LỜI MỞ ĐẦU
Biển Đông là một vùng biển nửa kín có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh
và phát triển của các quốc gia ven bờ. Vùng biển này án ngữ nhiều tuyến đường hàng hải
quan trọng nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Biển Đông được cho là có môi
trường biển đa dạng và nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu khí và thủy sản. Hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được ví như hai pháo đài nổi trên biển Đông, có vị trí
đặc biệt quan trọng trong chiến lược an ninh quốc phòng của các quốc gia và vùng lãnh
thổ ven bờ như Trung Quốc, Đài Loan và bốn thành viên của ASEAN là Việt Nam,
Indonesia, Malaysia và Brunei. Có lẽ vì lý do đó, vùng biển đảo này trở thành đối tượng
tranh chấp giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ hơn nửa thập kỉ nay.
Kể khi Hiệp ước về Quy tắc ứng xử chung trên biển Đông (2002) được kí kết đến
trước 2007, chưa có xung đột vũ trang nào xảy ra giữa lực lượng hải quân của các nước
liên quan. Rõ ràng, Tuyên bố này bước đầu góp phần biến Biển Đông thành một vùng
biển hòa bình và ổn định hơn. Tuy nhiên, căng thẳng va chạm trên biển, đặc biệt liên
quan đến vấn đề nghề cá và khai thác dầu khí giữa Trung Quốc và các nước ASEAN,
trong đó có Việt Nam, vẫn tồn tại và gần đây có phần căng thẳng hơn.
Năm 2007, căng thẳng bùng phát khi Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa,
trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Hành động từ phía Trung Quốc gây ra phản ứng dữ dội từ Việt Nam, đặc biệt xảy ra
nhiều cuộc biểu tình quy mô phản đối quyết định của nhà cầm quyền Trung Quốc. Bên
cạnh đó, Trung Quốc liên tục bắt giữ hoặc tấn công các tàu đánh cá và ngư dân, hay gây
sức ép buộc các công ty dầu khí nước ngoài phải từ bỏ dự án đối với các đối tác Việt
Nam trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trước tình hình đó,
chính phủ Việt Nam đã có những điều chỉnh nhất định trong cách tiếp cận của họ đối với
vấn đề tranh chấp Biển Đông theo hướng công khai hóa và quốc tế hóa. Một số cuộc tọa
đàm, hội thảo quốc gia và quốc tế về vấn đề Biển Đông đã được tổ chức. Các phương
tiện truyền thông Việt Nam cũng công khai bình luận các khía cạnh an ninh – quân sự,
kinh tế, luật pháp của vấn đề tranh chấp biển, đồng thời đưa tin về các hành động bắt bớ,
ngăn cản tàu thuyền Việt Nam của các lực lượng Trung Quốc. Ngày 6/5/2009, Việt Nam
và Malaysia nộp báo cáo chung về Ranh giới ngoài của thềm lục địa khu vực phía Nam
Biển Đông, và một ngày sau, Việt Nam nộp báo cáo riêng lên Ủy ban Thềm lục địa của
Liên Hiệp Quốc.
Trong một nỗ lực củng cố quốc phòng, Việt Nam đặt mua một số tàu ngầm và vũ
khí tối tân của Nga với số tiền bằng phân nửa ngân sách quốc phòng của Việt Nam.
Tranh chấp ở Biển Đông từ lâu đã trở thành một đề tài tranh cãi sôi nổi trong giới
học giả nghiên cứu về an ninh trong nước và quốc tế. Đây cũng là vấn đề đau đầu cho các
chính phủ của các quốc gia liên quan đến tranh chấp. Do đó, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau trong tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ ở Biển
Đông. Tuy nhiên, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ những
diễn biến mới ở Biển Đông và những điều chỉnh trong cách tiếp cận của Việt Nam đối
với các tranh chấp ở khu vực này. Thêm vào đó, ở góc độ hoạch định chính sách, cần có
thêm những phân tích kĩ lưỡng về tính hiệu quả và dự báo ảnh hưởng ngắn và dài hạn của
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
2
những điều chỉnh chính sách trên. Đó là những cơ sở khoa học và thực tiễn để nhóm
chúng tôi chọn lựa đề tài.
Với ý nghĩa đó, bài tiểu luận mong muốn làm rõ các câu hỏi:
-
Trước những động thái ngày càng hung hăng của Trung Quốc, ngoại giao Việt
Nam đã điều chỉnh chính sách ngoại giao của mình như thế nào để giải quyết tranh
chấp biển đông với Trung Hoa?
Những chính sách đối ngoại đó đã đạt được những thành tựu gì và ngoại giao Việt
Nam nên làm gì tiếp theo trong vấn đề biển đông với Trung Quốc?
-
Để trả lời những câu hỏi trên, bài tiểu luận của nhóm gồm có 4 phần:
I.
Bối cảnh lịch sử
Ở phần này, chúng tôi sẽ nêu khái quát về bối cảnh lịch sử trong và ngoài nước
giai đoạn 2007 – 2010.
II.
Chính sách đối ngoại của VIệt Nam với Trung Quốc trong vấn đề biển đông
giai đoạn 2007 – 2010.
Trong phần này, nhóm sẽ trình bày các chính sách đối ngoại của Việt Nam
nhằm giải quyết tranh chấp biển đông với Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2010 (gồm 3
chính sách nối bật: ngoại giao bình tĩnh, ngoại giao phòng thủ, ngoại giao du kích –
kêu gọi sự đồng thuận đa phương).
III.
Thành quả đạt được
Với những chính sách đối ngoại được triển khai ở phần II, Việt Nam đã đạt
được những gì trong mối quan hệ giữa hai nước, trong tiến độ giải quyết vấn đề biển
đông.
IV. Hướng đi trong tương lai của ngoại giao Việt Nam trong giải quyết vấn đề biển
đông với Trung Quốc
Trong phần này, nhóm sẽ đưa ra những kiến nghị, những hướng đi trong tương
lai cho Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề tranh chấp biển đông với Trung Quốc.
Để thực hiện bài tiểu luận này, nhóm đã tìm kiếm, sưu tầm tài liệu trong các giáo
trình, báo điện tử với các cuộc phỏng vấn người trong cuộc, các học giả tham gia nghiên
cứu vấn đề tranh chấp biển đông Việt – Trung và sự giúp đỡ của các thầy cô nghiên cứu
và giảng dạy của học viện Ngoại giao.
Chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Chính trị học viện Ngoại
giao đã giúp đỡ nhóm thực hiện bài tiểu luận này.
Rất mong sự ủng hộ và đóng góp ý kiến từ phía độc giả.
NHÓM THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
MỤC LỤC
I.
Bối cảnh lịch sử.............................................................................
1. Cái nhìn về “đường lưỡi bò” của các học giả quốc tế...........................
2. Quan điểm của Việt Nam về tranh chấp biển Đông giữa Việt
Nam – Trung Quốc..................................................................................
3. Việt Nam đưa ra bằng chứng pháp lý về chủ quyền trên biển............
4. Quan điểm của Trung Quốc và hành động của họ...............................
5. Sự tham gia của Mỹ vào biển Đông.......................................................
II.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc về
vấn đề biển Đông giai đoạn 2007 – 2010...............................................
1. Ngoại giao bình tĩnh................................................................................
a. Thái độ của Trung Quốc.............................................................
b. Phản ứng của Việt Nam..............................................................
2. Ngoại giao phòng thủ.............................................................................
3. Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương....................
a. Song phương không thể giải quyết ổn thỏa vấn đề biển
Đông.........................................................................................
b. Hợp tác đa phương ngày càng quan trọng trong giải quyết
các vấn đề khu vực và quốc tế..................................................
c. Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương..........
d. Ngoại giao du kích – tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh..........
III.
Thành quả đạt được...................................................................
1. Giai đoạn 2007 – 2009...........................................................................
2. Năm 2010, năm Việt Nam giữ chức chủ tịch ASEAN cho đến
nay...........................................................................................................
IV. Hướng đi trong tương lai của Việt Nam cho tranh chấp
biển đông với Trung Quốc...................................................................
1. Giải pháp 1: Giải quyết thông qua tòa án quốc tế..............................
2. Giải pháp 2: Hợp tác cùng khai thác chung........................................
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
4
I.
1.
Bối cảnh lịch sử
Cái nhìn về “đường lưỡi bò” của các học giả quốc tế
Đường "lưỡi bò", "chữ U" hay "đứt đoạn"... là
những cách gọi khác nhau mà các học giả trên thế giới
dùng để chỉ yêu sách của Trung Quốc đối với 80% diện
tích của Biển Đông, được vẽ sát vào bờ của các quốc
gia ven Biển Đông như Việt Nam, Indonesia, Malaysia,
Brunei, Philippines.
Đường yêu sách này ban đầu có 11 đoạn, do chính
quyền Trung Quốc (Quốc dân Đảng) vẽ ra vào năm
1947 và sau đó được CHND Trung Hoa tiếp tục sử
dụng nhưng có sửa đổi (bỏ bớt hai đoạn trong vịnh Bắc
Bộ nên chỉ còn lại 9 đoạn).
Công hàm của Trung Quốc đệ trình lên Ủy ban
Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng ngày 7/5/2009
có lẽ là văn bản đầu tiên trong hơn 60 năm qua, thể
hiện quan điểm chính thức của Trung Quốc về ý nghĩa pháp lý quốc tế của đường yêu
sách 9 đoạn và cũng là lần đầu tiên mà Trung Quốc chính thức công bố sơ đồ đường yêu
sách này với thế giới.
