Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.33 KB, 10 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP NHÓM
CHUYÊN ĐỀ 4
Đề tài: Phân tích nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn
CHUYÊN NGÀNH

:

Triết học

LỚP

:

CH23UD

NHÓM

:

9

Hà Nội - 01/2016


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9


STT

Họ và tên

Đánh giá

1

Vũ Thị Nguyệt

2

Nguyễn Thị Hồng Nhung

3

Đỗ Kim Oanh

4

Lê Thị Oanh

5

Phạm Văn Oanh

6

Nguyễn Thị Phượng


7

Nguyễn Đức Quang (Nhóm trưởng)

8

Nguyễn Thị Quyền

9

Đặng Thúy Quỳnh

10

Nguyễn Thị Thảo

11

Trần Thị Thảo

2


MỞ ĐẦU
Trong lịch sử triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy
được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm
của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu
tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động
tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người. Nói
cách khác, họ gạt bỏ vai trò của thực tiễn trong xã hội.

Mác - Ăng ghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được
những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa
ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với
nhận thức cũng như đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Với việc
đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác - Ăng ghen đã thực hiện bước chuyển
biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.

3


NỘI DUNG
I. Khái niệm thực tiễn và lí luận
1. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn.
Thực tiễn (Practice) là phạm trù cơ bản trong lí luận nhận thức mác
xít. V.I. Lê nin cho rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lí luận nhận thức”.
Bàn về “thực tiễn”, trong lịch sử triết học đã từng tồn tại nhiều quan
niệm khác nhau. Triết học trước Mác về thực tiễn tiêu biểu như:
+ Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần
của con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất.
+ Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã hiểu được thực tiễn là hành động
vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt động con buôn đê tiện,
không có vai trò gì đối nhận thức của con người.
Những quan điểm trên đều chưa toàn diện và đúng đắn. Khắc phục
những hạn chế đó, triết học Mác - Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là
một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý
luận nhận thức nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến
cách mạng trong triết học. Triết học Mác khẳng định:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang
tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Như vậy, khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất
làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng
và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách
quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch
sử. Do vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và
mang tính lịch sử - xã hội.
4


Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản:
• Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng công cụ lao động tác
động vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm vật chất nhằm duy trì sự tồn tại
thiết yếu của mình.
• Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng
đồng người khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy
xã hội phát triển.
• Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều
kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận động của đối
tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, nó có vai
trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
• Giữa các dạng hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò quyết
định. Bởi vì nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất tạo ra điều
kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển; đồng thời cũng tạo điều
kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn các dạng hoạt động khác
nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất vật chất được tăng
cường, nếu phản tiến bộ thì kìm hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.

• Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động
làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng có vai
trò quan trọng đối với nhận thức.
2. Lí luận và các cấp độ lí luận
Lí luận theo tiếng Hy Lạp là “theoria” có nghĩa là sự quan sát,
nghiên cứu, nhận ra, thảo luận.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “lí luận”, song có thể hiểu theo
cách phổ biến nhất: “Lí luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về
5


một lĩnh vực nào đó trong thế giới. Nói cách khác, lí luận là hệ thống các
luận điểm nhất định gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt logic và phản ánh
bản chất, các quy luật, hoạt động và phát triển của khách thể được nghiên
cứu”.
Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn
nhu cầu hiểu biết của mình về thế giới, trên cơ sở đó nhằm cải biến thế
giới. Sự hiểu biết của con người cũng có nhiều cấp độ khác nhau.
Cấp độ thấp của nhận thức là kinh nghiệm. Đây là loại nhận thức
hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Có hai loại, tri thức kinh
nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành
từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất.
Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo
sát các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ
sở để hình thành nhận thức khoa học và lý luận. Hai loại tri thức này có
quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên tính phong phú,
sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
Trình độ cao hơn của nhận thức là lý luận. Đây là loại nhận thức

gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật,
hiện tượng. Nhận thức lý luận có tính gián tiếp vì nó được hình thành và
phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có
tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất
mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể
hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Lí luận cũng có những cấp độ khác nhau như lí luận chung nhất, lí
luận chuyên ngành,…

