Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguyên tắc này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.42 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đảm bảo xét xử đúng đắn, khách quan nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, pháp luật tố tụng hình
sự đã quy định một vụ án có thể được xét xử ở hai cấp: cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm. Đây là một nguyên tắc được áp dụng phổ biến tại các quốc gia trong đó có
Việt Nam, vì không phải trong mọi trường hợp, nhận thức về vụ án của hội đồng
xét xử đã đúng đắn ngay từ đầu. Thực tiễn, khi tiến hành tố tụng nói chung và khi
xét xử nói riêng đã từng xuất hiện nhiều nguyên nhân dẫn đến việc cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đưa ra những phán quyết không chính xác về
vụ án. Như vậy, việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử trong Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 thể hiện sự thận trọng của Tòa án trong việc xét xử, đảm bảo cho việc xét
xử chính xác, công bằng và nghiêm minh. Để tìm hiểu rõ hơn về chế độ hai cấp
xét xử, nhóm chúng em lựa chọn đề tài: “Ý nghĩa của nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguyên tắc này”.
A. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ
HAI CẤP XÉT XỬ
1.1. Khái niệm cấp xét xử, cấp xét xử sơ thẩm, cấp xét xử phúc thẩm
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử và xét xử lại các vụ án.
Hình thức này được đảm bảo thực hiện bằng việc quy định các thủ tục tố tụng cụ
thể, tổ chức tố tụng xét xử cụ thể và tổ chức hệ thống Tòa án có thẩm quyền xét xử
theo các thủ tục tố tụng xét xử khác nhau, nhằm xét xử các vụ án được đúng đắn,
khách quan. Có hai cấp xét xử là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm.
Cấp xét xử sơ thẩm là hình thức tổ chức tố tụng để xét xử lần đầu các vụ án
hình sự. Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng
nghị để xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm.

1



Cấp xét xử phúc thẩm là hình thức tổ chức tố tụng xét xử lại vụ án hình sự mà
bản án, quyết định của cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật. Bản án, quyết định của Tòa cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay.
1.2. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, có tính
bắt buộc chung, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để
xét xử các vụ án hình sự, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, trong đó
xác định một vụ án hình sự được xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ
nhất) có thể được xét xử lại và chỉ có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc
thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự, nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
2. NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ
Điều 20 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định:
“Thực hiện chế độ hai cấp xét xử
1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử:
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án,
quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”.
Qua quy định trên, ta rút ra một số nội dung của nguyên tắc hai cấp xét xử:
Một là, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ

2



nhất. Khi xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm phải căn cứ vào những
quy định của pháp luật về thẩm quyền theo sự việc, theo đối tượng và lãnh thổ.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án và quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật ngay, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại một lần nữa.
Hai là, bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời
hạn do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc
thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Khi xét lại vụ án, Tòa án cấp
phúc thẩm không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án và quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm mà còn xét xử lại vụ án về mặt nội dung.
Ba là, với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là
một cấp xét xử, không xét lại vụ án về mặt nội dung mà chỉ xem xét lại bản án
hoặc tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án và quyết định đó. Khi giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm, Tòa án không thực hiện chức năng xét xử mà thực hiện
chức năng giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới.
3. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ
3.1. Ý nghĩa pháp lý
Việc quy định một vụ án hình sự có thể được xét xử qua hai cấp là một bảo
đảm pháp lý cần thiết cho việc xét xử của Tòa án được chính xác và đúng đắn. Khi
qua hai cấp xét xử, nội dung của vụ án sẽ được xem xét, phân tích, đánh giá kỹ
lưỡng, toàn diện hơn. Từ đó, Tòa án sẽ đưa ra các phán quyết có sự chính xác cao
hơn. Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là
cơ sở quan trọng để Viện kiểm sát, bị cáo, người tham gia tố tụng khác có quyền
và lợi ích liên quan đến vụ án thể hiện thái độ không đồng tình với việc xét xử của


