Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.98 KB, 11 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------Kháng cáo, kháng nghị là quyền của những người tham gia Tố tụng và
Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực
tiếp xét lại bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 (BLTTHS) đã dành riêng một
chương để quy định về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cũng như các vấn
đề liên quan. Bài viết sau đây đi vào tìm hiểu quy định của BLTHHS về
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cũng như thực tiễn thi hành các quy định
của pháp luật. Từ đó đưa ra một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật hiện hành.
I.

KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO QUY

ĐỊNH CỦA BLTTHS.
1. Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm là toàn bộ hoặc một
phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và một số các
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
BLTTHS không có quy định cụ thể những quyết định nào của Tòa án
cấp sơ thẩm là đối tượng kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, thông qua các
quy định khác trong BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành có
thể xác định được các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là đối tượng của
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm gồm: quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ
án (khoản 2 Điều 239 BLTTHS), quyết định về việc áp dụng biện pháp chữa
bệnh (khoản 2 Điều 316 BLTTHS). Quyết định của Tòa án về việc miễn,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt hoặc rút ngắn thời gian thử thách của án
treo có thể là đối tượng của kháng nghị phúc thẩm.
BLTTHS không quy định căn cứ kháng cáo nhưng kháng nghị của
Viện kiểm sát thì phải nêu rõ lý do (khoản 2 Điều 233 BLTTHS), có thể là:


Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; kết
luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với tình tiết
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------khách quan của vụ án; có những vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự;
có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
(Theo quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự).
2. Chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
2.1. Chủ thể có quyền kháng cáo phúc thẩm (Điều 231 BLTTHS).
Bị cáo và người đại diện theo pháp luật của bị cáo chưa thành niên, có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo một phần hoặc
toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm liên quan đến mình hoặc người mà
mình đại diện. Người được Tòa án tuyên bố là không có tội có quyền kháng
cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.
Người bào chữa cho bị cáo chưa thành niên, có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích cho bị cáo. Đây là
quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào ý kiến của bị cáo, đồng thời
không làm loại trừ quyền tự kháng cáo của bị cáo.
Người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ
thẩm theo hướng có lợi hoặc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Người đại diện theo pháp luật của người bị hại trong trường hợp người
bị hại chết, chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần có
quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc
làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Người đại diện của người bị hại theo ủy

quyền có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến
việc bồi thường thiệt hại.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ
có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại.

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện
hợp pháp có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm liên quan
đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ hoặc chủ thể mà họ đại diện.
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự chưa thành niên, có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ
thẩm liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Đây là
quyền kháng cáo độc lập, không phụ thuộc vào sự đồng ý của đương sự.
2.2. Chủ thể có quyền kháng nghị phúc thẩm (Điều 232 BLTTHS).
Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm và viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm. Trong trường hợp hai bản
kháng nghị có nội dung bổ sung cho nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm chấp
nhận cả hai bản kháng nghị để xét xử. Trong trường hợp hai bản kháng nghị
có nội dung mâu thuẫn nhau thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ chấp nhận kháng
nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xét xử. Việc chấp nhận ở đây chỉ
mang nghĩa là chấp nhận về mặt hình thức, chấp nhận kháng nghị để mở
phiên tòa phúc thẩm chứ không phải hội đồng xét xử quyết định theo yêu cầu
của kháng nghị.

3. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
3.1. Thời hạn kháng cáo phúc thẩm (Điều 234, 235 BLTTHS).
Thời hạn kháng cáo bản án là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng
cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Thời hạn kháng cáo những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:
- Đối với quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm
là 7 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
- Đối với quyết định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của
Tòa án cấp sơ thẩm tương tự thời hạn kháng cáo bản án, nghĩa là 15 ngày kể
từ ngày có quyết định.
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------Kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng, có
thể là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà người kháng
cáo không thể thực hiện được việc kháng cáo trong thời hạn luật định. Việc
xét lý do kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa phúc
thẩm không phụ thuộc vào kháng cáo của những chủ thể khác trong thời hạn
luật định. Tòa án cấp sơ thẩm thành lập hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán để
xét lý do kháng cáo quá hạn thông qua phiên họp bắt buộc phải có sự tham
gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp. Trong trường hợp cần thiết hội đồng
xét xử có quyền triệu tập người kháng cáo quá hạn đến phiên họp trình bày bổ
sung về lý do kháng cáo quá hạn hoặc yêu cầu họ cung cấp giấy tờ, tài liệu bổ
sung chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn của mình là có lý do chính
đáng. Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp

