cơ bản đối với một loại
hàng hóa được phổ biến. Những yếu tố này giúp bình ổn cung cầu trên thị trường
từ đó ổn định được giá cả hàng hóa trong xã hội.
Giá cả chính xác và ổn định dẫn đến phân bổ nguồn lực tối ưu vì cả người
tiêu dùng lẫn người sản xuất đều có quyết định tốt hơn về hàng hóa được tiêu thụ
sản xuất, thời điểm sản xuất, thời điểm tiêu thụ thích hợp.
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước

Thông qua sở giao dịch hàng hóa cơ quan quản lý nhà nước nắm được các
diễn biến của thị trường, từ đó có thể dự đoán được chiều hướng phát triển tương
lai của nền kinh tế, định ra các giải pháp phòng ngừa thích hợp, hạn chế các diễn
biến bất lợi cho nền kinh tế, tránh được cú “ sốc” do thị trường gây ra. Mặt khác,
qua thị trường hàng hóa giao sau nhà nước thể hiện vai trò quản lý của mình đối
với thị trường cũng như đối với nền kinh tế.
Tóm lại, thông qua việc tìm hiểu một cách khái quát về khái niệm, đặc điểm
và vai trò của thị trường hàng hóa giao sau chúng ta đã có thể hiểu được phần nào
về chúng từ đó sẽ giúp các nhà làm luật có những quy định phù hợp trong việc ban
hành các văn bản pháp luật góp phần đưa hoạt động mau bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa vào trong thực tế đời sống kinh tế của nước ta.
II. Thực trạng Việt Nam về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
1.Pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Đối tượng của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là hàng hóa. So với hoạt
động mua bán hàng hóa thông thường thì có một số đối tượng giao dịch mà hoạt
động mua bán hàng hóa thông thường không có như mua bán về lãi suất, chứng
khoán, chỉ số…Hiện nay, có thể thống kê được gần 100 loại hàng hóa được mua
bán trên các sở giao dịch hàng hóa hiện nay, đó là những hàng hóa được giao kết
với số lượng lớn và có sự biến động về giá ví dụ như các loại nông sản: gạo, cà phê,
ngũ cốc…, vàng , kim loại màu, len thô…Hàng hóa được giao dịch tại sở giao dịch
6
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
hàng hóa có thể chưa hiện hữu vào thời điểm giao kết hợp đồng. Ở một số nước
sàn giao dịch của sở giao dịch mua bán rất nhiều hàng hóa nhưng có một số nước
chỉ thực hiện việc mua bán hàng hóa là nông sản.
Luật thương mại và nghị định số 158/2006/NĐ-CP không quy định cụ thể về

hàng hóa được giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa và theo quy định của Nghị định
số 158/2006/NĐ-CP thì danh mục hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa sẽ
do bộ trưởng bộ thương mại công bố trong từng thời kỳ và sở giao dịch chỉ thực
hiện hoạt động mua bán thuộc danh mục hàng hóa được công bố.Việt Nam có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp, chúng ta có những mặt hàng
nông sản có tỷ trọng xuất khẩu cao trên thế giới như gạo, điều, cà phê…Đây chính
là thế mạnh của chúng ta khi tiến hành hoạt động giao dịch tái sở giao dịch hàng
hóa.
Đối với hợp đồng quyền chọn, đối tượng không phải là hàng hóa mà là
quyền-quyền chọn mua, quyền chọn bán một loại hàng hóa. Trong mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch còn có một giao dịch cũng khá đặc biệt mà chỉ trong mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch mới có, đo chính là giao dịch mua bán vị thế của các bên
theo hợp đồng.
Ví dụ. N là người có nhu cần mua 6000 tấn gạo vào tháng 5. Hợp đồng đã
được ký nhưng đến tháng 4 thị trường thay đổi N không còn nhu cầu mua hàng nữa.
N đã đến sở giao dịch và đặt lệnh bán 6000 tấn gạo vào tháng 5 với kỳ hạn 1 tháng,
Trong quan hệ thứ nhất N với vai trò là người mua, nhưng đến quan hệ thứ hai N
lại đóng vai trò là người bán.
2.Pháp luật về chủ thể giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa
-Thành viên kinh doanh
Nhiệm vụ của thành viên kinh doanh là thực hiện các hoạt động mua bán
hàng hóa cho khách hàng và hưởng thù lao ủy thác hoặc thành viên kinh doanh có
thể tự mình thực hiện hoạt động để hưởng lợi nhuận. Điều kiện để trở thành thành
viên kinh doanh, tư cách pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn của thành viên kinh
doanh đã được quy định cụ thể tại Điều 21, 22, 23 Nghị định số 158/2006/NĐ-CP
của chính phủ ngày 28/12/2006.Quy luật của pháp luật Việt Nam cũng khá tương
đồng với pháp luật của một số nước trên thế giới như luật mua bán hàng hóa nông
sản ở Hàn Quốc, Singapore…
-Thành viên môi giới
Đó là các thương nhân thực hiện viêc môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao

