Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

câu hỏi ôn tập triết học mác leenin dành cho học viên cao học không chuyen triết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.13 KB, 37 trang )

CÂU HỎI ÔNG TẬP TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
DÀNH CHO HỌC VIÊN CAO HỌC KHÔNG CHUYÊN TRIẾT
Câu 1: Trình bày về khái niệm thế giới quan, các hình thức thế giới quan. Nội dung, bản chất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là hạt nhân của thế giới quan khoa học. Những nguyên tắc phương pháp
luận được rút ra từ thế giới quan duy vật biện chứng và việc vận dụng chúng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay?
Trả lời:
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và XH loài người. TGQ là biểu hiện của
cách nhìn bao quát đối với thế giới, bao gồm thế giới bên ngoài, con người và cả mối quan hệ của con người đối với thế
giới. Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành động của con người. Từ lâu triết học
đã được coi là hạt nhân lí luận của thế giới quan, đặc biệt là với sự ra đời của triết học Mác, CNDV và phép biện chứng
gắn bó chặt chẽ thống nhất với nhau, quy định lẫn nhau, trở thành TGQ và phương pháp luận khoa học để nhận thức và
cải tạo thế giới.
1/ Khái niệm TGQ
- TGQ là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong TG đó.
- Nguồn gốc: TGQ ra đời từ cuộc sống, là kết quả của cả những yếu tố chủ quan và khách quan, của cả hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
- Nội dung: TGQ phản ánh TG ở 3 góc độ: 1) Các đối tượng bên ngoài chủ thể; 2) Bản thân chủ thể; 3) Mqh giữa chủ thể
với các đối tượng bên ngoài chủ thể.
- Hình thức: có thể biểu hiện dưới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dưới dạng hệ thống lí
luận.
- Cấu trúc: có 2 yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành TGQ, song nó chỉ gia
nhập TGQ khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hoạt động của con người.
- Chức năng: c/n nhận thức, c/n xác lập giá trị, c/n bình xét, đánh giá, c/n điều chỉnh hành vi... mà khái quát lại, c/n bao
trùm là định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người.
2. Những hình thức cơ bản của TGQ
Cho đến nay, sự phát triển của TGQ đã được thể hiện dưới 3 hình thức cơ bản: TGQ huyền thoại, TGQ tôn giáo và TGQ
triết học.
+ TGQ huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thuỷ” (được thể hiện rõ nét qua các truyện thần thoại). Đây chủ yếu là
sản phẩm của quá trình nhận thức cảm tính. Trong TGQ huyền thoại, các yếu tố tri thức và cảm xúc, lí trí và tín ngưỡng,


hiện thực và tưởng tượng, cái thật và cái ảo, cái thần và cái người... của con người hoà quyện vào nhau một cách không
tự giác thể hiện quan niệm về TG. Sự pha trộn này là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp
+ TGQ tôn giáo: là TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với TG, đối với con người,
được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy.
Ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp.
Đặc trưng chủ yếu là niềm tin cao hơn lý trí, cái ảo lấn át cái thực.
+ TGQ triết học: Là TGQ được thể hiện bằng hệ thống lí luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, qui luật. Nó
không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về TG, về bản thân con người mà còn chứng minh những
quan niệm, quan điểm đó bằng lí luận.
TGQ triết học chỉ hình thành khi trình độ nhận thức của con người đạt đến mức độ cao của sự khái quát, trừu tượng hoá.
TGQ triết học và triết học không thể tách rời nhau. Triết học là hạt nhân lí luận của TGQ, giữ vai trò định hướng cho quá
trình củng cố và phát triển TGQ của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng và lịch sử.
1


TGQ có thể chia thành TGQ DV và DT, hoặc cũng có thể chia thành TGQ khoa học và phản khoa học. Trong TGQ khoa
học, quan điểm về thế giới, về con người và vị trí con người trong TG luôn luôn được bổ sung, phát triển, hoàn thiện để
phù hợp với sự vận động và phát triển của loài người.
3/ Nội dung, bản chất của CNDVBC với tư cách là hạt nhân của TGQ khoa học
3.1. Nội dung của CNDVBC
a) Quan điểm DV về TG
- Kế thừa tư tưởng các nhà triết học DV và căn cứ vào các thành tựu khoa học tự nhiên, CNDVBC khẳng định: bản chất
TG là v/c; TG thống nhất ở tính v/c và v/c là thực tại khách quan. Tính thống nhất đó của TG được thể hiện:
+ Chỉ có 1 TG duy nhất và thống nhất là TG v/c, tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô cùng, vô tận, không sinh ra và không
mất đi.
+ Tất cả các SV-HT trên TG đều là những dạng tồn tại cụ thể của v/c hay là thuộc tính của v/c.
+ Các SV-HT trong TG v/c thống nhất chặt chẽ với nhau, vận động và phát triển theo các quy luật khách quan, chuyển
hoá lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
+ Ý thức là một đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não người.
b) Quan điểm DV về xã hội