Ngoại trừ các học giả Trung Quốc, tất cả các học giả nước ngoài đều chỉ rõ, đường
lưỡi bò của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ sở pháp lý, lịch sử và thực tiễn.
Vùng nước trong "đường lưỡi bò" chiếm 80% diện tích Biển Ðông mà Trung Quốc
cho là "vùng nước lịch sử" là không thể chấp nhận được. Cộng đồng quốc tế chưa bao
giờ ghi nhận một yêu sách như vậy và sẽ không chấp nhận một vùng biển lớn nhất nhì
thế giới thuộc về quyền tài phán của một nước.
Thậm chí, Indonesia, một nước không hề dính líu đến tranh chấp Biển Đông cũng
phải chính thức gửi công hàm phản đối "đường lưỡi bò", cho rằng bản đồ đường đứt
khúc 9 đoạn của Trung Quốc là "rõ ràng không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược
lại với các quy định của Công ước Luật biển 1982".
2. Quan điểm của Việt Nam về tranh chấp biển Đông giữa Việt Nam – Trung
Quốc
• Kiên quyết khẳng định chủ quyền đối với HS-TS
• Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền là nhiệm vụ lâu dài, toàn diện, phức tạp. Đấu tranh cả
ngoại giao và trên thực địa.
• Giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân đến năm
2020 trở thành nước Công nghiệp, đi đôi với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Nhanh chóng phát
triển thực lực tổng hợp của đất nước.
• Độc lập, tự chủ trong các vấn đề đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ đối
ngoại hợp tác cùng có lợi với các nước , tạo sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau. Vừa bảo vệ
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
5
được chủ quyền nhưng cũng vừa duy trì hữu nghị , hợp tác toàn diện với các nước có
liên quan. Cành giác trước âm mưu lợi dụng bất đồng chia rẽ, cô lập VN với các nước có
liên quan.
• Giải quyết bất đồng thông qua thương lượng bình đẳng, tôn trọng luật pháp quốc
tế, giữ vững nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực.
• Thu hẹp bất đồng, tìm kiếm giải pháp lâu dài mà các bên có liên quan đều chấp
nhận được.
• Đẩy mạnh phát triển KT – QP biển
• Giáo dục ý thức chủ quyền dân tộc
3. Việt Nam đưa ra bằng chứng pháp lý về chủ quyền trên biển
Đánh dấu chủ quyền, Việt Nam có những bằng chứng sau : Theo chính sử Việt Nam
và theo nhiều nhân chứng nước ngoài, từ thế kỷ 17, các chúa Nguyễn với danh nghĩa Nhà
nước đã thành lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hàng năm ra khai thác và quản lý các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày nay vẫn còn vết tích của hoạt động đó thông qua "lễ
khao lề tế lính Hoàng Sa" được tổ chức hàng năm tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Mới đây,
từ ngày 19-21/4/2008 lễ hội đó lại được tổ chức tưng bừng để tưởng nhớ những người
lính ra đi bảo vệ vùng viễn đảo của tổ quốc mấy trăm năm trước. Đó là một bằng chứng
sống, vẫn còn có giá trị đối với Việt Nam. Tiếp đó triều Nguyễn rất quan tâm đến việc
củng cố chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo, các hoàng đế Gia Long, Minh Mạng liên
tiếp phái thuỷ quân ra Hoàng Sa - Trường Sa khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng
bia, cắm cờ (1816). Theo Đại Nam Thực Lục Chính biên, trong 3 năm: 1833, 1835, 1836
vua Minh Mạng liên tiếp có chỉ thị về Hoàng Sa.
Nhiều bản đồ do người Việt vẽ đã xác định chủ quyền ở hai quần đảo trong: Thiên
Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư trong Hồng Đức Bản Đồ; Toản Tập An Nam Lộ trong sách
Thiên Hạ Bản Đồ (của Đỗ Bá Công soạn năm Chính Hoà thứ 7-1686) và Toản Tập An
Nam Lộ . Nhiều sách của người Việt nhắc đến hai quần đảo với nhiều trích dẫn có giá trị
như:Phủ Biên Tạp Lục của nhà bác học Lê Quý Đôn (1776); Dư Địa Chí trong Lịch
Triều Hiến Chương Loại Chí (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833)Đại Nam
Thực Lục, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ(1851) của triều Nguyễn.
Sự xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa (cũng như với Trường Sa) còn được
minh chứng bằng những tài liệu do người nước ngoài ghi chép như sách Hải ngoại ký sự
của Thích Đại Sán viết năm 1696, hay của nhiều tác giả Tây phương như Le
Poivre(1749), J,Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)…;.Gần đây,
trong cuốn "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" xuất ở Paris năm
1996, giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chủ tịch Hội luật gia Châu Âu đã vìết; "Khi
có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã nắm giữ không có cạnh tranh và
trong khoảng gần hai thế kỷ, một quyền đối với các quần đảo (Hoàng Sa, Trường Sa),
theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó".
4. Quan điểm của Trung Quốc và hành động của họ
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
6
Đối với vấn đề Biển Đông, ngày 27/04, trong buổi tiếp Chủ nhiệm Ủy ban Quốc
phòng Việt Nam, ông Sun Jian Guo – Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội giải phóng
nhân dân Trung Quốc cho biết, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lớn nhất mà
hai nước còn nhiều điều chưa có sự thống nhất và tồn tại mâu thuẫn. Trung Quốc kịch
liệt phản đối việc đưa vấn đề này ngày càng trở lên “quá nóng”, phản đối việc đưa vấn
đề này thành sự kiện “quốc tế hóa”, đồng thời cũng phản đối việc các nước khác tham
gia vào vấn đề này. Theo đó hai nước Việt – Trung nên bình tĩnh, thận trọng và song
phương giải quyết vấn đề này qua đó không làm tổn hại đến mối quan hệ hai nước. Bên
cạnh đó, ông Sun Jian Guo cũng bày tỏ hy vọng, trong thời gian tới hai bên sẽ tiếp tục
tăng cường hợp tác, giao lưu hơn nữa. Hy vọng hai bên sẽ tiếp tục phát huy và tăng
cường mối quan hệ hữu hảo giữa hai nhà nước, hai dân tộc.
Trong một động thái chung, trước đó trong buổi họp báo nhân dịp đầu năm mới, đại
sứ Trung Quốc tại Việt Nam cho biết, tranh chấp Biển Đông là vấn đề nên được giải
quyết “nội bộ”, bởi hai nước có mối quan hệ thân thiết anh em. Bên cạnh đó cơ chế một
Đảng lãnh đạo chính là một điểm vô cùng thuận lợi để hai nước giải quyết vấn đề này.
Tuy nhiên, nếu điều kiện chưa chín muồi, làm cản trở quan hệ hai nước, điều cần phải
làm là nên ‘gác’ lại vấn đề…Đây là cách làm phù hợp nhất. ” theo đó hai bên có thể hợp
tác cùng nhau khai thác tài nguyên tại vùng tranh chấp.
Cho đến nay, Việt Nam chủ trương các cuộc đàm phán đa phương để giải quyết
tranh chấp, với tất cả các nước cùng ngồi vào bàn thương thảo. Trong khi đó thì Trung
Quốc lại đòi hỏi đàm phán song phương với từng nước có tranh chấp với họ, cụ thể là
với Việt Nam, Malaysia, Philippines và Brunei. Giới phân tích từng thẩm định là sở dĩ
Bắc Kinh chủ trương như vậy, đó là vì giải pháp này sẽ giúp một nước lớn như họ phát
huy được sức ép trên các nước Đông Nam Á nhỏ hơn.
Mặc dù đã ký kết vào năm 2002 với khối ASEAN một bản tuyên bố về các quy tắc
ứng xử tại Biển Đông, gọi tắt theo tiếng Anh là DOC, cho đến nay, Trung Quốc vẫn
không áp dụng những gì đã hứa. Không những thế, mọi nỗ lực của Hiệp hội Đông Nam
Á nhằm thúc đẩy Bắc Kinh thực thi lời cam kết đều bị gạt bỏ, đúng theo lập trường
không thương thuyết đa phương của mình.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng không ngần ngại dùng uy thế của mình để tạo ra tình
trạng chia rẽ trong ASEAN trên vấn đề Biển Đông, giữa các nước có tranh chấp với
Trung Quốc và các nước không dính dáng gì đến hồ sơ này. Nhóm nước thứ hai này
được coi là dễ dàng chiều ý Bắc Kinh hơn vì không muốn mất quyền lợi kinh tế thương
mại.
5.
Sự tham gia của Mỹ vào biển Đông
Cuối tháng 3/2010, Trung Quốc đưa Biển Đông vào danh sách “lợi ích cốt lõi”,
nghĩa là không khoan nhượng, không thương thuyết. Đây là cột mốc mới trong chính
sách Biển Đông của Bắc Kinh. Với Mỹ, nó là giọt nước làm tràn li. Thái độ quyết đoán
của Trung Quốc thúc đẩy Mỹ nhập cuộc. Sự thiếu tin cậy tăng lên.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
7
Đường hàng hải ở Đông Á mang tính cách chiến luợc quan trọng đối với Hoa Kỳ, và
cần phải duy trì sự ổn định, quyền tự do di chuyển, quyền tự do trao đổi thương mại hợp
pháp.
Chính sách của Hoa Kỳ là duy trì sự hiện diện về ngoại giao, thương mại và quân sự
để bảo vệ hoà bình và quyền lợi của Mỹ ở nơi này. Chính sách này cũng nhắm bảo vệ sự
tôn trọng luật biển quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển.
Chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói rằng Hoa Kỳ coi việc giải
quyết một cách hòa bình những tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là mối quan tâm quốc
gia và đồng thời hối thúc các quốc gia liên quan đàm phán để tìm ra giải pháp.
Hãng tin Bloomberg trích lời Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton phát biểu tại
Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội rằng việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ này là
“ưu tiên ngoại giao hàng đầu” và việc chấm dứt những bất đồng ở Biển Nam Trung Hoa,
mà Việt Nam gọi là Biển Đông, là “vấn đề then chốt đối với sự ổn định của khu vực”.
Theo thông tấn xã AP, cũng tại diễn đàn này, Ngoại trưởng Hoa Kỳ nói rằng
Washington quan ngại rằng những tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn nhau ở quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa làm ảnh hưởng tới giao thương hàng hải, cản trở việc tiếp cận
vùng hải phận quốc tế ở khu vực và hủy hoại luật về biển của Liên Hiệp Quốc.
Vẫn theo AP, những nhận định của bà Clinton có phần chắc sẽ làm Trung Quốc tức
giận, tuy nhiên bà Clinton nói rằng Hoa Kỳ không ủng hộ bất cứ nước nào trong vấn đề
về chủ quyền ở Biển Đông và Hoa Kỳ sẵn sàng cùng tất cả các bên hành động để chấm
dứt các tranh chấp.
II. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc về vấn đề biển đông
giai đoạn 2007 - 2010
1. Ngoại giao bình tĩnh
a. Thái độ của Trung Quốc:
Ngày 09/07/2007, Trung Quốc đã bắn chết ít nhất một ngư dân Việt Nam và nhiều
ngư dân khác bị thương vì cho rằng họ đánh cá trong khu vực biển thuộc chủ quyền của
Trung Quốc, sự kiện này đã gây sự phẫn nộ cho người dân Việt Nam ở trong cũng như
ngoài nước. Tháng 6 năm 2007 Trung Quốc đã làm áp lực để tập đoàn dầu khí BP của
Anh quốc phải rút lui khỏi dự án thăm dò dầu khí với bên Việt Nam mà Trung Quốc cho
là thực hiện tại vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Tháng 12 năm 2007 Trung Quốc cho lập thành phố hành chính Tam Sa trong đó bao
gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà các nước khác cùng tuyên bố chủ quyền,
điều này đã gây nên phản ứng mạnh mẽ từ người dân Việt Nam, đã có rất nhiều cuộc biểu
tình nổ ra. Như một hiệu ứng lây lan, các báo chí Philippines sau đó đồng loạt chỉ trích
chính phủ Philippines khi tham gia thỏa thuận thăm dò dầu khí với Trung Quốc và Việt
Nam. Sự chỉ trích này đã dẫn đến việc Philippines rút lui khi thỏa thuận này vừa hết hiệu
lực vào ngày 01/07/2008.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
8
Cuối năm 2008 Trung Quốc đã nổ súng cảnh cáo, và sau đó gây áp lực buộc tập đoàn
dầu khí Mỹ Exxon – Mobil phải rút lui khỏi dự án liên doanh với Việt Nam thăm dò dầu
khí trên vùng biển này, mặc dù Việt Nam khẳng định là dự án được tiến hành trên vùng
biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam.
Ngày 8/3/2009 đã có một vụ căng thẳng giữa tàu thám hiểm hải dương Impeccable
của Mỹ với 5 tàu của Trung Quốc trên vùng biển này, sau đó giữa Mỹ và Trung Quốc đã
xảy ra một cuộc tranh luận gay gắt trên các phương tiện truyền thông, phía Mỹ giải thích
vùng biển này là biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực hiện các nghiên cứu biển trong vùng
đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng biển thuộc chủ quyền của họ.
Kể từ ngày 16/05/2009 cho tới nay, Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá
trên biển Đông, và họ đã cho lực lượng tàu Ngư Chính (vốn được cải tạo từ các tàu quân
sự) để “thực thi” lệnh cấm đánh bắt cá này. Trong khi đó, nhiều tàu cá Việt Nam đã bị bắt
giữ đòi tiền chuộc hoặc bị đâm chìm.
b. Phản ứng của Việt Nam:
Biển Đông là cuộc xung đột lợi ích. Với Việt Nam, Trung Quốc chủ trương “lục
hoãn hải khẩu” (trên đất liên hoà dịu, ngoài biển căng thẳng). Nhưng Biển Đông còn
liên quan đến nhiều nước khác. Cần kiên trì đàm phán, đấu tranh có lý có tình, trước hết
là song phương. Đa phương chỉ hỗ trợ chứ không thay thế được song phưong. Từ năm
ngoái, lãnh đạo các cấp hai nước đã nhiều lần đề cập giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Tại cuộc gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng nhân dịp Diễn đàn Bác Ngao,
tháng 4/2009, Thủ tướng Ôn Gia Bảo nêu rõ: Nam Hải (Biển Đông) là vấn đề cuối cùng
do lịch sử để lại mà hai nước vẫn chưa giải quyết được. Hai bên cần nhìn xa trông rộng,
xuất phát từ đại cục, tích cực bảo vệ ổn định Nam Hải, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi,
tranh thủ Nam Hải cùng mở ra đột phá tích cực. Vị Thủ tướng rất được người dân Trung
Quốc yêu mến này bày tỏ hy vọng giải quyết thỏa đáng vấn đề Nam Hải.
Tháng 11/2009, khi ký kết các văn kiện liên quan tới việc thực thi Hiệp định biên
giới trên đất liền, hai bên đã thống nhất sẽ hình thành quy chế về giải quyết vấn đề trên
biển. Tân Hoa Xã trích lời Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm nói rằng Việt Nam mong
muốn cùng Trung Quốc giải quyết vấn đề Biển Đông một cách “đúng mực”, dựa trên
quan hệ chung và tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Phó Thủ tướng Việt Nam cũng khẳẳ̉ng
định nguyên tắc giữ hòa bình và ổn định trong khu vực.
Ngày 6 tháng 5 năm 2009, Malaysia và Việt Nam trình lên Ủy ban ranh giới thềm
lục địa của Liên Hợp Quốc (viết tắt là CLCS) báo cáo chung về khu vực thềm lục địa mở
rộng tại phía Nam Biển Đông. Vào ngày 8 tháng 5, 2009, Việt Nam đã nộp bản đăng ký
riêng trên khu vực phía giữa của biển Đông. Khu vực xác định hoàn toàn nằm ngoài 200
hải lý tính từ đường cơ sở lãnh thổ lục địa của Malaysia và Việt Nam và nằm ngoài các
ranh giới đã thoả thuận với các nước hữu quan. Đây là lý do hai nước khẳng định báo cáo
chung không làm tổn hại các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới giữa các quốc gia
có bờ biển đối diện hoặc tiếp giáp.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
9
Ngay sau đó, Trung Quốc đã gửi công hàm số CML/17/2009 phản đối báo cáo chung
này của Việt Nam và Malaysia, đặc biệt công hàm phản đối này có kèm theo một bản đồ
thể hiện “đường lưỡi bò” (mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ giải thích “đường lưỡi bò”
này là gì) với những yêu sách: “Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với
các đảo ở biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cùng quyền chủ quyền và
quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và mặt đất dưới đáy
biển”. Việt Nam đã phản đối ngay lập tức công hàm này.
2. Ngoại giao phòng thủ
Rõ ràng là những hành động quyết đoán về quân sự gần đây của Trung Quốc ở Tây
Thái Bình Dương và biển Đông khuyến khích việc đẩy mạnh hợp tác quân sự Việt - Mỹ.
Cả hai nước đều chia sẻ mối quan tâm trong việc ngăn ngừa Trung Quốc hay bất cứ nước
nào khác thống trị tuyến đường thương mại trên biển và thực thi chủ quyền lãnh thổ
thông qua cưỡng chế. Việt Nam nhìn thấy sự hiện diện của Mỹ như là sự ngăn cản,
chống lại sức mạnh quân sự gia tăng của Trung Quốc.
Năm 2009, Việt Nam bắt đầu tham gia vào một trò chơi rất tinh tế về dấu hiệu mà ta
xem sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực là chính đáng. Chẳng hạn như, các quan
chức quân đội Việt Nam đã bay tới tàu sân bay USS John C. Stennis để quan sát các hoạt
động bay trên biển Đông. Cuối năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, ông Phùng
Quang Thanh đã dừng chân tại Bộ chỉ huy Thái Bình Dương ở Hawaii trên đường đến
Washington và đã được chụp ảnh qua kính viễn vọng của một tàu ngầm hạt nhân Mỹ.
Sự hợp tác gia tăng trong năm 2010 khi nhà máy đóng tàu Việt Nam sửa chữa hai
tàu quân sự của Mỹ. Vào dịp kỷ niệm 15 năm quan hệ ngoại giao, Phó Đại sứ Việt Nam
tại Washington đã công khai đi thăm tàu sân bay USS George H. W. Bush, đậu tại
Norfolk. Ngay sau đó, các quan chức quân sự và chính phủ từ Đà Nẵng bay ra tàu sân
bay USS George Washington để quan sát các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam trên biển Đông.
Cùng lúc, Việt Nam và Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động hải quân chung đầu tiên.