3


Tòa án để vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Thông qua đó, chủ thể của
quyền kháng cáo, kháng nghị có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Không chỉ vậy, việc quy định chế độ hai cấp xét xử cũng như quy định bản
án, quyết định sở thẩm có thể bị sửa, bị hủy tại cấp phúc thẩm sẽ kịp thời sửa chữa
những sai lầm hoặc các hành vi vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm mắc phải, góp
phần nâng cao trách nhiệm của hội đồng xét xử sơ thẩm. Thông qua hoạt động xét
xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót mà
Tòa án cấp sơ thẩm mắc phải, tự mình sửa chữa sai lầm, thiếu sót hay đề nghị Tòa
án cấp sơ thẩm tự sửa chữa những sai lầm của mình. Đây là một hình thức hướng
dẫn áp dụng pháp luật có hiệu quả giữa Tòa án cấp phúc thẩm với Tòa án cấp sơ
thẩm, nhờ đó chất lượng xét xử tại các cấp ngày càng được nâng cao.
Ngoài ra, việc xét xử lại vụ án sẽ giúp tìm ra nguyên nhân dẫn đến sai lầm và
vi phạm pháp luật trong việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng
nói chung và tòa án nói riêng, từ đó tìm ra được các giải pháp khắc phục, đáp ứng
yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và các nguyên tắc khác trong tố tụng.
3.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội
a. Ý nghĩa chính trị
Với người tham gia tố tụng, việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét
xử trong tố tụng hình sự đã bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của họ,
bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản của công dân. Đồng thời với việc
đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng, việc xét xử ở hai cấp cũng giúp họ
nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong vụ án để có thái độ hợp tác tích cực với
cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án.
Với các cơ quan tiến hành tố tụng, để tuân theo nguyên tắc cần phải thực hiện
xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Đây cũng là một hình thức thực hiện pháp luật có

hiệu quả chức năng giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới.

4


Ngoài ra, việc quy định hai cấp xét xử trong tố tụng còn tránh tình trạng một
vụ án bị xử ở quá nhiều cấp khiến quá trình tố tụng kéo dài, ảnh hưởng tới hiệu
lực của bản án, quyết định, nhất là các bản án, quyết định đã có hiệu lực.
b. Ý nghĩa xã hội
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự
góp phần rất lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân
vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung và Tòa án nói riêng. Bởi lẽ, việc xét xử phải nhằm đến mục đích
cao nhất là đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, tránh oan sai, đảm bảo
quyền bình đẳng của mọi công dân. Do vậy, sẽ không công bằng nếu tước bỏ
quyền được bảo vệ quyền lợi của bị cáo, người có quyền và lợi ích liên quan đến
vụ án tại một phiên tòa xét xử khác nếu chưa có các điều kiện thực tế để khẳng
định hay bảo đảm rằng phán quyết của lần xét xử đầu tiên là hoàn toàn chính xác.
Trường hợp sau đây là một ví dụ điển hình về ý nghĩa của việc thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự. Trong vụ án vườn điều ở Bình
Thuận, những người trong gia đình chị Nguyễn Thị Nhung đã bị Tòa án sơ thẩm
xét xử về tội giết người, cướp tài sản công dân, không tố giác tội phạm... Nếu Tòa
án không xét xử phúc thẩm thì gia đình chị đã phải chịu án oan. Tòa án sơ thẩm đã
không đánh giá đầy đủ và chính xác các chứng cứ nên đã kết luận vội vàng. Nhờ
có những phán quyết chính xác đúng đắn của Tòa án cấp phúc thẩm mà gia đình
chị Nhung đã được minh oan. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm đã kịp thời phát
hiện và sửa chữa những sai lầm trong quá trình xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm.
4. THỰC TIỄN THI HÀNH NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP
XÉT XỬ VÀ NGUYÊN NHÂN

4.1. Thực tiễn thi hành nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và hai cấp xét
xử cho thấy: chất lượng xét xử sơ thẩm ngày càng được nâng cao, lượng án oan