dịch hàng hóa và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Hoạt động của
thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được quy định
cụ thể tại Điều 69 luật thương mại và Điều 19, Điều 20 nghị định số 158/2006/NĐCP của chính phủ. Điều kiện để trở thành thương nhân môi giới khá tương đồng
7
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
với điều kiện trở thành thương nhân kinh doanh. Điểm khác biệt duy nhất là vốn
pháp định của thương nhân môi giới nhỏ hơn so với thương nhân kinh doanh.
Thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch chỉ được phép thực
hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và không
được phép là một bên của hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Quy định
này nhằm ngăn chặn việc thương nhân môi giới là người trung gian có điều kiện
thuận lợi để trục lợi, xâm phạm đến lợi ích của các bên trong hợp đồng và làm
biến dạng quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên theo
em thì một thương nhân được phép hoạt động môi giới mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch tức là họ đã có đủ năng lực tài chính và am hiểu kinh doanh, do vậy nên
cho phép hiểu đồng thời họ cũng được tự giao dịch cho bản thân mình với tư cách
là nhà giao dịch. Chỉ nên quy định cấm các thương nhân môi giới thực hiện giao
dịch một bên, chứ không nên cấm cả việc họ có thể trở thành khách hàng hay nhà
giao dịch thiết lập hợp đồng cho bản thân mình.
Thương nhân mua bán hàng hóa qua sở giao dịch có nghĩa vụ đóng tiền ký
quỹ tại sở giao dịch hàng hóa để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trong
quá trình hoạt động môi giới mua bán hàng hóa. Mức ký quỹ do sở giao dịch hàng
hóa quy định. Điều 70 luật thương mại 2005 quy định các hành vi bị cấm đối với
thương nhân môi giới hàng hóa qua sở giao dịch. Các hành vi bị cấm đối với
thương nhân môi giới chủ yếu tập trung vào các hành vi lôi kéo, lừa dối khách
hàng hoặc bất hợp tác với khách hàng. Đây là các hành vi xâm hại trực tiếp tới

quyền lợi của khách hàng, làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh lành mạnh,
bởi vậy việc quy định các hành vi nghiêm cấm đối với hoạt động của các thương
nhân môi giới là hết sức cần thiết.
-Các bên tham gia mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Tham gia vào quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch còn có cả bên bán
và bên mua hay còn gọi là khách hàng. Đó có thể là các tổ chức, cá nhân có nhu
cầu mua bán hàng hóa, hoặc các chủ thể khác tham gia để kiếm lời thông qua việc
mua bán trao tay các hợp đồng đã ký kết. Họ có thể không nhất thiết phải là
thương nhân. Pháp luật Việt Nam không quy định về các bên tham gia, điều này
đồng nghĩa với việc tất cả các chủ thể nếu thỏa mãn các diều kiện để tham gia giao
dịch dân sự và điều kiện của sở giao dịch hàng hóa đặt ra đều có thể trở thành chủ
thể trong quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Nhìn chung, tham gia vào
quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch chủ yếu là những nhà sản xuất, kinh
doanh lớn có sự am hiểu về vấn đề này, điều này giống như ở pháp luật các nước
trê thế giới.
-Vai trò của sở giao dịch
Trần Thị Chiền-HC33C037

8


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
Nghị định 158/2006/NĐ-CP đã quy định rất cụ thể về sở giao dịch hàng hóa
tại Chương II. Chức năng của sở giao dịch là cung cấp duy trì một nơi mua bán cụ
thể, tại đây hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn được các thành viên sở giao dịch mua
và bán, thúc đẩy hoạt động mua bán kỳ hạn và quyền chọn của các thành viên, đề
ra các quy tắc, quy chế để điều hành hoạt động kinh doanh hàng hóa giao sau diễn
ra tại Sở giao dịch và giám sát việc thực thi các quy tắc, quy chế đó.
3.Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch

-Hợp đồng kỳ hạn
Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 luật thương mại năm 2005 quy định thì “
hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết
nhận hàng tại một thời điểm trtong tương lai theo hợp đồng.”
Điểm khác nhau giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng mua bán hàng hóa
thông thường là các bên giao kết hợp đồng và thỏa thuận giá cả vào thời điểm hiện
tại nhưng việc giao hàng và thanh toán lại diễn ra vào một thời điểm trong tương
lai. Hợp đồng kỳ hạn chứa đựng yếu tố rủi ro cao hơn so với hợp đồng mua bán
thông thường nhưng bên bán và bên mua nhiều khi lại tìm kiếm lợi nhuận trên cơ
sở biến động của thị trường đó. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường
khi ký kết hợp đống các bên thường gặp gỡ trực tiếp nhau để thảo luận các điều
khoản của hợp đồng, không phải qua trung gian và các bên thường hiểu rõ về
nhau. Trong hợp đồng kỳ hạn, các bên có thể không biết nhau và cũng không nhất
thiết phải gặp nhau vì việc mua bán thông qua một cơ quan trung gian đó là sở
giao dịch. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường các bên có thể
mua bán tất cả các loại hàng hóa mà pháp luật không cấm đối tương rất rộng còn
trong hợp đồng kỳ hạn đối tượng của hợp đồng chỉ là những hàng hóa được sở
giao dịch quy định nên đối tượng hẹp hơn rất nhiều.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kỳ hạn
Luật thương mại 2005 quy định rất cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Đối với hợp đồng kỳ hạn Điều
65 Luật thương mại 2005 quy định quyền và nghĩa vụ của ác bên trong hợp đồng
gồm nghĩa vụ giao hàng và nghĩa vụ thanh toán của các bên. Khoản 1 Điều 65 quy
định “ trường hợp ngừoi bán thực hiện việc giao hàng theo hợp đồng thì bên mua co
nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán”. Như vậy, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán.
Khoản 2 Điều 65 quy định “ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên
mua có thể thanh toán bằng tiền và không nhận hàng thì bên mua phải thanh toán
cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thỏa thuận trong hợp
đồng và giá thị trường do sở giao dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được

thực hiện”. Theo quy định này thì các bên có thỏa thuận về việc bên mua có thể
9
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
thanh toán bằng tiền và không nhận hàng theo hợp đồng thì bên mua có nghĩa vụ
thanh toán cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thỏa thuận
trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch công bố tại thừoi điểm hợp đồng
được thực hiện. Đây chính là khoản tiền bồi thường mà bên mua phải trả cho bên
bán khi không thực hiện nghĩa vụ nhận hàng theo hợp đồng.
Theo khoản 3 Điều 65 “ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên bán có
thể thanh toán bằng tiền và không giao hàng thì bên bán phải thanh toán cho bên
mua một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thị trường do sở giao dịch hàng
hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và giá thỏa thuận trong hợp
đồng.” Như vậy, bên bán hoặc bên mua có thể thanh toán một khảon tiền cho bên
kia khi không thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Quy định tại Điều 65 đã xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc giao hàng và thanh toán thoe hợp đồng,
nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền khi thỏa thuận hình thức thành toán và việc
không thực hiện giao hàng theo hợp đồng.
-Hợp đồng quyền chọn
Theo quy định tại khoản 3 điều 64 luật thương mại “ hợp đồng về quyền
chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có quyền
được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước ( gọi là giá
giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này( gọi là tiền mua
quyền). Bên mua có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán
hàng hóa đó.”
Đối với các hợp đồng thông thường đối tượng của hợp đồng là hàng hóa, có
thể là hữu hình hoặc vô hình và người mua có thể sở hữu nó trên thực tế. Nhưng