Quan trọng hơn, cuộc diễn tập không liên quan đến các tàu hải quân Việt Nam hoạt động
trên biển với các đối tác Mỹ. Thay vào đó, hoạt động được tiến hành trên tàu USS John
S. McCain, trong khi nó đậu tại Đà Nẵng. Chuyến thăm này là một phần trong chương
trình viếng thăm hàng năm thăm bắt đầu từ năm 2003. Các hoạt động tham gia chỉ liên
quan đến sự huấn luyện không tác chiến như kiểm soát thiệt hại, luyện tập tìm kiếm, cứu
hộ và trao đổi kỹ năng nấu nướng.
Những trao đổi có thể nghe tầm thường nhưng cần thiết để xây dựng niềm tin. Giai
đoạn xây dựng niềm tin trong quan hệ quân sự bây giờ đã qua. Việt Nam và Mỹ đang
tham gia xây dựng một chương trình hoạt động thiết thực nhằm tăng cường tính chuyên
nghiệp của quân đội Việt Nam. Nói rộng hơn, cả hai nước sẽ hợp tác trong việc xây dựng
các khả năng trong các lĩnh vực đặc biệt như gìn giữ hòa bình, an ninh môi trường, phối
hợp tìm kiếm và cứu nạn đa phương và đáp ứng cứu trợ thiên tai trong khu vực.
Các mối quan hệ quân sự Việt - Mỹ gần hơn cũng phù hợp với chiến lược rộng hơn
của Việt Nam về ngoại giao quốc phòng với các nước khác. Việt Nam có các mối quan
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
10
hệ quốc phòng lâu dài với Nga và Ấn Độ. Chúng ta có một chương trình phát triển tốt
với Úc kể từ năm 1999, mà Úc đã đào tạo hơn 150 viên chức Việt Nam. Việt Nam cũng
trong quá trình đẩy mạnh quan hệ quân sự với Pháp.
Ý nghĩa tương đương là sự phát triển các mối quan hệ quân sự Việt – Trung. Hai
nước đã tiến hành ít nhất chín cuộc tuần tra hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ từ năm 2006.
Năm nay, lần đầu tiên hai nước tiến hành thực tập tìm kiếm và cứu hộ chung trên biển.
Việt Nam đã tiếp đón ba chuyến viếng thăm của hải quân Trung Quốc và 2010 là năm
đầu tiên mà hải quân Việt Nam đến thăm cảng Trung Quốc.
3.
Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương
a. Song phương không thể giải quyết ổn thỏa vấn đề Biển Đông
Trước hết, Biển Đông có 3 vấn đề chính là: tranh chấp chủ quyền về biển - đảo, tự do
lưu thông hàng hải quốc tế, hợp tác hòa bình trong khu vực. Do đặc thù của chúng, cả 3
loại vấn đề này không có một vấn đề nào có thể giải quyết ổn thỏa trên cơ sở song
phương.
Lấy ví dụ, thực tiễn đàm phán về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển - đảo trong
Biển Đông cho thấy một thỏa thuận, dù loại gì, giả thử đạt được giữa một bên là Trung
Quốc với một bên là một nước ASEAN "A" nào đó, sẽ thường xuyên đặt ra tình huống
gây nên những nghi kỵ, hoặc thậm chí sự phản đối của các nước ASEAN "B", "C", "D"...
Cách làm song phương như vậy dứt khoát dẫn đến mầm mống những tranh chấp mới
trong nội bộ cộng đồng ASEAN và chung cuộc thậm chí có thể hủy hoại cộng đồng
ASEAN.
Thực tiễn này không phải là sự tưởng tượng , mà đã xảy ra trong thực tế, khi Trung
Quốc năm 2004 ký thỏa thuận với Philippnes tiến hành thăm dò địa chấn khu vực đảo
Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa. Ký kết song phương này đã bị Việt Nam phản
đối, được giải quyết một cách vớt vát là sau đó cả Trung Quốc và Philippnes đều đồng ý
để Việt Nam cùng tham gia. Nhưng hậu quả không thể khắc phục được là ký kết thăm dò
địa chấn này đã làm giảm sút đáng kể (gần như là vô hiệu hóa trên thực tế - de facto)
Tuyên bố của các bên về Nguyên tắc ứng xử ở Biển Đông (DOC) được ký kết năm 2002
giữa các nước ASEAN và Trung Quốc.
Ký kết thăm dò địa chấn này đã gây chia rẽ nội bộ ASEAN, sau đó còn gây chia rẽ
sâu sắc nội bộ quốc gia Philippines. Phe đối lập chống Tổng thống Gloria Macapagal
Arroyo đặt vấn đề nghi vấn có sự tham nhũng lớn cho ký kết này trích từ những khoản
viện trợ và đầu tư rất lớn lên đến hàng tỷ đô-la trong chuyến đi thăm Philippines của Chủ
tịch Hồ Cẩm Đào năm 2005[1]. Phía Trung Quốc ca ngợi chuyến đi thăm này mở ra một
thời kỳ hoàng kim quan hệ song phương Trung Quốc - Philippines...
Chỉ một ví dụ này đủ cho thấy việc củng cố sự bền vững của cộng đồng ASEAN nhạy
cảm và khó khăn như thế nào. Mà trong thực tiễn tồn tại của cộng đồng ASEAN cho đến
nay có vô vàn ví dụ như thế.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
11
b. Hợp tác đa phương ngày càng quan trọng trong giải quyết các vấn đề
khu vực và quốc tế
Ngoại trưởng Mỹ đã tuyên bố "lợi ích quốc gia" của Mỹ tại Biển Đông và khuyến
khích hợp tác đa phương giải quyết vấn đề. Kết luận có thể rút ra: Bất kể một ký kết tay
đôi nào giữa một bên là Trung Quốc và một bên là một nước thành viên ASEAN về
những vấn đề có liên quan đến Biển Đông đều có nguy cơ gây nghi kỵ giữa các nước
ASEAN với nhau và làm suy yếu cộng đồng này, điều này đồng nghĩa làm tăng thêm
nguy cơ gây mất hòa bình và ổn định trong khu vực. Lẽ đơn giản là vấn đề chủ quyền về
biển đảo cực kỳ nhạy cảm đối với toàn khu vực và thường xảy ra tranh chấp giữa ba nước
với nhau trở lên.
Khỏi phải bàn tuyến hàng hải Malacca đi qua Biển Đông chiếm khoảng gần 1/3 vận
tải biển của thương mại thế giới, phần lớn các hợp tác kinh tế trên Biển Đông là những
hợp tác song phương hoặc đa phương giữa một nước thành viên ASEAN với một hay
nhiều nước bên thứ ba khác ngoài khu vực. Biển Đông là một biển mở ra Thái Bình
Dương, nếu nhìn theo khía cạnh hòa bình và an ninh khu vực liên quan mật thiết với hòa
bình và an ninh thế giới, sẽ càng rõ bất kể một giải pháp song phương nào cho bất kỳ một
vấn đề gì giữa một bên là Trung Quốc và một bên là một nước thành viên ASEAN đều
không thể đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc sống đặt ra.
Lịch sử quan hệ quốc tế, dù là trong chiến tranh giữa các nước lớn, dù là trong các
cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, dù là trong các tranh chấp tập hợp ngoại bang hay
chư hầu để củng cố thế lực của mình, chia để trị, bẻ từng chiếc đũa trong cả bó đũa... là
những thủ đoạn cổ xưa nhưng vẫn đắc dụng cho đến tận bây giờ.
Trung Quốc hiển nhiên rất mạnh, mạnh áp đảo so với từng nước và so với tất cả các
nước trong khu vực Biển Đông cộng lại. Nếu Trung Quốc cũng theo đuổi các mục tiêu
hòa bình, hợp tác, hữu nghị, lại trong tình hình hầu như không một nước nào trong cộng
đồng ASEAN có mưu đồ hay có khả năng thôn tính hay lật đổ Trung Quốc, không có
một nước nào trong cộng đồng này có khả năng riêng lẻ từng nước hay co cụm lại với
nhau để tranh giành bất cứ vấn đề gì với Trung Quốc, vậy nguyên do gì khiến Trung
Quốc cứ phải khăng khăng giải pháp song phương "Trung Quốc + 1 ASEAN" trong tìm
kiếm những giải pháp cho các vấn đề của Biển Đông?
Hợp tác và giải pháp đa phương không thôi thật ra cũng chưa đủ. Điều quyết định là
hợp tác và giải pháp đa phương này phải công khai minh bạch, và phải theo đuổi những
mục đích hòa bình, hữu nghị, hợp tác rất công khai minh bạch cho Biển Đông, không thể
nói một đằng làm một nẻo được. Nếu có sự công khai minh bạch như vậy, thì có gì phải
chống giải pháp đa phương trong những vấn đề của Biển Đông?