- XH là một bộ phận đặc thù của tự nhiên
XH là sản phẩm phát triển cao nhất và là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ XH có
những quy luật vận động, phát triển riêng thông qua hoạt động có ý thức của con người.
- Sản xuất v/c là cơ sở của đời sống XH; phương thức SX quyết định quá trình sinh hoạt XH., chính trị và tinh thần nói
chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức XH.
- Sự phát triển của XH là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Sự vận động và phát triển của XH vừa chịu sự chi phối của các quy luật chung chi phối TG v/c vừa chịu sự chi phối của
các QL riêng có của mình; trước hết và quan trọng nhất là QL về LLSX – QHSX, QL về cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng
tầng. Những QL này làm sự phát triển của XH là một quá trình lịch sử tự nhiên trên nền tảng SX v/c.
- Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
3.2. Bản chất của CNDVBC
a) Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
- Vấn đề cơ bản của triết học là mqh giữa tư duy và tồn tại (hay là vật chất và ý thức)
- Bằng việc đưa quan điểm thực tiễn vào hoạt động nhận thức, các nhà DVBC đã giải quyết thoả đáng vấn đề cơ bản của
triết học: khẳng định vai trò quyết định của các yếu tố vật chất đồng thời thừa nhận sự tác động trở lại đối với v/c của ý
thức thông qua hoạt động của con người.
b) Sự thống nhất hữu cơ giữa TGQ DV với phép biện chứng
Với việc kế thừa những tư tưởng hợp lí của các học thuyết trước đó và tổng kết thành tựu khoa học của XH đương thời,
C.Mác và Ph. Ăngghen đã giải thoát TGQ DV khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép BC khỏi tính chất duy tâm thần bí để
hình thành CNDVBC với sự thống nhất hữu cơ giữa TGQ DV với phép biện chứng, đem lại cho con người quan niệm về
TG là một quá trình với tính cách là v/c không ngừng vận động, chuyển hoá và phát triển.
c) Quan niệm DV triệt để
Khẳng định nguồn gốc v/c của XH; khẳng định SX v/c là cơ sở của đ/s Xh, phương thức SX quyết định quá trình sinh
hoạt XH, chính trị và tinh thần; tồn tại XH quyết định ý thức XH và coi sự phát triển của XH là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, CNDVBC đã khắc phục được tính không triệt để của CNDV cũ.
d) Tính thực tiễn – cách mạng, thể hiện ở:
- CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản
- CNDVBC không chỉ giải thích TG mà còn đóng vai trò cải tạo TG
- CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới
2



=> ND, bản chất của CNDVBC có thể khái quát thành tư tưởng cơ bản là: Chỉ có 1 TG duy nhất và thống nhất là TG v/c;
trong TG c/v, v/c là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức có thể tác động trở lại thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
4. Những nguyên tắc phương pháp luận của CNDVBC và việc vận dụng nó vào sự nghiệp CM ở VN giai đoạn
hiện nay
4.1. Tôn trọng khách quan
Điều này đòi hỏi trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm cơ
sở, phương tiện cho hành động của mình.
Một số biểu hiện của việc tôn trọng khách quan là:
- Mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện
thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống v/c trong từng giai đoạn cụ thể.
Ở VN, trong 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta đã nôn nóng, tách rời
hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách quan nên đã phạm phải một số sai lầm trong con đường quá độ lên CNXH.
Qua quá trình tổng kết rút kinh nghiệm, hiện nay Đảng và Nhà nước đã căn cứ vào tình hình thực tế của đất nước để đề
ra đường lối, chính sách;: chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá; chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phục vụ công cuộc cách mạng...
- Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lực lượng v/c để thực hiện nó.
Thời kì chiến tranh, chúng ta đã rất thành công trong việc huy động, tổ chức sức mạnh của mỗi người, mỗi vùng và sức
mạnh của cả nước... tạo nên một lực lượng v/c khổng lồ phục vụ cho chiến tranh nhân dân.
Ngày nay, với quan điểm CM là sự nghiệp của quần chúng, chúng ta xác định cần thực hiện đại đoàn kết dân tộc để phát
triển đất nước và thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
4.2. Phát huy tính năng động chủ quan
- Phải tôn trọng tri thức khoa học
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của khoa học đối với sự nghiệp cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học là quốc sách hàng đầu, phát huy tính sáng tạo, dân chủ trong hoạt động khoa học –
công nghệ, đổi mới chính sách đào tạo và đãi ngộ nhân tài, mở rộng hợp tác, giao lưu quốc tế về khoa học và công
nghệ...
- Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định