trong hợp đồng quyền chọn, đối tượng là quyền- quyền chọn mua hay chọn bán
một hàng hóa. Khoản 1 Điều 66 quy định “ bên mua quyền chọn hoặc quyền chọn
bán phải trả tiền mua quyền chọn để trở thành bên giữ quyền chọn mua hoặc giữ
quyền chọn bán. Số tiền phải trả do các bên thỏa thuận.” Như vậy nghĩa vụ của bên
mua quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là phải thanh toán khoản tiền mua
quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là phải thanh toán khoản tiền mua quyền
chọn cho bên kia theo đúng số tiền mà các bên đã thỏa thuận. Khoản 2 Điều 66 quy
định “ Bên giữ quyền chọn mua có quyền mua nhưng không có nghĩa vụ phải mua
hàng hóa đã giao kết trong hợp đồng.” Bên giữ quyền mua có quyền mua hàng,
nhưng không có nghĩa vụ phải mua hàng hóa đã giao kết trong hợp đồng do đó
ngay cả khi bên giữ quyền mua không mua hàng hóa như đã giao kết trong hợp
đồng thì đó cũng không phải là vi phạm hợp đồng.
Khoản 3 điều 66 cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giữ quyền
chọn bán và bên mua tương tự như quyền và nghĩa vụ của bên giữ quyền chọn
mua và bên bán quy định tại khoản 2 điều 66. Khoản 4 điều 66 còn bảo vệ quyền
10
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
của bên giữ quyền chọn mua hoặc giữ quyền chọn bán khi quyết định không thực
hiện hợp đồng trong thời hạn hợp đồng còn hiêu lực bằng việc quy định hợp đồng
đương nhiên hết hiệu lực.
4.Một số quy định khác về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
4.1Các biện pháp bảo đảm cho hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa
Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa có diễn ra thuận lợi,
hiệu quả hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó hoạt động của các
bên tham gia và sự quản lý của nhà nước. Đó là lý do pháp luật quy định các biện

pháp bảo đảm cho hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa bao
gồm quy định các hành vi bị cấm trong hoaạt động mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch và vai trò quản lý của nhà nước trong các trường hợp khẩn cấp.
-Các hành vi bị cấm trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
Điều 71 Luật thương mại quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch. Việc quy định như vậy là rất cần thiết tuy nhiên
luật thương mại chưa quy định hình thức xử lý đối với cá nhân, tổ chức khi thực
hiện một trong các hành vi trên đó là một hạn chế mà luật thương mại cần khắc
phục. trong đạo luật của một số nước luôn dành riêng một chương quy định vấn đề
xử lý đối với các vi phạm trong lĩnh vực mua bán hàng hóa tương lai, bao gồm các
hành vi vi phạm và chế tài kèm theo. Phải chăng pháp luật Việt Nam cũng nên có
các quy định như páhp luật của các nước để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống
pháp luật trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
-Thực hiện các biện pháp quản lý trong trường hợp khẩn cấp
Điều 72 luật thương mại năm 2005 quy định việc thực hiện các biện pháp
quản lý trong trường hợp khẩn cấp.
4.2 Quyền hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại nước
ngoài
Điều 73 luật thương mại năm 2005 đã quy định “ thương nhân Việt Nam
được quyền hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch ở nước ngoài theo quy
định của Chính phủ”. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành
quy định này, làm cho việc mua bán hàng hóa qua sở giao dịch ở nước ngoài của
các thương nhân Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, mặc dù hoạt động này đã
mang lại hiệu quả cho đất nước. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triẻn
của nền kinh tế thì một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu gián tiếp tham gia
vào các thị trường hàng hóa giao sau ở nước ngoài thông qua sự giúp đỡ của các
nhà môi giới tại các sở giao dịch hàng hóa ví dụ như việc mua bán cà phê tại sở
giao dịch London và sở giao dịch New York. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp
Việt Nam mới chỉ tham gia vào thị trường kỳ hạn mà chưa tham gia vào các hợp
11

Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
đồng quyền chọn. Việc giao dịch thông qua hợp đồng kỳ hạn góp phần tạo sự bình
đẳng cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam tham gia cạnh tranh một
cách tốt hơn với các doanh nghiệp nước ngoài trong một thị trường luôn biến động
về tỷ giá lãi xuất và giá cả hàng hóa.
Thực tế ở Việt Nam đã thành lập đã thành lập sở giao dịch hàng hóa VNX là
Sở giao dịch hàng hóa được Bộ Công Thương cấp phép hoạt động với vốn điều lệ
150 tỷ đồng. Cà phê, cao su và thép là những mặt hàng giao dịch đầu tiên.Sở giao
dịch hàng hóa Việt Nam (VNX), trước đây là Sở giao dịch hàng hóa Triệu Phong
chính thức hoạt động vào ngày 11/1. Đây là nơi tập trung đầu mối buôn bán, trước
mắt là cà phê, cao su, thép - vốn chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập
khẩu, có chuẩn hóa chất lượng, biến động mạnh theo mùa vụ và nhu cầu tiêu thụ
tại Việt Nam và thế giới.VNX là đơn vị đầu tiên được Bộ Công Thương cấp phép
hoạt động trong lĩnh vực giao dịch hàng hóa. Mục tiêu sắp tới, theo Tổng giám đốc
Nguyễn Duy Dương là: "Thu hẹp tình trạng chênh lệch giá giữa hàng hóa Việt Nam
so với thị trường thế giới, tránh trường hợp được mùa mất giá, được giá mất mùa
như thời gian qua".
III Một số bất cập của pháp luật hiện hành về mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch và các giải pháp hoàn thiện
1.Những hạn chế
-Pháp luật Việt Nam chưa hình thành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
điều chỉnh toàn diện các vấn đề của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Luật thương mại năm 2005 và nghị định 158/2006/NĐ-CP của chính phủ đã
có những quy định về vấn đề này và cũng mới ở mức độ chung nhất, khái quát
nhất, nếu so với pháp luật các nước khác thì pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề
này còn thiếu rất nhiều, vì hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là một

hoạt động rất phức tạp. Trên thế giới các nước có thị trường hàng hóa giao sau
phát triển thường ban hành hẳn một đạo luật để điều chỉnh vấn đề này như ở Hàn
Quốc luật mua bán hàng hóa tương lai, luật về sở giao dịch hàng hóa nông sản
Thái Lan…và các luật này điều chỉnh một cách cụ thể, chi tiết và là một bộ phận
của luật thương mại. Do đó, yêu cần đặt ra là Việt Nam phải ban hành một đạo
luật riêng để điều chỉnh vấn đề này.
-Các quy định của pháp luật còn mang tính nguyên tắc, chưa thực hiện được
bản chất của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
Các quy định của pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch vãn còn
nhiều vấn đề mà luật chưa quy định như vấn đề nội dung chủ yếu của hợp đồng,
phương thức ký hợp đồng và các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng giải quyết
tranh chấp hợp đồng. Chúng ta đã tiến hành nghiên cứu thực tiễn hoạt động mua
Trần Thị Chiền-HC33C037

12


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa của các nước và kinh nghiệm lập pháp
của các nước này nhưng cũng phải thấy rằng các nước có thị trường hàng hóa giao
sau phát triển và chúng ta có những điểm khác nhau nên chúng ta không thể rập
khuôn theo họ được, các quy định được ban hành phải phù hợp với tình hình của
nước ta nên việc thiếu sót là điều không thể tránh khi trong tương lại đã có thị
trường hàng hóa giao sau phát triển, các quy định cua pháp luật hi vọng sẽ hoàn
thiện hơn.
-Pháp luật chưa quy định cụ thể về chế tài áp dụng khi vi phạm các biện pháp
bảo đảm cho hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và cơ chế giải
quyết tranh chấp phát sinh trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
Tại điều 70, 71 luật thương mại 2005 xác định các hành vi bị cấm trong mua

bán hành hóa qua sở giao dịch hàng hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh
trong mua bản hàng hóa qua sở giao dịch nhưng các quy định còn chung chungvà
chưa đầy đủ, nội dung rất quan trọng là các biện pháp xử lý khi vi phạm các hành
vi đó thì chưa được xác định. Bên cạnh đó, Luật thương mại năm 2005 chưa thực
hiện được nguyên tắc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hợp đồng mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa sẽ được giải quyết theo cách thức nào. Các
quy định về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được đặt tại luật
thươnng mại vậy nên các tranh chấp trong hợp đồng này xảy ra có được áp dụng
nguyên tắc giải quyết tranh chấp của luật thương mại hay không phải có các quy
định khác mang tính đặc thù của nó. Theo ý kiến của em thì giữa mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa và các hoạt động thương mại khác có sự khác nhau
về bản chất nên các hành vi vi phạm hợp đồng này là khác nhau. Vậy nên cần
những quy định riêng để xử lý khi có vi phạm trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
giao sau.
2.Các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa.
-Hoàn thiện về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Đây là hoạt động mang tính chuyên môn, nghiệp vụ cao và rất quan trọng
liên quan đến nhiều chủ thể. Để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hợp đồng mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cần tập trung vào các vấn đề cụ thể, chi tiết
như vấn đề nội dung của hợp đồng, các phương thức của hợp đồng, các phương
thúc giải quyết tranh chấp, chế tài xử lý vi phạm khi vi phạm các hành vi bị cấm.
Nhà nước giao cho các cơ quan có nhiệm vụ quản lý trong lĩnh vực thương mại kịp
thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các văn bản của cơ quan cấp trên.
-Hoàn thiện pháp luật về quy chế thương nhân môi giới mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch ở nước ngoài.
Trần Thị Chiền-HC33C037