5


sai ngày càng giảm, lượng án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị so với lượng án
cấp sơ thẩm đã xét xử chiếm tỉ lệ nhỏ. Khi xét xử phúc thẩm, tỉ lệ giữ nguyên bản
án sơ thẩm cao hơn rất nhiều so với lượng án bị sửa, bị hủy. Tuy nhiên, hiệu quả
công tác xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm vãn chưa thật sự đảm bảo, lượng án tồn
đọng ở hai cấp xét xử hàng năm vẫn còn nhiều, chất lượng xét xử chưa thật sự
đảm bảo, tình trạng oan sai vẫn còn không ít. Điều này thể hiện ở chỗ vẫn còn
nhiều vụ án khi xử phúc thẩm bản án bị hủy, bị sửa do áp dụng không đúng quy
định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự; khi xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, nhiều bản án phúc thẩm bị hủy đề điều tra lại hoặc xét xử lại.
4.2. Nguyên nhân của những hạn chế khi thi hành chế độ hai cấp xét xử
Nguyên nhân của những hạn chế khi thi hành chế độ hai cấp xét xử bao gồm:
Thứ nhất, những quy định pháp luật tố tụng về hai cấp xét xử còn nhiều bất
cập, mâu thuẫn. Tổ chức hệ thống Tòa án còn chưa phù hợp, ví dụ như việc dồn
tất cả các loại án vào thẩm quyền của một Toà án là bất hợp lý, gây rất nhiều bất
cập về tổ chức, cán bộ, trang bị, phương tiện cũng như thủ tục tố tụng.
Thứ hai, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa hoàn thiện,
chưa kịp thời do ở nước ta hiện nay, việc giải thích pháp luật được quy định là
nhiệm vụ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, song trên thực tế, thẩm quyền này rất
ít được sử dụng trong lĩnh vực tố tụng. Điều đó khiến trong quá trình xét xử, Tòa
án dễ gặp những vướng mắc, bất cập bởi những quy định không rõ ràng và cụ thể.
Thứ ba, đội ngũ người tiến hành tố tụng còn thiếu, một bộ phận còn yếu về
nghiệp vụ, chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu chuyên môn, ví dụ như kiểm sát viên
kém chuyên môn nên còn lung túng, bị động khi tranh tụng với luật sư và người

tham gia tố tụng; các cơ quan điều tra còn vi phạm các thủ tục tố tụng; một số
người tiến hành tố tụng do bị mua chuộc nên xét xử sai sự thật... Ngoài ra, chất
lượng các luật sư chưa thật sự lớn mạnh, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng kịp với
yêu cầu thực tiễn nên nhiều khi chưa đảm bảo được quyền lợi của bị can, bị cáo.
Thứ tư, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ việc xét xử còn thiếu thốn, chưa tạo
điều kiện tốt nhất cho việc xét xử. Số lượng Tòa án chưa đủ để giải quyết các vụ
6


việc, diện tích trụ sở nhỏ, hẹp, chỗ ngồi còn thiếu. Hệ thống âm thanh, ánh sáng,
hệ thống lưu trữ tài liệu... chưa đủ đáp ứng yêu cầu xét xử.
Từ một số nguyên nhân trên, ta có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam.
5. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC
THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ
5.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
a. Hoàn thiện các quy định về xét xử sơ thẩm
Một là, cần hoàn thiện quy định về việc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử
của Tòa án. Điều 182 Bộ luật tố tụng hình sự quy định chỉ giao quyết định đưa vụ
án ra xét xử cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa là chưa
thật sự đảm bảo quyền và lợi ích của tất cả những người tham gia tố tụng. Do đó,
Điều 182 cần mở rộng đối tượng được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử bao
gồm cả những người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích liên quan, đặc biệt là
người bị hại (hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền lợi của họ).
Những người này cần được biết sớm nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử
giống như bị cáo, để có thời gian chuẩn bị bảo vệ quyền lợi tại Tòa án.
Hai là, cần sửa đổi quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, cụ
thể cần bỏ Điểm c Khoản 2 Điều 187 Bộ luật tố tụng hình sự (Nếu sự vắng mặt
của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ,
Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo). Nó sẽ hạn chế tối đa các trường hợp xét xử

vắng mặt bị cáo, góp phần làm giảm các đơn kháng cáo của bị cáo đối với bản án,
quyết định của Tòa án sau này.
Ba là, cần sửa đổi quy định tại Điều 207 về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo xét xử khách
quan. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử chỉ hỏi có tính chất nêu vấn đề; việc hỏi để
buộc tội, gỡ tội chủ yếu dành cho Kiểm sát viên và người bào chữa.
b. Hoàn thiện các quy định về xét xử phúc thẩm