hướng cho quần chúng hành động.
Ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước và toàn dân đang tiến hành việc phát huy tiềm năng trí tuệ và tinh thần yêu nước
của người VN, đầu tư có trọng điểm vào hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, xã hội hoá giáo dục, sử dụng tối ưu
những phương tiện thông tin đại chúng và đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền... để phát huy tính năng động chủ quan
phù hợp với yêu cầu và điều kiện của xã hội hiện tại.
KL: Như vậy, CNDVBC đã trở thành TGQ và phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. CNDVBC
vẫn là khoa học đang phát triển. Cùng với sự phát triển của khoa học và sự biến đổi XH, các nguyên lí của CNDVBC đã
và đang được cụ thể hoá, được phát triển để phù hợp với sự phát triển của XH loài người.

Câu 2: Trình bày và phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Hãy phân
tích ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ 2 nguyên lý này và việc vận chúng trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Trả lời:
3


I.
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIỆN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm mối liên hệ
Các nhà triết học duy tâm cho rằng, giữa các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau, nhưng cơ sở của mối liên hệ
này là tinh thần, hay lực lượng siêu nhiên.
Các nhà duy vật siêu hình lại không thấy được mối liên hệ giữa các sự vật. Thường thì họ cho rằng, các sự vật chỉ đứng
bên cạnh nhau, độc lập, biệt lập nhau giữa chúng không có mối liên hệ gì. Nếu có chăng nữa thì theo họ, đó là mối liên
hệ ngẫu nhiên, không có cơ sở. Triết học duy vật biện chứng công nhận mối liên hệ khách quan giữa các sự vật, hiện
tượng.
Liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự quy định, sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự
tương tác và chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính
của một sự vật, hiện tượng, một quá trình.
Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa
dạng phong phú, nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; đều chịu sự chi phối, tác động, ảnh

hưởng của các sự vật, hiện tượng khác.
Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Chúng ta đều rõ, dù các sự vật trong thế giới đa
dạng đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất. Cho nên, chúng đều chịu sự chi phối
của quy luật vật chất. Ngay cả ý thức, tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người. Do vậy, ý thức tinh thần cũng bị chi phối bởi quy luật vật chất.
2. Các tính chất của mối liên hệ
Theo triết học duy vật biện chứng, mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan - nghĩa là mối liên hệ không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, chỉ phụ thuộc vào bản
thân sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là mối liên hệ vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.
Tính phổ biến - nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy; có ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay trong cùng
một sự vật, trong bất kỳ thời gian nào, không gian nào luôn có mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành sự vật.
Tính đa dạng, phong phú - rất nhiều mối liên hệ khác nhau phụ thuộc vào góc độ xem xét: chẳng hạn, mối liên hệ bên
trong - bên ngoài; mối liên hệ tất yếu - ngẫu nhiên; mối liên hệ trực tiếp - gián tiếp; mối liên hệ chủ yếu - thứ yếu, mối
liên hệ xa - gần v.v. Mỗi cặp mối liên hệ này có vai trò khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Sự phân chia các cặp mối liên hệ này cũng chỉ là tương đối. Ví dụ, mối liên hệ này trong quan hệ này được coi là
mối liên hệ bên trong nhưng trong quan hệ khác lại được coi là mối liên hệ bên ngoài.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu mối liên hệ phổ biến cho ta ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Nguyên lý về mối liên hệ là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm
toàn diện đòi hỏi:
+ Khi nhận thức sự vật phải nhận thức trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác; trong mối liên hệ giữa các mặt,
các yếu tố của bản thân sự vật đó.
+ Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
+ Phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở đó nhận thức đúng và giải quyết để thúc đẩy sự vật tiến lên.
+ Chống lại quan điểm chiết trung - lắp ghép một cách máy móc vô nguyên tắc những cái trái ngược nhau vào làm một;
chống lại ngụy biện - một kiểu đánh tráo các mối liên hệ một cách có ý thức, có chủ định.
- Vì các mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quan
điểm lịch sử - cụ thể. Khi nhận thức sự vật thì phải xem xét sự vật luôn trong điều kiện, hoàn cảnh, không gian, thời
gian cụ thể. Phải xem xét sự vật ra đời trong hoàn cảnh nào? Nó tồn tại, vận động, phát triển trong những điều kiện nào?
Trong hoạt động thực tiễn khi giải quyết vấn đề thực tiễn nào phải có những biện pháp rất cụ thể, không được chung

chung. Khi vận dụng những nguyên lý, lý luận chung vào thực tiễn phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử 4


cụ thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể chống lại quan điểm giáo điều. Như vậy, chính quan điểm triết học Mác - Lênin về
mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử – cụ thể.
- Chống lại quan điểm phiến diện, một chiều trong nhận thức cũng như trong hành động.
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi không được bình quân, dàn đều khi xem xét sự vật mà phải có trọng tâm, trọng điểm.
Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút ra ý nghĩa phương pháp luận

- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo quan điểm này, sự vật hiện tượng
trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ, ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế
giới chỉ là một tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch ra cái
chung, cái bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.
- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng,
ràng buộc, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật
phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến
với nhau, không có cái gì tồn tại biệt lập với cái khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận
động, mà vận động cũng là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là một
hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có liên hệ qua lại với nhau đã có ý
nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động”.
Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi sự vật và quá trình của
hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện chứng duy vật
cũng chỉ ra rằng, liên hệ của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ khác
nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành nhiều loại: liên hệ bên trong và
liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián
tiếp… Sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức, một
bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại
các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật
và hiện tượng không như nhau.

Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của phép biện chứng duy vật và của các
ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của
từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến
nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp luận to lớn đối với hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận
thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện tượng khác;
phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta
mới nắm bắt được một cách đầy đủ bản chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội
vàng.
Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng, tràn lan mà phải thấy được tính chất,
vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao
hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của nó, gắn với
những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái
cơ bản, cái có tính quy luật của nó; đồng thời phải xét cả những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện
5


từng liên hệ quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những phương thức cụ thể để
tác động đến sự vật.
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm phát triển
Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng, không có sự thay đổi về mặt
chất của sự vật; nếu có sự thay đổi về mặt chất thì cũng chỉ diễn ra theo vòng tròn khép kín, chứ không có sự ra đời cái
mới. Các nhà siêu hình nhìn quá trình phát triển như một quá trình liên tục, không phức tạp, không có mâu thuẫn.
Theo triết học duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp
lên cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật.
Đó là mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn đó quy định sự vận động, phát

triển của sự vật.
2. Tính chất của sự phát triển
Phát triển mang tính khách quan - nghĩa là phát triển của sự vật là tự thân, nguồn gốc của phát triển nằm ngay trong sự
vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, chỉ phụ thuộc vào mâu thuẫn bên trong sự vật.
Phát triển mang tính phổ biến - phát triển diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi.
Phát triển mang tính đa dạng, phong phú - tức là tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất mà phát
triển diễn ra cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, ở thế giới hữu cơ, phát triển thể hiện ở sự tăng cường khả năng thích nghi của
cơ thể trước môi trường; ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn.
Trong xã hội, phát triển thể hiện ở khả năng chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ con người.
Trong tư duy, phát triển thể hiện ở việc nhận thức vấn đề gì đó ngày càng đầy đủ, đúng đắn hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra những ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Khi nhận thức sự vật phải nhận thức nó trong sự vận động, phát triển; không nhìn nhận sự vật đứng im, chết cứng,
không vận động, không phát triển.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi phải chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, ngại khó, ngại đổi mới, dễ bằng lòng với thực
tại.
- Nhận thức sự vật phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó, để có những phương án dự phòng. Có như vậy con
người mới chủ động trong hoạt động tránh bớt được vấp váp, rủi ro; nghĩa là, con người sẽ chủ động, tự giác hơn trong
hoạt động thực tiễn.
- Phát triển là khó khăn, phức tạp. Vì vậy, trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp khó khăn, thất bại tạm
thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào tương lai Như vậy, quan điểm triết học Mác-Lênin về phát triển là cơ sở lý luận của
quan điểm phát triển.
Phân tích:
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng tư
tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn, nhiều thử
thách và cũng có lúc sự lãnh đạo của Đảng mắc phải những bệnh chung của các nước xã hội chủ nghĩa như : bệnh giáo
điều, bệnh bảo thủ trì trệ, chủ quan duy ý chí … dẫn đến sự suy thoái, khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, Đảng vẫn
khẳng định ““CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng như từ những khát vọng và sự thức tỉnh
của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất

định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội IX, trang 65). Nhận định này xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển
và quan điểm phát triển trong triết học Mác Lênin và thực tiễn tình hình thế giới cũng như tình hình xây dựng CNXH ở
Việt Nam.
6


Nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ sự vận động có định hướng từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn mà kết quả là cái mới tiến bộ ra đời thay thế cái cũ lạc hậu. Sự phát triển của sự vật mang tính phổ
biến vì trong thế giới khách quan, không có sự vật hiện tượng (SVHT) nào đã đứng im, tĩnh tại mà nó luôn vận động,
phát triển không ngừng. Sự mất đi của 1 SVHT này là điều kiện ra đời của SVHT khác. Nguyên lý này cũng khẳng định
rằng nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong chính bản thân sự vật hiện tượng
hay nói cách khác đó là do mâu thuẩn nội tại bên trong SVHT, nó vạch ra cách thức của sự phát triển là vừa có tích lũy
dần về lượng, vừa có sự chuyển hóa về chất, tức là sự phát triển chẳng qua là sự tăng giảm về lượng và chất (vừa có tính
liên tục, vừa có tính gián đoạn). Nguyên lý về sự phát triển cũng chỉ ra rằng không phải chỉ có khuynh hướng đi lên mới
được coi là sự phát triển mà quá trình phát trển thường được diễn ra quanh co, phức tạp qua những khâu trung gian mà có
lúc bao hàm cả sự thụt lùi đi xuống tạm thời : đó là khuynh hướng tiến lên của đường “xoáy tròn ốc”. Trong xu hướng
của sự phát triển luôn có tính kế thừa và sự đi lên này là một quá trình có tính lặp lại.
Quan điểm phát triển là phương pháp luận được rút ra từ của nguyên lý trên. Quan điểm phát triển đòi hỏi để
nhìn thấy được bản chất của SVHT, chủ thể phải xem xét các SVHT trong trạng thái, xu hướng vận động, phát triển và
dự đoán được các xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng, nhìn thấy được cái mới, cái tiến bộ trong hiện tại cái cũ mặc
dù cái mới nào lúc ra đời cũng còn “non yếu”, bị cái cũ lấn áp để từ đó tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ lạc hậu.
Tuân theo những đòi hỏi đó của quan điểm phát triển sẽ góp phần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo
điều trong tư duy cũng như trong hành động thực tiễn. Bệnh bảo thủ trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay
đổi, dựa dẫm, chờ đợi, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có. Đôi khi bệnh bảo thủ biểu hiện qua
những định kiến. Bệnh bảo thủ trì trệ cũng gắn liền với bệnh giáo điều, đó là khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi
thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu
tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều có 2 dạng : giáo điều lý
luận và giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo điều lý luận là việc thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào
đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến

hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể
mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành
phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
Bệnh giáo điều kinh nghiệm là việc áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của nước khác, của địa phương khác vào địa
phương mình mà không sáng tạo, chọn lựa … Ví dụ như trước đây ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô
trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ
ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển
công nghiệp nhẹ … Bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều cùng với bệnh chủ quan duy ý chí là những căn bệnh chung
của các nước XHCN và nó gây ra hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí kéo lùi sự phát triển của kinh tế - xã hội, đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật hoàn toàn đối lập với quan
điểm bảo thủ trì trệ định kiến. và bệnh giáo điều. Trên cơ sở hiểu rõ quy luật phát triển của sự vật một cách biện chứng,
ta có thể khắc phục được bệnh bảo thủ trì trệ và bệnh giáo điều thông qua việc từ bỏ lối nghiên cứu áp dụng lý luận một
cách kinh viện, thuần túy, chống lại tư duy bắt chước, sao chép rập khuôn; từ bỏ những định kiến, đấu tranh với sức ỳ
trong nhận thức và hành động, tăng cường tổng kết thực tiễn từ quá trình vận động của các SVHT để bổ sung phát triển
lý luận. Trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta luôn đấu tranh phê phán với quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến. Văn kiện Đại hội Đảng lần IX có viết : “... Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp,
thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin tưởng lẫn nhau hướng tới tương lai” (trang 124)
Xét về khía cạnh tư tưởng, quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như là cái đang có mà còn
phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá trình phát triển sự vật thường có sự biến đổi
tiến lên nhưng cũng có cả những biến đổi thụt lùi. Quan điểm phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được khi bằng tư duy
khoa học, ta có thể khái quát được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đồng thời thấy được tính
quanh co phức tạp của quá trình phát triển, bước lùi của một sự vật hiện tượng trong giai đoạn nào đó cũng là tất yếu trên
7


con đường phát triển. Nhận thức đúng được xu hướng phát triển, ta có thể tránh được những bi quan dao động trước sự
thất bại tạm thời của cái mới, tạo được niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, cái tiến bộ.
Việc Đảng ta kiên trì đổi mới xây dựng đất nước phát triển theo con đường XHCN là căn cứ vào quan điểm phát
triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mặc dù trong bối