nhận kháng cáo quá hạn.
3.2. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm (Điều 234 BLTTHS).
Thời hạn kháng nghị bản án của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày,
của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Thời hạn kháng nghị những quyết định của Viện kiểm sát cùng cấp là 7
ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra
quyết định.
3.3. Cách xác định một số thời điểm liên quan đến thời hạn kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm.
Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của
ngày được xác định, có thể là:
- Ngày Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án, trong trường hợp bị cáo, đương sự
có mặt tại phiên tòa kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị;
- Ngày bản án được giao hoặc niêm yết, trong trường hợp bị cáo, đương
sự vắng mặt tại phiên tòa kháng cáo;

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

4


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------- Ngày Tòa án ra quyết định, trong trường hợp Viện kiểm sát kháng
nghị;
- Ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định, trong trường
hợp quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án.
Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết
thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời
hạn vào lúc 24h của ngày đó. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ

cuối tuần hoặc nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm
việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó.
Về ngày kháng cáo được xác định theo khoản 2 Điều 234 BLTTHS
như sau:
- Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo là
ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì;
- Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam thì ngày
kháng cáo là ngày Ban giám thị nhận được đơn.
- Trường hợp người kháng cáo đến nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp về
việc kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhậ đơn hoặc lập
biên bản về việc kháng cáo.
4. Quá trình kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Thứ nhất, về thủ tục kháng cáo, kháng nghị, theo quy định tại điều 233
BLTTHS. Người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Tòa
án cấp phúc thẩm hoặc trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc
kháng cáo. Viện kiểm sát kháng nghị bằng văn bản, nêu rõ lý do và gửi đến
Tòa án đã xử sơ thẩm.
Thứ hai, về thông báo kháng cáo, kháng nghị. Theo điều 236 BLTTHS
thì việc kháng cáo, kháng nghị phải được Tòa án cấp sơ thẩm thông báo cho
Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị. Người được thông báo về
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

5


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------việc kháng cáo, kháng nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội
dung kháng cáo, kháng nghị cho tòa án cấp phúc thẩm. Ý kiến của họ được

đưa vào hồ sơ vụ án.
Thứ ba, theo quy định tại khoản 2 điều 237 BLTTHS thì Tòa án cấp sơ
thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án cấp phúc
thẩm trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Thứ tư, về việc bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị,
BLTTHS ghi nhận tại điều 238. Chủ thể kháng cáo, kháng nghị có quyền bổ
sung, thay đổi kháng cáo kháng nghị nhưng không làm xấu đi tình trạng của
bị cáo; có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Về việc bổ
sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nghị quyết 05/2005/NQ – HĐTP có
hướng dẫn như sau:
- Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì người
kháng cáo, viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung
kháng cáo, kháng nghị đối với phần hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền
kháng cáo, kháng nghị theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo.
- Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì trước khi
bắt đầu phiên hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo, viện kiểm sát
đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị
nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo.
Trong trường hợp người kháng cáo, viện kiểm sát rút toàn bộ kháng
cáo, kháng nghị, trong vụ án không còn kháng cáo, kháng nghị thì việc xét xử
phúc thẩm phải được đình chỉ. Trước khi mở phiên tòa, thẩm quyền ra quyết
định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm thuộc về thẩm phán được phân công chủ
tọa phiên tòa. Tại phiên tòa, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm thuộc về hội đồng xét xử. Trong trường hợp người kháng cáo rút một
phần kháng cáo, nhiều người kháng cáo nhưng có người rút, có người không
rút kháng cáo, viện kiểm sát rút một phần kháng nghị thì Tòa án xét xử đối
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

6



BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------với phần kháng cáo, kháng nghị còn lại. Trong trường hợp người kháng cáo,
viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng sau
đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng
nghị thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
5. Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
 Hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với việc thi
hành án (Điều 237 BLTTHS):
Kháng cáo, kháng nghị toàn bộ bản án thì bản án chưa được đưa ra thi
hành. Kháng cáo, kháng nghị một phần bản án thì phần bản án bị kháng cáo,
kháng nghị chưa được đưa ra thi hành. Phần bản án đối với những bị cáo
không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và
được thi hành.
Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm vẫn được thi
hành ngay mặc dù có kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp bị cáo đang bị
tạm giam mà tòa án quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt tù không phải là tù giam
hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn
hơn thời hạn tạm giam (khoản 2 điều 255 BLTTHS). Quyết định áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh của Tòa án vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có
kháng cáo, kháng nghị (khoản 3 điều 316 BLTTHS).
 Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với phạm vi xét
xử phúc thẩm (Điều 241 BLTTHS):
Tòa án cấp phúc thẩm phải xem xét nội dung của tất cả các kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp. Đồng thời, Tòa án cấp phúc thẩm cũng có thể xem xét
các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm nếu xét
thấy cần thiết. Tuy nhiên, việc thế nào là cần thiết thì không được quy định cụ
thể. Theo khoản 2 điều 249 BLTTHS quy định Tòa án cấp phúc thẩm có thể

giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển
TỐ TỤNG HÌNH SỰ

7


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho
hưởng án treo đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng
cáo, kháng nghị.
II.

THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH VỀ KHÁNG CÁO,

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM.
Bất kỳ một quy định nào của pháp luật khi đưa ra thi hành cũng có sự
phản hồi của thực tế. Việc quy định đó có hợp lý hay không bắt buộc phải có
sự đánh giá từ chính việc áp dụng pháp luật. Trong thực tiễn áp dụng pháp
luật các quy định của BLTTHS về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm có một
số các điểm đáng chú ý như sau:
 Căn cứ để xét xử theo thủ tục phúc thẩm là có kháng cáo, kháng nghị
một phần hay toàn bộ bản án cũng như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Cùng với đó, BLTTHS cũng quy định tính chất của xét xử phúc thẩm là việc
Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án,
quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị. Tuy nhiên BLTTHS cũng có quy định thẩm quyền xem xét các
phần không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm của Tòa án cấp
phúc thẩm. Phải chăng trong quy định của BLTTHS đã có sự mâu thuẫn giữa
việc xác định tính chất của xét xử phúc thẩm và xác định thẩm quyền của Tòa

án cấp phúc thẩm? Tuy nhiên, sự mâu thuẫn này trên thực tế vẫn được chấp
nhận áp dụng. Có thể giải thích nguyên nhân của việc này là do tính chất nhân
đạo trong quá trình áp dụng pháp luật về hình sự. Những trường hợp được
xem xét phần bản án không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực đều có
hướng tạo ra sự có lợi cho bị cáo. Điều này cũng thỏa mãn nguyên tắc xác
định sự thật vụ án theo điều 10 BLTTHS.
 Điều 231 BLTTHS quy định về chủ thể có quyền kháng cáo nhưng lại
không quy định cụ thể về hướng kháng cáo mà các chủ thể này có quyền thực
hiện. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2005/NQ – HĐTP thì chỉ đưa ra quy
định cho người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

8


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------cáo theo hai hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo, nhưng về phía bị cáo,
người đại diện hợp pháp của bị cáo thì không có sự cụ thể, do đó dẫn đến sự
bất đồng trong cách hiểu cũng như áp dụng pháp luật. Cùng với đó theo
khoản 3 Điều 249 BLTTHS thì chỉ trong trường hợp người bị hại kháng cáo
và Viện kiểm sát kháng nghị thì Tòa án phúc thẩm mới được sửa bản án sơ
thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo. Nhưng kháng cáo theo hướng bất
lợi cho bị cáo của các chủ thể khác theo quy định của pháp luật vẫn có thể
được tòa án phúc thẩm chấp nhận, nhưng tòa lại không được xử theo hướng
đó. Vậy thì việc chấp nhận đơn kháng cáo này của tòa phúc thẩm phải chăng
là không cần thiết?
 Tiếp theo cần kể đến sự thiếu thống nhất giữa bộ luật và văn bản hướng
dẫn thi hành. Điều 238 BLTTHS quy định về việc bổ sung, thay đổi, rút

kháng cáo, kháng nghị chỉ có thể theo hướng có lợi cho bị cáo trong mọi
trường hợp. Tuy nhiên, khi hướng dẫn quy định trong bộ luật, với mục đích
tạo thuận lợi cho chủ thể kháng cáo, kháng nghị, Nghị quyết 05/2005/NQ –
HĐTP đã quy định thành hai trường hợp theo thời hạn kháng cáo, kháng nghị,
đó là:
- Nếu việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì chủ thể có quyền có
thể sửa đổi, bổ sung hoặc rút kháng cáo, kháng nghị theo bất kỳ hướng nào,
dù là có lợi hay làm xấu đi tình trạng của bị cáo;
- Nếu việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị ngoài thời hạn
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật thì chủ thể có quyền chỉ
có thể thực hiện theo hướng có lợi cho bị cáo.
- Cạnh đó, trong cơ chế hai cấp xét xử, phúc thẩm là cấp thứ hai để xử lại
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Phạm vi xét xử phúc thẩm được khoanh trong nội dung có kháng
cáo, kháng nghị. Cấp phúc thẩm có quyền chấp nhận hay bác bỏ kháng cáo,
kháng nghị và tuyên y án sơ thẩm, sửa án, hủy án để điều tra, xét xử lại hay