7


Một là, thời hạn xét xử phúc thẩm và việc triệu tập bị cáo, người tham gia tố
tụng đến phiên tòa phúc thẩm quy định tại Điều 242 chưa phù hợp với khả năng
hoàn thành việc chuẩn bị xét xử với từng tội phạm cụ thể. Nếu quy định thời hạn
xét xử chung cho tất cả các loại tội phạm tại các cấp Tòa án có quyền xử phúc
thẩm như vậy dễ dẫn đến việc thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài với các vụ án
đơn giản và không đủ thời gian nghiên cứu, chuẩn bị đối với các vụ án nghiêm
trọng. Do đó, cần sửa đổi thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo tính chất của
các loại tội phạm chứ không phải theo cấp Tòa án như quy định hiện hành.
Hai là, cần có các quy định rõ ràng hơn về thủ tục tố tụng ở cấp phúc thẩm.
Phúc thẩm là một cấp xét xử, do đó các quy định chung về thủ tục tố tụng cần có
sự tương đồng với thủ tục xét xử sơ thẩm để đảm bảo thực hiện triệt để nguyên tắc
hai cấp xét xử. Tuy nhiên cũng cần có quy định thể hiện sự khác biệt về thủ tục
giữa hai phiên tòa xét xử này.
5.2. Đổi mới, cải cách cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân
Một là, cần tổ chức hai loại Toà án sơ thẩm: Toà án xét xử các vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp và Toà án xét xử các vụ án có tính chất ít nghiêm
trọng, đơn giản, rõ ràng.
Hai là, cần thành lập các Toà án phúc thẩm độc lập ở các vùng, không nên
coi Toà án phúc thẩm là Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao. Với chức

năng phá án, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và
làm án lệ, không nên có một Toà án tối cao với hàng trăm thẩm phán như hiện
nay. Các thẩm phán Toà án phúc thẩm không nên là thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao. Toà án nhân dân tối cao chỉ gồm 15 đến 17 thẩm phán và cấu thành Hội
đồng (toàn thể) thẩm phán; tất cả các thẩm phán này đều tham gia vào các hoạt
động nghiệp vụ của Toà án nhân dân tối cao.
5.3. Nâng cao hiệu quả công tác giải thích, áp dụng pháp luật
Muốn nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, pháp luật sau khi ban hành phải
được giải thích, hướng dẫn một cách kịp thời, cụ thể và rõ ràng. Để thực hiện được
điều đó, cần phải có sự giao trách nhiệm giải thích pháp luật trong lĩnh vực xét xử
8


cho Tòa án nhân dân tối cao chứ không chỉ cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Nguyên nhân vì đây là cơ quan trực tiếp áp dụng pháp luật nên dễ dàng phát hiện
những vướng mắc, bất cập, sự không rõ ràng và cụ thể trong các quy định của
pháp luật. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao có bề dày kinh nghiệm thực hiện
chức năng tổng kết, hướng dẫn xét xử nên việc giải thích pháp luật sẽ chính xác
hơn so với các cơ quan khác. Việc giải thích này chỉ có giá trị thực tiễn cao khi đi
kèm với công tác hướng dẫn thực hiện pháp luật.
Ngoài ra, tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử với việc bỏ thẩm quyền xét
xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao như đã phân tích sẽ tạo điều kiện cho
Tòa án nhân dân tối cao tập trung vào việc hướng dẫn áp dụng pháp luật. Không
chỉ vậy, việc bỏ thẩm quyền xét xử cấp phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao
còn giúp Tòa án có điều kiện thực hiện những chức năng mới như giải thích pháp
luật; tổng kết, phát triển và ban hành án lệ… góp phần giải quyết tính thiếu đồng
bộ, thiếu khả thi của hệ thống pháp luật nước ta hiện nay.
5.4. Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng và đội ngũ luật sư
a. Nâng cao năng lực của thẩm phán
Trước tiên cần thay đổi cơ chế bổ nhiệm thẩm phán. Những thẩm phán được

bổ nhiệm phải là những thẩm phán giỏi, có khả năng xét xử, có kiến thức lý luận
và thực tiễn tốt, có bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng. Vì là
những thẩm phán giỏi nên nhiệm kỳ cần được kéo dài hơn chứ không bị giới hạn
như hiện nay, nhằm tận dụng tối đa các kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm xét xử
đã được tích lũy trong thời gian công tác của họ.
Ngoài ra cũng cần có chế độ lương bổng hợp lý cho các thẩm phán để hạn
chế tối đa việc các thẩm phán bị dụ dỗ, mua chuộc dẫn đến hành vi vi phạm pháp
luật, xử oan, xử sai, làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào cơ quan nhà
nước và sự nghiêm minh của pháp luật.
b. Nâng cao năng lực hội thẩm
Hội thẩm nhân dân cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương thích
với tình hình thực tế xã hội. Việc bầu ra Hội thẩm nhân dân phải có những quy
9