Đấy là chưa nói hợp tác và giải pháp đa phương và "quốc tế hóa" là hai vấn đề khác
nhau. "Quốc tế hóa" hay "không quốc tế hóa" còn thuộc về chủ quyền và quyền quyết
định của từng nước hữu quan trong Biển Đông. Tuy nhiên tự dưng đem vấn đề "quốc tế
hóa" ra để làm lý do chối bỏ hợp tác và giải pháp đa phương cho những vấn đề của Biển
Đông câu chuyện lại có ý đồ và nội dung khác.
c. Ngoại giao du kích – kêu gọi sự đồng thuận đa phương
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
12
Ngày 23 tháng 7 năm 2010 được nhiều nhà nghiên cứu nhận định là một ngày thắng
lợi của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã thành công bước đầu khi đưa tranh chấp biển
Đông trong cuộc họp cấp cao của ARF, và được sự ủng hộ của nhiều quốc gia liên quan,
đặc biệt với lời tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ - bà Hilary Clinton: “Hoa Kỳ hỗ trợ quá
trình cộng tác ngoại giao của tất cả các bên tranh chấp để giải quyết các tranh chấp
lãnh thổ khác nhau mà không cần cưỡng chế. Chúng tôi phản đối việc sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước tranh chấp nào. Trong khi Hoa Kỳ không
đứng về bên nào trong các tranh chấp lãnh thổ về các vùng đất, đảo, đá…(land features)
trên Biển Đông, chúng tôi tin rằng các bên tranh chấp nên theo đuổi việc tranh chấp
lãnh thổ của mình và các quyền đối với không gian biển theo quy định của Công ước
Liên Hiệp Quốc về luật biển…Hoa Kỳ ủng hộ Tuyên bố Ứng xử của các bên trên Biển
Đông của ASEAN - Trung Quốc năm 2002. Chúng tôi khuyến khích các bên đạt được sự
thoả thuận quy tắc ứng xử hoàn toàn. Hoa Kỳ chuẩn bị tạo điều kiện cho các sáng kiến
và các biện pháp xây dựng lòng tin phù hợp với tuyên bố. Bởi vì tất cả các bên tranh
chấp và cộng đồng quốc tế rộng hơn đều quan tâm về việc thương mại không bị ngăn cản
để tiến hành trong điều kiện hợp pháp. Tôn trọng lợi ích của cộng đồng quốc tế và những
nỗ lực có trách nhiệm để giải quyết những khiếu nại chưa được giải quyết và giúp tạo ra
các điều kiện để giải quyết các tranh chấp và giảm căng thẳng trong khu vực.”
Trước đó, Trung Quốc – đối thủ chính và cũng là một cường quốc đang lên của thế
giới vẫn luôn “buộc” các quốc gia trong tranh chấp biển Đông vào “cái khung giải quyết”
là “thương lượng song phương”. Cho tới trước hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc –
ASEAN vào tháng 10/2009 tại Huahin (Thailand), bà Tiết Hán Cần, đại sứ Trung Quốc
tại ASEAN đã phát biểu: "Trung Quốc cho rằng đây là bất đồng giữa Trung Quốc và
các nước riêng rẽ xung quanh Biển Đông, chứ không phải giữa Trung Quốc và Asean…
Bởi vậy, chính phủ Trung Quốc muốn giải quyết các tranh chấp lãnh thổ thông qua các
đàm phán song phương.” Và bà cũng nói thêm: “Cuộc họp này của ASEAN phải là trong
khuôn khổ hợp tác, chứ không phải là để tranh cãi”.
Thế nhưng Việt Nam đã không ngồi yên, bên cạnh việc tăng cường sức mạnh quân sự
như mua tàu ngầm Kilo và máy bay Sukhoi -30MK2 của Nga, tháng 11/2009, Việt Nam
đã tổ chức một cuộc Hội thảo quốc tế lớn về biển Đông, hội thảo đã quy tụ được khá
đông đủ các nhà nghiên cứu về biển Đông từ nhiều nước trên thế giới. Hội thảo được coi
như một kênh ngoại giao để tìm kiếm những tiếng nói đa phương cho việc giải quyết
tranh chấp, và hội thảo đã thành công.
Sau những thành công đó, Việt Nam tiếp tục những bước đi âm thầm trong cuộc “vận
động quốc tế” của mình.Tháng 12/2009 Việt Nam cho công bố Sách trắng quốc phòng,
trong đó cũng đề cập tới phương hướng đối ngoại của Việt Nam trong giải quyết tranh
chấp.
Việt Nam muốn đa phương hóa vấn đề này và đã kêu gọi sự đồng thuận đa phương,
cụ thể là từ phía các nước ASEAN. Tại ARF năm 2010 vừa rồi, Việt Nam đã đưa Biển
Đông vào chương trình nghị sự, 12 quốc gia đã cùng lên tiếng về vấn đề an ninh Biển
Đông và mong muốn thúc đẩy cơ chế hợp tác đa phương để giải quyết vấn đề này. Nó thể
hiện nguyện vọng, ý chí không những của các Quốc gia tham gia diễn đàn ARF mà còn
là ý chí nguyện vọng của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyêt các vấn đề liên quan
đến an ninh trong khu vực Biển Đông.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
13
Việc ủng hộ cơ chế đa phương cũng hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của luật
pháp và thực tiễn quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp trên biển. Trong việc giải
quyết các tranh chấp này, các nguyên tắc và thực tiễn quốc tế đã có nhiều phương pháp,
cách thức thỏa thuận. Một trong những cách thức thực tiễn quốc tế là áp dụng cơ chế hợp
tác đa phương, bởi nó liên quan đến lợi ích không những của các quốc gia có yêu sách
chủ quyền lãnh thổ và phạm vi các vung biển và thềm lục địa mà còn liên quan đến lợi
ích cua các quốc gia khác trên thế giới có nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua tuyến đường
hàng hải quốc tế quan trọng này.
Việt Nam đã, đang và sẽ hết sức tranh thủ, tận dụng và phát huy tất cả các kênh giải
quyết tranh chấp hiện có, cả song phương và đa phương.
Bất kì phương thức nào, dù song phương, đa phương hay quốc tế hóa nếu có lợi, Việt
Nam sẽ hết sức tận dụng, gia công xây dựng, nghiên cứu áp dụng.
Việt Nam áp dụng linh hoạt các phương cách, vì thực tiễn quốc tế cho phép áp dụng
nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề, miễn là giải quyết nhanh chóng, ổn định. Đó là cách
tiếp cận đúng đắn của mình.
d. Ngoại giao du kích – tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Những gì Việt Nam cùng với ASEAN đã làm trong năm 2010 đã chứng tỏ cách hiểu
về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh của các nhà ngoại giao Việt Nam.
Theo nhà ngoại giao kỳ cựu Vũ Khoan, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được thể
hiện ở chỗ dù còn một cơ hội nhỏ nhất, ông vẫn cố gắng tối đa để giữ hoà bình cho dân
tộc. Tất nhiên, trên cơ sở một bất biến là đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ. Còn khi bắt buộc phải tiến hành chiến tranh, Hồ Chí Minh đã tranh thủ sự ủng hộ tối
đa của những người yêu chuộng hoà bình và chính nghĩa trên toàn thế giới.
Còn Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng, một chuyên gia hàng đầu về quan hệ ASEAN - Mỹ của
Học viện Ngoại giao, trong một bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, đã phân tích tư
tưởng này dưới góc nhìn của quan hệ giữa nước nhỏ và nước lớn. Theo Tiến sĩ Tùng,
mức độ "nín nhịn" để giữ hoà hiếu có thể được giảm đi thông qua các giải pháp như "mở
rộng quan hệ với các nước thứ ba để tạo thêm thế và lực cho nước nhỏ trong quan hệ với
nước lớn, và tham gia các cơ chế đa phương để tạo thêm ràng buộc hành vi và trách
nhiệm của nước lớn đối với nước nhỏ."
Việc mời tám quốc gia bên ngoài khu vực, trong đó có Mỹ, Trung Quốc, Nga, hay Ấn
Độ, vào cơ chế ADMM+, như một sự bổ sung quan trọng cho những khiếm khuyết của
cơ chế Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF) là một ví dụ. Việc mời Nga và Mỹ tham gia
thượng đỉnh Đông Á, và biến diễn đàn này thành một cơ chế chủ yếu giải quyết các tranh
chấp ở Đông Á, bao gồm cả khu vực Đông Nam Á, là một ví dụ khác, quan trọng hơn.
Song song với việc tạo lập, hoặc mở rộng, các cơ chế nói trên, việc củng cố các mối
quan hệ song phương với các nước thứ ba cũng được Việt Nam đặc biệt chú trọng.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
14
Chẳng hạn, người Nga cũng đã quay trở lại Việt Nam với một hợp đồng xây dựng nhà
máy điện hạt nhân, và một thoả thuận dành cho doanh nghiệp Nga khôi phục lại quân
cảng Cam Ranh thành một căn cứ hậu cần quốc tế cho cả thương thuyền lẫn pháo hạm.
Hay, khi sang Việt Nam dự Cấp cao Đông Á mở rộng, ngoại trưởng Mỹ Hilary
Clinton đã nói rằng cách đây 10 năm, bà đã không thể hình dung được quan hệ Mỹ - Việt
lại phát triển đến mức đáng kinh ngạc như thế này.
Tàu chiến Mỹ ra vào Biển Đông, khi thì viếng thăm, khi thì vào để sửa chữa. Mặc dù
kinh tế vẫn chưa phục hồi sau khủng hoảng, nhiều tập đoàn công ty hàng đầu của Mỹ vẫn
đến Việt Nam tìm cơ hội đầu tư. Và Mỹ vẫn đang cố thuyết phục Việt Nam tham gia hiệp
định thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong khi từ chối đề nghị của một
số nước khác.
Một người bạn của Tiến sĩ Nguyễn Vũ Tùng là Giáo sư người Thuỵ Điển Ramses
Amer, đã từng cảnh báo rằng "Việt Nam cần tránh sự đụng độ giữa Mỹ và Trung Quốc ở
Biển Đông, bởi trâu bò đánh nhau - ruồi muỗi chết".
Có lẽ những lời phát biểu rất mềm dẻo của ngoại trưởng Clinton đối với Trung Quốc
trước khi qua dự Cấp cao Đông Á, đã khiến không chỉ vị Giáo sư Thuỵ Điển này yên tâm
hơn. Bởi nước chủ nhà Việt Nam đã được tôn trọng, và người Mỹ không muốn làm cho
họ bị khó xử.
Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, trưởng đoàn Việt Nam trong đối thoại Việt
- Mỹ về ngoại giao - quốc phòng -an ninh, đã hoàn toàn có lý khi nói rằng "không có lĩnh
vực gì mà Việt Nam và Mỹ lại không thể thảo luận để tìm giải pháp được".
Có lẽ, riêng trong quan hệ với khu vực này, người Mỹ cuối cùng đã rút ra được "bài
học Việt Nam". Họ hiểu rằng"nền ngoại giao pháo hạm" không phải là giải pháp duy
nhất để tạo ảnh hưởng.
Việc Trung Quốc đồng ý khởi động trở lại công tác của Nhóm chuyên viên về thực hiện
DOC trong tháng 10/2010 là một tín hiệu tốt dù dè dặt cho tiến trình xây dựng một niềm tin giữa
các nước hữu quan.
III. Thành quả đạt được
1. Giai đoạn 2007-2009:
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
15
Trong giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, Việt Nam và Trung Quốc đã tham
gia Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông (DOC) vào ngày 4 tháng 11 năm 2002. Đó là
Tuyên bố về Hành vi của Các bên ở Biển Nam Trung Hoa, “tái cam kết với mục đích và
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc và Công ước LHQ năm 1982 về Luật Biển”,
“tránh những hành động cư trú ở những đảo, đá, bãi cát, đảo thấp”, cam kết giải quyết
tranh chấp chủ quyền một cách hoà bình và “tôn trọng quyền tự do giao thông và bay trên
Biển Nam Trung Hoa.”. Cam kết, thỏa thuận này thể hiện thiện chí của Việt Nam trong
việc giải quyết các vấn đề về chủ quyền quốc gia. Đó là những thành công trong quan hệ
đối ngoại với các nước anh em, bạn bè trong khu vực.
Lãnh đạo hai nước đã nhiều lần thỏa thuận "tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán hiện nay
về các vấn đề trên biển, kiên trì thông qua đàm phán hòa bình để tìm ra một giải pháp cơ
bản, lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được. Trong khi tiến hành đàm phán, hai bên
không tiến hành những hoạt động làm phức tạp tình hình, không sử dụng vũ lực và đe
dọa sử dụng vũ lực, bàn bạc kịp thời và giải quyết thỏa đáng những bất đồng nảy sinh
trên tinh thần xây dựng.". Lập trường đó của lãnh đạo hai nước Việt Nam và Trung Quốc
phù hợp với tuyên bố về vấn đề Biển Đông của cuộc gặp cấp cao ASEAN - Trung Quốc
tại Phnôm Pênh năm 2002. Hai bên cũng đã kĩ kết được một số hiệp định hợp tác son g
phương trong đó có thể kể tới Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với
Trung Quốc, Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam với Trung Quốc…
2.
Trong năm 2010, năm Việt Nam giữ chức chủ tịch ASEAN cho đến nay:
•
Những nỗ lực của Việt Nam:
Việc đưa Mỹ và Nga tham gia vào Cấp cao Đông Á(EAS) và việc hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) với 8 nước có Nga và Mỹ tham gia đã tạo
thêm điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc đối trọng lực lượng với Trung Quốc,
thu hút sự ủng hộ của quốc tế.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công bố công khai Việt Nam tự xây dựng cảng quân sự
Cam Ranh và đã khẳng định sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân của các nước
trên thế giới, kể cả tàu ngầm tại cảng Cam Ranh theo cơ chế thị trường giống như tất cả
các nước khác đã làm và Việt Nam sẽ thuê doanh nghiệp có kinh nghiệm của Nga làm tư
vấn cho việc xây dựng này.
Các cơ chế an ninh khu vực, nhất là ARF tiếp tục phát huy tác dụng tích cực, trong
đó có việc thông qua Kế hoạch hành động thực hiện Tuyên bố Tầm nhìn ARF; và được
bổ sung thêm một số cơ chế mới, nhất là ADMM+. Các công cụ bảo vệ an ninh khu vựa
tiếp tục phát huy tác dụng trong việc chia sẻ và xây dựng các chuẩn mực ứng xử giữa các
quốc gia. Việc Canada Thổ Nhĩ Kỳ và sắp tới là EU tham gia TAC đã đưa số quốc gia và
thực thể ngoài tham gia TAC lên thành 19,thực sự làm cho hiệp ước này trở thành bộ
quy tắc ứng xử chỉ đạo quan hệ giữa các quốc gia khi tham gia các hoạt động ở khu vực.
việc thực hiện DOC đã có những tiến triển mới đáng khích lệ với việc nối lại họp Nhóm
công tác chung ASEAN- Trung Quốc và dự kiến sớm họp lại Quan chức cao cấp (SOM)
về DOC cũng như một số cam kết khác của các bên liên quan. Điều quan trọng là nhiều
nước trong và ngoài khu vực đều quan tâm và chia sẻ nhận thức chung là cần duy trì hòa
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
16
bình và an ninh ở Biển Đông; giải quyết hòa bình các tranh chấp theo luật pháp quốc tế,
nhất là công ước LHQ về Luật biển 1982; thực hiện hiệu quả DOC và tiến tới thông qua
Bộ quy tắc ứng xử về Biển Đông (COC). Rõ ràng, tranh cãi rộng rãi về sự nóng lên của
vấn đề Biển Đông đã tạo ra một môi trường chiến lược mới cho phép mọi đối tác có thể
tham gia và tiếp cận đa phương về các vấn đề liên quan đến tự do và chủ quyền hàng hải.
Việt Nam đã nỗ lực điều hành Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng lần
đầu tiên ngay sau khi xảy ra những tranh cãi căng thẳng về Biển Đông. Hôị nghị này một
diễn đàn an ninh mới bổ trợ cho Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) và diễn đàn khu vực
ASEAN (ARF) trong việc giải quyết các thách thức an ninh chủ yếu trong khu vực.
Tháng 8/2010, tàu Mỹ USS George Washington đã đi dọc bờ biển Việt Nam và đã đón
những đoàn khách của các sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt Nam lên thăm tàu. Tháng
10, bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert Gates đã đến Hà Nội dự lễ khai mạc hội nghị các
bộ trưởng quốc phòng ASEAN+, Liên minh của Mỹ với Việt Nam, nước đang nhanh
chóng hiện đại hoá năng lực phòng vệ chứng tỏ đây là một tập hợp đáng gờm. Năm 2009,
Việt Nam trở thành khách hàng mua vũ khí lớn nhất của Nga; tháng 4 năm đó Việt Nam
mua 6 tàu ngầm Project 636 Class Kilo class và 12 máy bay SU-30MKK của Nga trong
một hợp đồng ước tính 2,4 tỷ đô la mỹ. Nga cũng đã ký kết một hợp đồng xây dựng nhà
máy hạt nhân đầu tiên cho Việt Nam. Nga đã ký hợp đồng đóng 2 tàu chiến loại Gepard
3.9 cho hải quân Việt Nam năm 2006; tàu chiến đầu tiên đã được giao vào tháng 10/2010,
và chiếc thứ hai được giao vào cuối năm nay. Ngoài ra, Pháp đã tuyên bố sẵn sàng cung
cấp trang thiết bị cần thiết để hiện đại hoá quốc phòng Việt Nam khi Bộ trưởng Quốc
phòng của Pháp Hervé Morin đến thăm Việt Nam vào tháng 7 năm 2010 nhưng chưa có
hợp đồng nào được công bố.
Ngày 28 tháng Giêng 2011, Trung Quốc và Việt Nam đã thông báo ý định tổ chức
một đợt thảo luận mới về những tranh chấp lãnh thổ trên biển.
• Phản ứng của Trung Quốc:
Trung Quốc tiếp tục tăng cường sự hiện diện của mình ở Biển Đông và những triển
vọng cho một giải pháp mang tính thương lượng về vấn đề này, trong đó có tính đến các
quan điểm của ASEAN, đang có vẻ như là không tưởng. Với việc dấy lên của lòng yêu
nước được khuyến khích bởi đại diện quân đội Trung Quốc, không một nhà lãnh đạo Bắc
Kinh nào sẽ xem xét triển vọng này. Theo tin đã đưa, Quốc vụ viện Trung Quốc đang
thảo luận các kế hoạch để phát triển du lịch trên quần đảo Hoàng Sa mà kéo theo đó là
việc xây dựng các khách sạn, đường băng và các cơ sở vật chất có liên quan. Các kế
hoạch này được dự định nhằm hỗ trợ kinh tế đảo Hải Nam nơi sẽ quản lý hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trong cơ cấu hành chính của Trung Quốc. Phát ngôn viên bộ
ngoại giao Việt Nam, bà Nguyễn Phương Nga đã bày tỏ quan điểm của Việt Nam cho
rằng kế hoạch này “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, gây căng thẳng và
làm tình hình phức tạp hơn”. Trung Quốc đã hiện diện ở quần đảo Hoàng Sa và đã xây
một đường băng dài 2.600m trên đảo Phú Lâm và các trang thiết bị SIGTINT trên các
tiền đồn khác
Lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông của Trung Quốc gây ra các vấn đề tái diễn cho
các ngư dân Việt Nam, những người thường xuyên bị bắt và tàu cá của họ bị tịch thu. Sau
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
17
đó, họ lại bị yêu cầu nộp phạt với mức cắt cổ. Lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương của
Trung Quốc năm 2010 được áp đặt trong mười tuần từ tháng 5 đến tháng 7. Việc kéo dài
thêm lệnh cấm này rất mập mờ mặc dù nó bao trùm một vùng quanh quần đảo Hoàng Sa
nhưng không xa về phía nam của quần đảo Trường Sa. Việt Nam đã kiên quyết chống lại
lệnh cấm này vì phương kế sinh nhai của các ngư dân Việt Nam bị ảnh hưởng. Để thực
thi lệnh cấm và bảo vệ các tàu đánh bắt cá của mình ở Biển Đông, Trung Quốc thường
xuyên phái các tàu mà nước này khẳng định là tàu “tuần tra đánh bắt cá” nhưng thực chất
đã được chuyển đổi thành tàu hải quân. Các tàu Quản lý đánh bắt cá Yuzheng 311 và
Yuzheng 202 hoạt động kế bên các tàu đánh cá Trung Quốc trở thành mô hình triển khai
thường xuyên.