cảnh lịch sử hiện nay CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái trào và công cuộc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của đất
nước ta cũng như các nước XHCN vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách.
Văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã nhận định : “CNXH trên thế giới từ những bài học thành công và thất bại cũng
như từ những khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy
luật tiến hóa của lịch sử loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Nhận định này phát xuất từ tình hình thực tế điều kiện chính trị thế giới biến đổi một cách căn bản; phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đang tạm thời lâm vào giai đoạn thoái trào do tác động từ sự tan rã của Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu, CNTB tỏ ra còn khả năng phát triển và đang có những âm mưu, thủ đoạn mới nhằm xóa bỏ hoàn
toàn CNXH, Sau cách mạng tháng 10 Nga (năm 1917) nhiều nước đi vào con đường xây dựng CNXH và đã được
những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, quân sự … Nhưng bên cạnh đó, CNXH cũng vấp phải những sai lầm
nghiêm trọng mà hậu quả của nó là tình trạng trì trệ, khủng hoảng KTXH trầm trọng, những điểm ưu việt thuộc bản chất
của CNXH không thể hiện đầy đủ hoặc không được thể hiện và thực hiện trong thực tế. Nhận thức được những sai lầm
đó các nước XHCN đã và đang tiến hành cải tổ, đổi mới coi như một tiến trình cách mạng nhằm khắc phục khủng hoảng
đưa XH tiến lên. Nhưng bên cạnh đó, một số nước tiếp tục mắc phải những sai lầm nghiêm trọng mới (xa rời học thuyết
Mác Lê nin, chấp nhận đa nguyên đa Đảng, thực hiện dân chủ thiểu cận nhích gần đến trình trạng vô chính phủ, kẻ địch
lợi dụng …) làm mất ổn định chính trị, làm biến chất chế độ theo hướng tư bản chủ nghĩa mà điển hình là sự tan rã của
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Ngược lại với sự thoái trào tạm thời của CNXH, “trước mắt CNTB còn có tiềm
năng phát triển kinh tế nhờ ứng dụng những thành tựu mới của KH và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý thay đổi
cơ cấu SX, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách XH” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH). Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang là một xu thế khách quan, ngày càng lôi kéo nhiều nước tham
gia và nó vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Tuy nhiên, do bản chất của CNTB vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công nên cần phải thấy rằng mặc dù
“CNTB hiện đại đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường song không thể khắc phục nổi những mâu
thuẩn vốn có, đặc biệt là mâu thuẩn giữa tính chất XH hóa ngày càng cao của lực lượng SX với chế độ chiếm hữu tư
nhân TBCN về tư liệu SX, mâu thuẩn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển”(VK ĐH Đảng
IX,trang 64). Trong quá trình toàn cầu hóa, mâu thuẩn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các
tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. “Chính sự vận động
của tất cả những mâu thuẩn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của CNTB”
(Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH)
Ngày nay mặc dù CNXH đang ở thế thoái trào, song những cơ sở vật chất và XH của thời đại mới ngày càng

chín muồi. Từ những thành công và chưa thành công của quá trình cải tổ, đổi mới, Đảng cộng sản các nước đã và đang
rút ra những bài học cần thiết, đưa quá trình cải tổ đổi mới diễn ra đúng hướng phù hợp quy luật phát triển của XH và
đang đạt những chuyển biến tích cực. Điển hình như Trung Quốc, từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII (12-1978)
Đảng cộng sản Trung Quốc đã mở đầu công cuộc cải cách, mở cửa toàn diện, sâu sắc theo định hướng XHCN và từ đó
đến nay, trãi qua một phần tư thế kỷ, Trung quốc đã phát triển không ngừng và đang đứng vào hàng ngũ các cường quốc
trên thế giới. Đối với nước ta, “những thành tựu to lớn và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của
nước ta lớn mạnh lên nhiều”(VK ĐH Đảng lần IX, trang 66). Điều này cho thấy rằng thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tấp. Cũng như
mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng như Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của ĐCS VN nhận định “CNXH hiện thực đang đứng trước nhiều khó khăn, thử
thách. Lịch sử thế giới đang trãi qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó
là quy luật tiến hóa của lịch sử” (trang 8)
Tóm lại, sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu thuẩn, vận dụng quan
điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận giúp ta tránh được những bệnh bảo thủ trì trệ, định kiến,
8


nhận thức và hành động thực tiễn phải thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó và củng cố được niềm tin
trước những khó khăn, thử thách tạm thời. Chính bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển chung
của đất nước
Câu 3: Phân tích nội dung quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật? Ý nghĩa phương pháp luận
của sự nhận thức quy luật này trong việc phát hiện và phân tích mâu thuẫn ở nước ta hiện nay?
Trả lời;
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi tắt là quy luật mâu thuẫn) là quy luật có vị trị đặc biệt
trong số các quy luật của phép biện chứng duy vật. Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển của các
sự vật hiện tượng.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chính là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Lenin đã từng viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập nhưng
điều đó đòi hỏi phải có sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
6.1.Nội dung của quy luật:

6.1.1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược. (Ví dụ: Trong nguyên tử có điện tử, hạt
nhân/ Trong sinh vật có đồng hóa, dị hóa/ Trong kinh tế thị trường có cung cầu, tiền hàng…). Những mặt trái ngược đó
trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.

Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi
ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng
chỉ tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phẩn
ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu nhiên
chủ quan cũng không phải là mâu thuẫn trong logic hình thức (Mâu thuẫn trong logic hình thức là sai lầm trong tư duy).
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập
là sự nương tự lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập. Sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của
mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố
giống nhau đó gọi là sự đồng nhất của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của các mặt đối lập còn bao hàm cả
sự đồng nhất của các mặt đó. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc
nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lâp còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động
của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động
qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức
phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào tính chất vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tùy điều kiện cụ thể diễn
ra cuộc đấu tranh giữa chúng.

Mâu thuẫn là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Tính chất của mâu thuẫn biện chứng:
-Mâu thuẫn tồn tại khách quan, vốn có trong các sự vật hiện tượng. Nó không những tồn tại độc lập không phụ thuộc vào

ý thức, ý chí của con người mà còn quy định cả ý thức ý chí của con người.

9


-Mâu thuẫn mang tính chật phổ biến. Mâu thuẫn có trong mọi sự vật hiện tượng của thế giới, bao gồm cả tự nhiên, xã hội
lẫn tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại ở mọi giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật, hiện tượng và giữa các sự vật
hiện tượng khác nhau với nhau.
-Mâu thuẫn mang tính chất đa dạng và phức tạp
+ Sự vật hiện tượng khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau.
+ Mâu thuẫn trong các lĩnh vực khác nhau thì khác nhau: mâu thuẫn trong tự nhiên khác với mâu thuẫn trong xã hội và
mâu thuẫn trong tư duy.
+ Sự vật hiện tượng chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Mỗi mâu thuẫn lại có vị trí và vai trò khác nhau đối với sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng.
+ Mỗi mâu thuẫn lại có quá trình hình thành phát triển và giải quyết qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những đặc
điểm riêng.
6.1.2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu
thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả sự thống nhất lẫn đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động, phát triển của các sự vật.
Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận
động và phát triển. Điều này có nghĩa: sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập là tuyệt đối. Lenin viết: “Sự thống nhất (…) của các đối lập là có điều kiện, tạm thời và thoáng qua, tương đối. Sự
đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của
các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản
nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối
lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống
nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Nói về điều này, Lenin viết:
“Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng

không có sự đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu
thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi của sự vật.
Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
6.1.3. Một số loại mâu thuẫn
6.1.3.1. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn của các mặt đối lập bên trong sự vật còn mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các
sự vật với nhau.
Mâu thuẫn bên trong quyết định mâu thuẫn bên ngoài và là nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển của sự vật
hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài tác động đến sự phát triển của sự vật phải thông qua mâu thuẫn bên trong.
Sự vật nào cũng có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Phân biệt giữa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngoài chỉ có tính tương đối.
6.1.3.2. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn cơ bản quy định bản chất của sự vật, nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự vật từ khi hình thành
cho đến khi biến đổi thành sự vật khác.
Mâu thuẫn không cơ bản được tạo thành bởi những mặt đối lập không cơ bản của sự vật. Nó không quy định bản chất
của sự vật và bị quy định bởi mâu thuẫn cơ bản.
Phân biệt mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản của sự vật chỉ mang tính tương đối.
6.1.3.3. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và quyết định sự phát triển
của sự vật tại giai đoạn đó cũng như chi phối các mâu thuẫn khác.
10


Thông thường mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật
Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không quyết định đến sự phát triển của sự tại thời điểm hay giai đoạn nào đó Nó tác
động phụ thuộc vào mâu thuẫn chủ yếu.
Phân biệt mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu có tính tương đối.
6.1.3.4. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Đây là những loại mâu thuẫn chỉ có trong xã hội.

Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp xã hội có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể điều hòa được.
Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng gay gắt hơn và đòi hỏi phải được giải quyết bằng bạo lực cách mạng
của giai cấp bị thống trị chống lại bạo lực của giai cấp thống trị đã lỗi thời, phản động.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, giai cấp xã hội không đối lập nhau vì lợi ích căn bản.
Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng dịu đi. Cách giải quyết mâu thuẫn này là bằng con đường hòa bình,
giáo dục, thuyết phục, phê và tự phê bình.
Cả hai mâu thuẫn đều được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không phải bằng hình thức
điều hòa giữa các mặt đối lập.
6.2. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn.
=> Rút ra được nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức và hoạt động thực tiễn:
- Tôn trọng tính khách quan của quy luật. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức quy luật phải xuất phát từ sự tồn tại
thực tế của quy luật mâu thuẫn để nhận thức và vận dụng nó. Không được xuất phát từ mong muốn, từ nhận thức của
chúng ta về mâu thuẫn.
- Muốn hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển sự vật thì phải tìm ra, phải căn cứ vào mâu thuẫn sự
vật.
- Mâu thuẫn là quá trình, do đó phải nhận thức và vận dụng quy luật mâu thuẫn trong quá trình phát sinh phát triển của
nó. Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển của mâu thuẫn mà có những cách tác động lên mâu thuẫn khác nhau.
- Phải có quan điểm phân loại mâu thuẫn trong nhận thức và vận dụng nó.
- Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải được giải quyết thông qua con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tránh khuynh
hướng thủ tiêu mâu thuẫn hoặc điều hòa mâu thuẫn dưới hình thức này hay hình thức khác.