định chặt chẽ, tiêu chuẩn cụ thể hơn nữa để đảm yêu cầu về năng lực trình độ của
hội thẩm. Đó phải là những người thực sự công tâm, không ngại va chạm và biết
làm đúng vai trò hội thẩm của mình. Từ đó, chất lượng của công tác xét xử sẽ
được nâng cao hơn và cũng từ đó mà đảm bảo được hiệu quả thực hiện của các
nguyên tắc trong quá trình tố tụng hình sự.
c. Nâng cao năng lực của điều tra viên, kiểm sát viên
Thực hiện đúng quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm, miễn nhiệm điều tra viên,
đảm bảo sự thống nhất các tiêu chuẩn về học vấn, nghiệp vụ đối với các chức danh
tư pháp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
cơ quan điều tra. Các kiểm sát viên cũng phải chú trọng nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ để không bị động, lung túng khi tranh tụng tại phiên tòa với luật
sư và những người tham gia tố tụng khác.
d. Nâng cao năng lực của luật sư
Để nâng cao năng lực của các luật sư, ngoài việc đào tạo thật tốt những kiến
thức căn bản, vấn đề đào tạo lại luật sư cũng là một vấn đề quan trọng. Việc đào

tạo lại nhằm giúp đội ngũ luật sư luôn luôn được cập nhật kiến thức mới, nâng cao
các kỹ năng nghề nghiệp. Những luật sư nào không đáp ứng được các yêu cầu của
các quá trình nâng cao kiến thức sẽ bị tước chứng chỉ hành nghề, điều đó sẽ giúp
các luật sư không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức, nâng cao chất lượng tranh
tụng khi tham gia phiên tòa.
5.5. Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động xét xử
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác xét xử cần được tăng cường,
như đầu tư xây dựng mới và mở rộng trụ sở làm việc, nâng cao chất lượng trụ sở...
Ngoài ra các trang thiết bị làm việc khác như xe cộ, bàn ghế hội trường xét xử, bàn
ghế làm việc, loa đài, máy vi tính, máy photocopy... cũng cần được tăng cường,
giúp cho các Tòa án có những điều kiện tốt hơn để phục vụ công tác.
B. KẾT LUẬN

10


Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được ghi nhận thành một điều
luật – Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự. Nó là quan điểm chung chỉ đạo trong tổ
chức tố tụng, tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng trình
tự tố tụng, bảo đảm xét xử đúng đắn, khách quan về vụ án, bảo vệ có hiệu quả các
quyền của những người tham gia tố tụng. Do đó, cần có những giải pháp thiết thực
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nguyên tắc trong thực tiễn xét xử hiện nay.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011;

2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002;
4. ThS. Vũ Gia Lâm, Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng hình sự Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2008;
5. ThS. Vũ Gia Lâm, Hoàn thiện một số quy định về xét xử sơ thẩm hình sự nhằm

thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử, Tạp chí Toà án nhân dân, Toà
án nhân dân tối cao, Số 21/2011;
6. ThS. Vũ Gia Lâm, Đổi mới tổ chức hệ thống toà án nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, Tạp chí luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 6 /2007;
7. Mạnh Hùng, Sau 11 năm, bị cáo tại vụ án vườn điều vẫn kêu oan, báo Người
lao động, 28/07/2004;
8. PGS.TS. Trần Văn Độ, Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến việc tổ chức tòa án
các cấp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Số 10/2004;
9. Bùi Mai Chi, Tăng cường cơ sở vật chất cho các Tòa án, bài viết trên báo An
ninh đời sống, 12/04/2009;
10. Nguyễn Văn Phương, Đào tạo nghề luật sư phục vụ cải cách tư pháp, Tạp chí
nghề luật, Số chuyên đề Kỷ niệm 10 năm thành lập Học viện Tư pháp, 2008.

12



×