Tháng 3/2010, một tàu tuần tra của Trung Quốc đã bắt giữ một tàu đánh cá nhỏ của
Việt Nam cùng 12 ngư dân trên tàu tại vùng biển Hoàng Sa, phía Việt Nam ngay lập tức
phản đối và yêu cầu Trung Quốc trả tự do cho các ngư dân.
Tháng 7/2010, Trung Quốc tiến hành một số cuộc diễn tập hải quân trên Biển Đông,
đây được xem như việc đáp trả của nước này đối với cuộc tập trận chung trên biển của
Mỹ và Hàn Quốc được dự định diễn ra trên vùng biển Hoàng Hà mà Trung Quốc đã phản
đối rất dữ dội. Quy mô của cuộc tập trận gây ngạc nhiên đối với các quan sát viên bởi cả
hai thành viên của Ban Quân ủy TW là Tham mưu trưởng Quân đội Giải phóng Nhân dân
Trung Quốc Cheng Bingde và Tư lệnh hải quân Trung Quốc Wu Shengli, đã trực tiếp
tham gia vào cuộc tập trận này, một sự kiện hiếm thấy. Việc các tàu từ ba hạm đội hải
quân tham gia đã cho thấy quy mô của cuộc tập trận mà giới truyền thông Trung Quốc
khẳng định là chưa từng có tiền lệ.
Vào tháng 8, Việt Nam đã buộc tội Trung Quốc tiến hành các vụ thăm dò địa chất
gần quần đảo Hoàng Sa và trên thềm lục địa của Việt Nam. Điều này lại gây thêm căng
thẳng giữa hai quốc gia. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam bà Nguyễn Phương
Nga đã khẳng định rằng các tàu Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động thăm dò địa chất
từ cuối tháng 5. Tất cả các động thái này có thể cho thấy một chiến lược phối hợp nhằm
khẳng định sự hiện diện mạnh hơn trên Biển Đông hoặc có thể hơn, đây là các động thái
riêng rẽ của các thế lực khác nhau và để phản ứng với những sự kiện khác nhau.
IV. Hướng đi trong tương lai của Việt Nam cho tranh chấp biển đông với
Trung Quốc
Các cuộc đối đầu quân sự trong khu vực hẳn là điều mà các quốc gia tranh chấp trên
biển Đông đều không muốn xảy ra. Vì thế, một giải pháp để giải quyết cuộc tranh chấp
này là rất cần thiết, bởi vì việc giữ nguyên trạng (status quo) là rất nguy hiểm, gây bất ổn
bởi nó thúc đẩy các bên yêu sách hành động đơn phương, như vậy nó lại tạo ra cơ hội cho
các cường quốc bên ngoài tham gia vào. Hơn thế nữa, khó có thể giải quyết vấn đề tranh
chấp Biển Đông trong tương lai gần, vì vậy Việt Nam cần xác định hướng đi đúng đắn và
lâu dài. Có nhiều giải pháp được đưa ra bởi các chuyên gia mà Việt Nam có thể áp dụng.
1. Giải pháp 1: Giải quyết thông qua tòa án quốc tế
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
18
Trong thế giới văn minh hiện nay, pháp luật đã trở thành nền tảng cho ứng xử giữa
các quốc gia. Việt Nam, là nước nhỏ, cần phải tận dụng phương tiện và lý luận luật pháp
để bảo vệ chủ quyền của mình. Việt Nam cần đào tạo và huy động các chuyên gia luật
quan tâm và tham gia vào việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông.
Theo điều 287 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 thì vấn đề tranh
chấp này có thể đưa ra Tòa án Quốc tế về Luật biển (thành lập theo Phụ lục VI), Tòa án
quốc tế (ICJ), Tòa án trọng tài (thành lập theo phụ lục VII) và Tòa án đặc biệt (phụ lục
VIII).
Thực tế trong lịch sử đã có nhiều cuộc tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia đã được
đưa ra phân xử tại Tòa án Công lý Quốc tế ( ICJ), đặc biệt là các cuộc tranh chấp biên
giới như vụ eo biển Corfu, vụ ngư trường Na Uy, vụ các đảo Minquiers và Ecrehous hay
vụ thềm lục địa biển Bắc....Trước đây đã có lần Việt Nam tỏ rõ thái độ sẵn sàng đưa vấn
đề tranh chấp biển Đông ra nhờ Tòa án quốc tế phân xử. Đó là vào năm 1988, khi xung
đột quân sự giữa hai nước tại khu vực biển Đông dâng cao hay vào năm 1994, khi bầu
không khí căng thẳng tại khu vực này tiếp tục leo thang.
Tuy nhiên, Tòa án quốc tế chỉ có thể giải quyết dựa trên cơ sở sự chấp thuận đưa vụ
việc ra tòa của các quốc gia tham gia tranh chấp. Trung Quốc luôn có ý lảng tránh việc
nay và một bất lợi có thể thấy rõ của ta ở chỗ Trung Quốc là thành viên thường trực của
hộ đồng Bảo an có quyền phủ quyết bất kỳ giải pháp nào mà Hội đồng đưa ra.
Nhưng không phải hết hi vọng, tại hội thảo quốc tế về biển Đông tháng 11-2009,
PGS-TS Nguyễn Bá Diến, Giám đốc Trung tâm Luật biển và khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội trình bày tham luận “Áp dụng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế
giải quyết hòa bình các tranh chấp ở biển Đông”. Nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ ( chiễm
hữu thực sự) là một tập quán quốc tế. Hơn 100 năm nay, Tòa án Công lý quốc tế cho đến
trọng tài quốc tế giải quyết tranh chấp về biển, đảo, lãnh thổ đều áp dụng nguyên tắc này
như vụ tranh chấp quần đảo Falmas giữa Hoa Kỳ và Hà Lan năm 1928; tranh chấp các
đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp năm 1953 …
Nội dung của nguyên tắc : Một quốc gia được coi chiếm hữu một vùng đất, vùng biển,
đảo nào đó phải thỏa mãn bốn yếu tố. Thứ nhất là chiếm hữu một cách hòa bình chứ
không phải bằng vũ lực, quân sự. Thứ hai là công bố công khai, đàng hoàng cho các quốc
gia khác biết. Thứ ba là chiếm hữu liên tục, không gián đoạn. Thứ tư là chiếm hữu bằng
hình thức nhà nước, tức là việc chiếm hữu đó phải được thực thi bởi cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước. Tòa án quốc tế có thể dựa vào nguyên tắc này để phân định cụ thể ai
là người có danh nghĩa chiếm hữu đầu tiên, quốc gia nào là có danh nghĩa quyền lãnh thổ
đối với các vùng ở biển Đông và Hoàng Sa, Trường Sa...
Còn một vấn đề khác đó là Tòa án quốc tế có thể chấp nhận giải quyết đơn kiện đơn
phương với điều kiện các quốc gia trước đó phải kí vào điều khoản chấp nhận thẩm
quyền của Tòa án quốc tế. Nhưng cả Việt Nam và Trung quốc, Indonexia đều không ký
vào điều khoản nay. Như vậy việc Việt Nam đơn phương kiện ra tòa quốc tế là điều
không thể. Chính vì vậy, điều cần nhất là phải kêu gọi Trung Quốc và cộng đồng quốc tế
phải lên tiếng buộc Trung Quốc cùng đưa vấn đề ra Tòa án quốc tế để giải quyết. Và
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
19
điều cần thiết là Việt Nam phải chuẩn bị tâm lí vững chắc cũng như lí luận sắc bén cùng
bằng chứng thuyết phục để có thể có được lợi thế khi ra tòa.
2.
Giải pháp 2: Hợp tác cùng khai thác chung
Trung Quốc đưa ra lập trường cứng rắn với lập luận rằng 80% diện tích biển Đông
thuộc về lãnh thổ của họ nhưng yêu sách này không hề có cơ sở pháp lí trong luật pháp
quốc tế hiện đại hay luật biển quốc tế năm 1982 và bị quốc tế chỉ trích. Thế nhưng, Trung
Quốc với ưu thế quân sự và chính trị cường quốc của mình luôn bộc lộ ý định chống lại
các cuộc đàm phán đa phương về quần đảo Trường Sa. Nước này luôn muốn thực hiện
các cuộc đàm phán song phương bởi vì Trung Quốc với sức mạnh của mình sẽ dễ dàng
“bẻ gãy từng chiếc đũa” hơn là “một bó đũa”, và như vậy Trung Quốc luôn chiếm thế
“thượng phong” trên bàn đàm phán. Với tình hình như vậy thì giải pháp tiếp theo cần cân
nhắc đó là phân định biển hoặc cùng nhau khai thác chung.