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

9


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------đình chỉ vụ án. Thực tiễn xét xử cho thấy Điều 249 BLTTHS về sửa bản án sơ
thẩm chưa bao quát hết các trường hợp phát sinh. Chẳng hạn, điều luật quy
định hội đồng xét xử phúc thẩm được tuyên giữ nguyên mức hình phạt tù của
án sơ thẩm nhưng cho hưởng án treo mà không quy định ngược lại là đổi án
treo sang án tù. Như vậy, tòa phúc thẩm bó tay khi muốn sửa theo hướng giữ

nguyên hình phạt tù nhưng bỏ phần cho hưởng án treo. Tương tự, nếu cấp sơ
thẩm ra quyết định miễn trách nhiệm hình sự, tức bị cáo được tha khi chưa
phải ra trước vành móng ngựa thì tòa cấp trên bó tay, không xử phúc thẩm
được dù thấy việc miễn của cấp dưới là sai.
Việc quy định mỗi nội dung trong từng điều luật cụ thể còn có sự
chồng chéo, thiếu nhất quán, đồng thời tạo ra những lỗ hổng pháp lý trong
quá trình thực hiện áp dụng pháp luật. Nhìn chung các quy định của BLTTHS
còn sơ sài, khi áp dụng các chủ thể chủ yếu sử dụng các văn bản hướng dẫn
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mà không bám sát vào quy
định thực định trong BLTTHS.
III.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM.


Trước hết, cần bổ sung quy định thủ tục xem xét việc bổ sung,

thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa.
Điều 238 BLTTHS quy định về quyền của chủ thể kháng cáo kháng
nghị có quyền bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị như sau: Trước
khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát
có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị những không được làm xấu
hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị.
Điều này đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2005/NQ - HĐTP. Tuy
nhiên, thủ tục giải quyết việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị tại
phiên tòa cần được quy định trong Điều 247 BLTTHS vì thủ tục này là thủ
tục của phiên tòa phúc thẩm, không thể áp dụng thủ tục phiên tòa sơ thẩm,
TỐ TỤNG HÌNH SỰ


10


BÀI TẬP HỌC KỲ
ĐỀ SỐ 11
--------------------------------------------------------------------------------------------nếu không quy định trong điều luật sẽ không có căn cứ pháp lý để giải quyết.
Việc xem xét, giải quyết phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
Hội đồng Xét xử có thể không chấp nhận việc bổ sung, thay đổi kháng cáo,
kháng nghị nếu vi phạm Điều 238 BLTTHS. Nếu việc bổ sung kháng cáo dẫn
đến việc phạm vi xét xử phúc thẩm liên quan đến những người tham gia tố
tụng khác chưa được triệu tập thì cần phải hoãn phiên tòa để triệu tập thêm
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Trong
trường hợp Viện kiểm sát, người kháng cáo rút kháng cáo, kháng nghị tại
phiên tòa thì việc rút kháng cáo, kháng nghị phải được ghi vào biên bản. Nếu
rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình
chỉ. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng nghị hoặc còn có kháng cáo, kháng
nghị khác thì Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phần kháng cáo, kháng nghị còn
lại và cả những phần đã rút theo hướng giảm nhẹ về hình sự cho bị cáo theo
quy định tại Điều 241 BLTTHS và khoản 2 Điều 249 BLTTHS.


Về tổng quan, cần phải rà soát toàn bộ các điều luật để tạo nên

sự thống nhất, logic và hợp lý, tránh tình trạng điều sau mâu thuẫn với điều
trước, nội dung sau trái với nội dung trước. Hơn nữa, cần quy định một cách
cụ thể hơn, tránh tình trạng chung chung, không biết áp dụng thế nào trong
thực tế. Khi áp dụng phải chờ đợi các văn bản hướng dẫn và việc hướng dẫn
không sát theo những gì đã quy định trong luật, gây khó khăn trong việc giải
thích và xác định căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc.


TỐ TỤNG HÌNH SỰ

11



×