6


II. Sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn
1. Vai trò của thực tiễn đối với lí luận
Thực tiễn và lí luận không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau,
trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lí
luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức.
Sở dĩ như vậy là vì :
+ Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề ra nhu
cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển của nhận
thức.
+ Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và
cải tạo thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào
các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự
vật vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ
bên trong.
+ Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người
ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng
cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có

tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế
giới.
+ Hơn nữa, nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết
không phải vì bản thân nhận thức mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các
vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân
lý của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy là vì:

7


+Thực tiễn là thước đo giá trị của những nhận thức đã đạt được
trong quá trình nhận thức, đồng thời không ngừng bổ sung, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
+Nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình
thức trực tiếp và gián tiếp, điều đó không thể tránh khỏi tình trạng là kết
quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt
khác, trong quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự vật cần nhận
thức không đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng.
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn mà con người khái quát, tổng hợp và
xây dựng thành lí luận. Chính quá trình phát triển của thực tiễn đã đặt ra
những vấn đề đòi hỏi lí luận phải giải đáp. Lí luận được hình thành, phát
triển và kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ xung, phát triển trong
thực tiễn.
2. Vai trò của lí luận đối với thực tiễn
Lí luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song
nó có tính độc lập tương đối. Điều đó thể hiện ở chỗ, không phải lí luận
nào cũng xuất phát từ kinh nghiệm, có lí luận được xây dựng không trên
cơ sở những dữ liệu kinh nghiệm có trước. Điều này chỉ có thể lí giải bởi
tính ưu việt, vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lí luận có vai

trò rất to lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại làm biến đổi thực tiễn
thông qua hoạt động của con người.
Mác cho rằng, lí luận cũng trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng. Lí luận được xem như « kim chỉ nam cho
hành động ». Nó có thể dự kiến được phương hướng vận động và phát
triển của các sự vật, hiện tượng, phương hướng phát triển của thực tiễn.
Lí luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó góp phần
hạn chế tính mò mẫm, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ động tích cực
trong hoạt động của con người.
8


Tuy nhiên, lí luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, mang
tính trừu tượng cao nên không phải lúc nào nó cũng mang lại nhận thức
đúng đắn, chính xác. Nếu nó phản ánh hư ảo hiện thực thì trở thành lí luận
tôn giáo. Nếu nó phản ánh sai, bóp méo hiện thực thì trở thành lí luận duy
tâm trong triết học. Nếu nó lạc hậu, không phù hợp với hiện thực, phản
ánh xa rời hiện thực, thành ảo tưởng, giáo điều thì trở thành sức cản đối
với sự phát triển xã hội, thậm chí trở thành lí luận phản động, phản tiến
bộ nếu nó được giai cấp phản động sử dụng.
Do vậy cần phân biệt lí luận nói chung với lí luận khoa học, lí luận
phản khoa học, lí luận tiến bộ, lí luận phản tiến bộ.
Lí luận xuất phát từ thực tiễn, không xa rời thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn là lí luận khoa học. Lí luận góp phần thúc đẩy sự phát triển của
thực tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội là lí luận khoa học
tiến bộ.

9



KẾT LUẬN
Lí luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau.
Trong đó, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý. Còn lí luận sau khi ra đời sẽ tác động trở lại sự phát triển của
thực tiễn.
Do lí luận và thực tiễn thống nhất với nhau nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, cần chú ý đúng mức tới cả hai nhân tố này; coi trọng lí luận song
không cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò của lí luận, xem thường thực tiễn, tách lí
luận khỏi thực tiễn. Lê nin cho rằng, bản thân ý chí của con người, thực tiễn của
con người đối lập với sự thực hiện mục đích của con người,… do chúng tách rời
khỏi nhận thức và không thừa nhận hiện thực bên ngoài là tồn tại khách quan.
Phải có sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lí
luận và thực tiễn rằng : « Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Thực tiễn không có lí luận dẫn đường thì
thành thực tiễn mù quáng. Lí luận không liên hệ với thực tiễn là lí luận suông ».
Trong bối cảnh đất nước đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc
nghiên cứu và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn vào thực
tiễn xã hội nước ta là một việc làm vô cùng quan trọng và cần thiết.

10



×