13



Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
Hiện nay, luật thương mại mới chỉ quy định nguyên tắc chung khi xác định
điều kiện hoạt động của thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, tuy nhiên lại chưa
có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. Do đó, yêu cầu đặt ra là nghiên cứu
để đưa ra các điều kiện hoạt động cụ thể của thương nhân môi giới mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch. Trước hết cần xác định tư cách của thương nhân môi giới là
thành viên của sở giao dịch hàng hóa, thực hiện việc môi giới hàng hóa qua sở giao
dịch và hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. Để thực hiện được các hoạt động
môi giới thương nhân môi giới phải đáp ứng được đủ các đièu kiện như quy định
của pháp luật về tổ chức, mức vốn pháp định, điều lệ.
-Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và giao kết hợp đồng trong mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Việc thành lập các quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
được thực hiện chủ yếu thông qua giao kết các hợp đồng. Căn cứ luật thương mại
2005, pháp luật cần quy định cụ thể nhằm chuẩn hóa các tiêu chí giao kết hợp
đồng, các điều khoản cơ bản của hợp đồng. Căn cứ vào quy định này các sở giao
dịch hàng hóa sẽ xây dựng các hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp với các giao
dịch do mình thực hiện.
-Hoàn thiện pháp luật về hàng hóa trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa
Hoàn thiện háp luật về hàng hóa trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa được giao cho bộ thương mại( nay là bộ công thương) thực hiện. Hàng
hóa giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa chỉ là một số loại hàng hóa nhất định hay
tất cả các loại hàng hóa cũng là một vấn đề được đặt ra cho Bộ công thương trong
quá trình xây dựng và ban hành danh mục hàng hóa. Đối với Việt Nam việc xác
định danh mục hàng hóa được mua bán qua sở giao dịch cần được nghiên cứu kỹ
trước khi ban hành. Bên cạnh đó, việc quy định các loại hàng hóa được mua bán

qua sở giao dịch hàng hóa cần phải nghiên cứu quy định các nguyên tắc trong việc
xác định tiêu chuẩn về chất lượng, phẩm cấp của hàng hóa, tạo căn cứ thống nhất
cho sở giao dịch hàng hóa xây dựng điều lệ và hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa
-Hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa ở nước ngoài của thương nhân Việt Nam.
Thương nhân Việt Nam tham gia rất nhiều vào quan hệ mua bán quốc tế,
trong đó có quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài vì
đây là một hoạt động có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do chưa có các quy
định của pháp luật điều chỉnh hoạt động này nên trong thời gian qua, mặc dù các
thương nhân Việt Nam đã thực hiện một số giao dịch hàng hóa tài sàn giao dịch
14
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
của nước ngoài nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Yêu cần hoàn thiện các quy
định cụ thể về hoạt động này là rất cần thiết tạo cơ sở pháp lý cho thương nhân
Việt Nam thực hiện giao dịch tại các giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Các vấn đề
cần hoàn thiện bao gồm: điều kiện để thương nhân Việt Nam được phép thực hiện
hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài, phương
thức thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa, phương thức thanh toán, trách
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động này….
-Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm trong mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa.
Yêu cầu cơ quan quản lý phải ban hành các quy định về xử lý vi phạm hành
chính đối với hành vi vi phạm trong mua bán hàng hó qua sở giao dịch hàng hóa.
Nhà nước có thể quy định các hành vi vi phạm và các hình thức xử lý trong một
nghị định để cơ quan có thẩm quyền có thể dễ dàng áp dụng và tránh được thực