Khai thác chung không phải mô hình mới, trên thế giới đã có nhiều khu vực áp dụng
hình thức này, điển hình là Hiệp ước Svalbard ngày 19/12/1920, theo đó các bên tranh
chấp công nhận chủ quyền của Na uy đối với quần đảo Svalbard, trong khi duy trì quyền
tiếp cận hiện hữu của các quốc gia khác đối với quần đảo này nhằm mục đích thực hiện
việc khai thác, săn bắt và các hoạt động kinh tế khác. Hay một số hiệp ước khác như
Thỏa thuận khai thác chung giữa Papua New Guinea và Australia năm 1978, Na uy và
Anh ở biển Bắc, Arab Saudi và Sudan, Thailand và Malaysia, Australia và Indonesia,
Việt Nam và Malaysia. Tuy nhiên, thỏa thuận về khai thác chung chỉ là giải pháp mang
tính tạm thời nhằm giảm xung đột giữa các bên tranh chấp và với mục đích phát triển
nguồn tài nguyên mà thôi. Thỏa thuận này không được làm ảnh hưởng tới yêu sách về
chủ quyền lãnh thổ cũng như các quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển.
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện phương án “ hợp tác cùng phát triển”
được đưa ra lần đầu vào tháng10/1993 trong chuyến thăm chính thức Thái Lan của Tổng
bí thư Đỗ Mười. Với phương án này, Việt Nam đề xuất hợp tác cùng phát trong các khu
vực tranh chấp bao gồm không chỉ thăm dò, khai thác tài nguyên mà còn bao gồm các
lĩnh vực khác như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản, giữ gìn an toàn và an ninh hàng hải, chống cướp biển… và các lĩnh vực khác
phù hợp với lợi ích của các bên liên quan. Đây được coi là phương án phù hợp và được
tiến hành khá thuận lợi do đã đáp ứng được các tiêu chí về việc xác định vùng thực sự có
tranh chấp..
Những thành công của phương án hợp tác cùng phát triển cho thấy một điều rằng, nếu
các quốc gia quyết tâm và thiện chí cũng như tuân thủ các nguyên tắc hợp tác đã định thì
chắc chắn lợi ích của tất cả các nước đối với biển Đông sẽ được bảo đảm, đồng thời
nguyện vọng biến biển Đông thành khu vực hòa bình, hợp tác và thịnh vượng sẽ trở
thành hiện thực. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục phát huy những kết quả đạt được
cũng như thúc đẩy hơn nữa việc triển khai phương án này.
Ngoài hai phương án giải quyết vấn đề Biển Đông nêu ở trên, Việt Nam cần phải nỗ
lực không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, đặc biệt chú ý đến tương
quan với Trung Quốc. Hơn nữa, Việt Nam cần hết sức bén nhạy với cán cân quyền lực
trong khu vực và phải lập tức mạnh dạn điều chỉnh chiến lược đối ngoại khi tương quan
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
20
lực lượng trong khu vực biến đổi bất lợi cho mình. Đây là vấn đề không thể giải quyết
trong một sớm một chiều vì vậy, Việt Nam cần kiên định và tự tin cũng như phải tuyên
truyền nâng cao nhận thức của người dân trong nước về vấn đề này cũng như kêu gọi sự
lên tiếng của cộng đồng quốc tế.
Kết luận
Cuộc tranh chấp biển Đông vẫn đang là một tranh chấp phức tạp, khó giải quyết, và
chừng nào mà tranh chấp này vẫn còn tồn tại thì khu vực vẫn bị đe dọa bởi sự mất ổn
định. Những tranh chấp trên các khu vực biển Đông, đặc biệt là khu vực hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa thể hiện sự đan xen, cân nhắc thể hiện cả chính sách đối nội và đối
ngoại. Các quốc gia không dễ dàng từ bỏ chủ quyền của mình đối với các khu vực này.
Chủ quyền đều được mỗi quốc gia quan niệm là đặc biệt thiêng liêng. Chính vì vậy, hiện
nay các giải pháp cho việc giải quyết vấn đề chủ quyền cho các bên yêu sách vẫn còn mờ
mịt, chưa có lối ra. Để đi đến một giải pháp lâu dài cho cuộc tranh chấp, các quốc gia có
liên quan phải sẵn sàng không quá đề cao tinh thần dân tộc, giảm bớt sự nghi kỵ lẫn nhau
và chấp nhận nhân nhượng, thỏa hiệp. Điều này sẽ dẫn đến sự hợp tác, cùng có lợi.
Cho đến nay, một số cuộc thương lượng nhằm đi đến thỏa thuận về việc phát triển tài
nguyên tại một số vùng tranh chấp khác nhau trên thế giới đã mang lại kết quả và được
coi như là những khuôn mẫu cho việc quản lý phát triển tài nguyên trong biển Đông.
Cũng giống như tranh chấp biển Đông, mỗi thỏa thuận đều nhằm giải quyết những vấn đề
liên quan đến tranh chấp chủ quyền, quyền tài phán biển, những tính toán về địa chiến
lược và quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Qua các thỏa thuận này, chúng
ta có thể học hỏi được nhiều điều về những cách thức và biện pháp mà những thỏa thuận
này đã xử lý đối với vấn đề chủ quyền hóc búa, cũng như vấn đề phạm vi và chiều hướng
của các quyền, những nhiệm vụ và trách nhiệm của các bên liên quan.
Đối với tranh chấp biển Đông, cũng đã có nhiều ý tưởng, đề xuất về những giải pháp
tạm thời cụ thể: từ mức độ xây dựng lòng tin, đến quản lý cùng khai thác tài nguyên
chung tại khu vực này. Trong khu vực biển Đông, nhiều mô hình hợp tác chung rất thành
công, nhưng cũng không ít mô hình sẽ mãi mãi không thể trở thành hiện thực. Qua phân
tích về những trường hợp hợp tác nói trên, những mô hình hợp tác thành công phải thỏa
mãn được các điều kiện sau:
1) Đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chung của các bên;
2) Việc khai thác chung được thực hiện trong một khu vực chồng lấn được xác
định rõ ràng, tạo bởi các tuyên bố chủ quyền của các bên phù hợp với luật pháp quốc tế –
đây là tiêu chí quan trọng nhất trong bất kỳ thỏa thuận khai thác chung nào.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
21
3) Cơ chế, phương thức hợp tác khai thác chung trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Tranh chấp biển Đông là một trong những tranh chấp phức tạp nhất thế giới, vì thế không
có một mô hình nào hay phương thức hợp tác chung duy nhất nào có thể áp dụng thành
công ở biển Đông. Trong đó, điều quan trọng là hợp tác khai thác chung phải đảm bảo
phân chia lợi ích của các bên một cách bình đẳng.
4) Việc hợp tác khai thác chung không ảnh hưởng đến quá trình đàm phán cũng
như yêu sách chủ quyền của mỗi bên. Cơ sở để các bên có thể đạt được một thỏa thuận về
hợp tác cùng phát triển là việc hợp tác này không phương hại đến lập trường, quá trình
đàm phán cũng như giải pháp cuối cùng là phân định vùng biển chồng lấn giữa các bên.
Có thể nói, bối cảnh tranh chấp tại biển Đông hiện nay về mặt chính trị, các nước trong
khu vực chưa có được lòng tin ở mức độ nhất định để có thể gác tranh chấp sang một bên
và tiến hành hợp tác khai thác chung trong toàn bộ biển Đông.
Việc hợp tác cùng khai thác chung tại khu vực biển Đông tranh chấp chỉ có thể được
thực hiện thành công và thực sự góp phần biến biển Đông thành một khu vực hòa bình,
hợp tác và thịnh vượng khi các bên thể hiện thiện chí và quyết tâm trong việc hợp tác,
qua đó xây dựng lòng tin, đẩy lùi nguy cơ xung đột, phục vụ lợi ích của mình cũng như
lợi ích chung của khu vực. Có thể nói, trong tranh chấp biển Đông, mối quan tâm, lợi ích
của các bên trong tranh chấp đôi khi không đồng nhất, do đó bất kỳ một đề xuất hợp tác
nào chỉ tập trung vào một đối tượng duy nhất và áp dụng chung cho tất cả các bên tranh
chấp biển Đông đều khó thành công. Ví dụ như lập trường chính trị của Trung Quốc
nhằm đề nghị gác lại vấn đề chủ quyền, khai thác chung tài nguyên của các quần đảo này
không được các bên tranh chấp chấp nhận vì Trung Quốc vẫn luôn đưa ra yêu sách của
bên mạnh nhất. Trong bối cảnh như vậy, đề xuất “hợp tác cùng phát triển” với nội dung
hợp tác đa dạng, đáp ứng được lợi ích và mối quan tâm của các bên là phù hợp hơn cả.
Trên thực tế, tại một số khu vực tranh chấp trên thế giới ví dụ như giữa Nhật với Trung
Quốc, giữa Nhật và Nga, bên cạnh việc hợp tác khai thác chung dầu khí, các bên còn thỏa
thuận thành lập các vùng đánh cá chung để đáp ứng lợi ích truyền thống của nhân dân các
bên liên quan.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
22
Tài liệu tham khảo:
1. Báo pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh
2. "China and the Philippines: Moving Beyond the South China Sea Dispute", China
Brief, volume 6, Isue 17, May 9 -2007.
3. Direct bilateral dialogue 'best way to solve disputes" - MFA China 26-07-2010.
4. Lee Kuan Yew, minister mentor of Singapore, Battle For Preeminence,
5. South China Morning Post, October 31, 2009 Saturday
6. Wall Street Journal (19-08-2010), Carlyle A. Thayer
7. Tạp chí nghiên cứu thế giới
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14. />15.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG 2007 – 2010
23