trạng chồng chéo với các quy định xử lý vi phạm về lĩnh vực thương mại trong các
văn bản khác trong tương lai khi chúng ta ban hành các điều luật về mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa thì vấn đề này sẽ được quy định cụ thể trong
luật, giống như các quốc gia khác trên thế giới để đảm bảo tính dồng bộ và hiệu
lực của nó.
-Xúc tiến việc thành lập thêm nhiều sở giao dịch hàng hóa tại Việt Nam
Tuy hiện nay Việt Nam đã thành lập được sở giao dịch hàng hóa đầu tiên
nhưng nhu cầu mua bán hàng hóa qua sở giao dịch là rất lớn. Việc thành lập và tổ
chức các hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là cơ sở thực tiễn
cần thiết để kiểm nghiệm tính hợp lý và hiệu quả của các quy định hiện hành đồng
thời đưa ra các sửa đổi, bổ sung kịp thời đối với các quy định chưa có phù hợp.
Yêu cần đặt ra là cần nghiên cứu kỹ lưỡng các điều kiện để thành lập và bảo đảm
cho hoạt động của sở giao dịch hàng hóa trên thực tiễn. Nhà nước ta trong những
năm qua đã có những công trình nghiên cứu về vấn đề này. Khi hội tụ các điều
kiện cần thiết chính phủ cần soạn thảo và ban hành các quy đinh cụ thể liên quan
đến sở giao dịch, quy chế hoạt động của thương nhân môi giới tại sở giao dịch hàng
hóa quy định về các loại hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa và việc quản
lý chất lượng của hàng hóa lưu thông trên thị trường này.
Cần nhanh chóng đào tạo ra các nhà môi giới cũng như các nhân viên sở
giao dịch hàng hóa để những người này có thể hỗ trợ người mua bán trong điều
kiện sở giao dịch hàng hóa mới được hình thành và đa số những thương gia mua
và bán trên thị trường đặc thù này còn chưa thực sự am hiểu về nó.
Để có thể hình thành được một sở giao dịch hàng hóa hoạt động có hiệu quả
ở Việt Nam cần có thêm những quy định mang tính cụ thể hơn. Ngoài ra, giao dịch
trên sở giao dịch hàng hóa đòi hỏi sự hỗ trợ của các công cụ tài chính vì vậy nếu
15
Trần Thị Chiền-HC33C037


Bài tập lớn học kỳ

Môn: luật thương mại
muốn hình thành sở giao dịch hàng hóa cần phải có các quy định cụ thể mang tính
đồng bộ liên quan tới việc ban hành giao dịch.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong điều kiện kinh tế thị trường mua bán hàng hóa nói chung và mua bán
hàng hóa qua sở giao dịch nói riêng là phương thức chủ yếu để dịch chuyển tài sản
và quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Một số lượng lớn các
giao dịch dân sự diễn ra trong đời sống hằng ngày là giao dịch mua bán tài sản.
Dưới góc độ pháp lý, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa trong luật
thương mại Việt Nam là một chế định hoàn toàn mới. Các quy định của luật tại
chế định này đã bắt đầu ghi nhận hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa là một trong các hoạt động thương mại và được nhà nước bảo đảm thực
hiện. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển và đặc biệt là hạn chế được sự
rủi ro đối với các hoạt động thương mại. Đối với Việt Nam để phát triển việc mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch thì cần thành lập nhiều hơn nữa những sở giao dịch
hàng hóa đề thúc đẩy sự phát triển của hoạt động thương mại đặc biệt là trong
lĩnh vực nông nghiệp phục vụ trực tiếp cho hoạt động mua bán, tiêu thụ nông sản.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật thương mại Tập II. Trường đại học Luật Hà Nội
Nhà xuất bản công an nhân dân. Hà Nội – 2007.
2. Luật thương mại năm 2005.
Nhà xuất bản lao động. Hà Nội – 2009.
3. Những vấn đề pháp lý về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Nguyễn Quỳnh Liên. Luận văn thạc sỹ luật học.
Trường đại học luật Hà Nội-2006.
Trần Thị Chiền-HC33C037


16


Bài tập lớn học kỳ
Môn: luật thương mại
4.Tìm hiểu về vấn đề mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Khóa luận tốt nghiệp. Phạm Ngọc Khánh. Hà Nội -2005.
5.Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Khóa luận tốt nghiệp – Phạm Chí Dũng. Hà Nội -2008.
6. Nghị định 158/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại về hoạt động mua
bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hóa.
7. />8. />
Trần Thị Chiền-HC33C037

17



×