Câu 4: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược
lại? Ý nghĩa phương pháp luận của sự nhận thức quy luật này trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay?
Trả lời:
1/ Nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đối về chất và ngược lại
* Khái lược về lượng và chất:
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật,
hiện tượng.
- Quan niệm về chất trong lịch sử triết học có từ thời cổ đại. Arixtốt là người đầu tiên đã phân loại các phạm trù, trong đó

có phạm trù chất. Ông xem màu trắng và đen là những chất khác nhau. Hêghen trong lý luận của mình đã cố gắng tìm
cách nêu ra khái niệm “chất”, trong đó, chất là cái khách quan, là tính quy định để phân biệt bản thân nó với chất khác.
Quan điểm Mác – Lênin được xây dựng trên những nhân tố hợp lý của Hêghen:
+ Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phái là cái khác.
11


+ Chất không phải chỉ là một thuộc tính. Chất còn là sự tổng hợp của nhiều thuộc tính với tư cách là một thể thống nhất
hữu cơ.
+ Chất không phải chỉ được tạo nên từ các nhân tố cấu thành sự vật mà còn được tạo nên từ cách sắp xếp các nhân tố ấy.
VD: Kim cương và than chì là hai chất khác nhau. Chúng đều được cấu tạo từ nguyên tố cácbon (C) nhưng do cách sắp
xếp khác nhau mà ta thấy hai chất hoàn toàn khác biệt nhau. Vì thế, sự phong phú về chất không phải chỉ do sự phong
phú của các nhân tố mà trong nhiều trường hợp lại do sự phong phú của phương thức kết hợp.
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ,
nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Chất và lượng luôn thống nhất hữu cơ với nhau, bất kỳ chất nào cũng có một lượng nhất định (có giới hạn về mặt không
gian, có trình độ phát triển, có tốc độ vận động…) Bất kỳ lượng nào cũng là lượng của chất. Mối quan hệ giữa lượng và
chất là mối quan hệ bản chất của mọi sự vật, hiện tượng. Vì vậy, mối quan hệ này là một trong những quy luật vận động
cơ bản của tự nhiên, xã hội và tư duy.
*Quy luật: những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
7.1/ Sự biến đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất: Có 2 trường hợp xảy ra
- Sự biến đổi về lượng đưa ngay đến sự biến đổi về chất.
Ví dụ: Trong các nguyên tử chỉ cần mất đi một điện tử, lập tức nguyên tử biến thành ion. Một nguyên tử khí, nếu thêm
một nguyên tử nữa, nó thành phân tử… Ở tất cả các chất phóng xạ, mọi sự bắn ra của các hạt α hay β đều tạo thành
những chất mới.
7.2/ Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp sự biến đổi về lượng đến một giới hạn nhất định nào đó mới xảy ra sự biến đổi
về chất.
- Ví dụ: Khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới
hàng nghìn độ, thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật được tích luỹ

vượt quá giới hạn nhất định, gọi là độ, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với lượng
mới tích luỹ được.
- Độ là phạm trù triết học để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật ấy.
+ Độ là mối liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật. Trong độ sự
vật vẫn còn là nó chứ chưa thành cái khác.
Ở một ví dụ khác, dưới áp suất bình thường của không khí, sự tăng hoặc sự giảm nhiệt độ trong khoảng giới hạn từ
0°C đến 100°C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng. Nếu nhiệt độ của nước đó giảm xuống dưới 0 °C nước thể lỏng
chuyển thành thể rắn và duy trì nhiệt độ đó, từ 100°C trở lên, nước nguyên chất thể lỏng chuyển dần sang trạng thái hơi.
Nước nguyên chất cũng thay đổi về chất.
Tại điểm giới hạn như 0°C và100°C ở ví dụ trên, gọi là điểm nút. Tại điểm đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về
chất của sự vật.
- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự
vật.
+ Sự vật tích luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống
nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Quá trình đó liên tiếp diễn ra trong sự vật và vì thế sự vật
luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại.
-Chất của sự vật thay đổi do lượng thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Vậy: bước nhảy là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.
+ Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó
là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn.
12


+ Bước nhảy được coi trọng vì nếu không có bước nhảy thì trong sự vận động chỉ có sự biến đổi dần dần, từ từ, không có
sự phá vỡ chất cũ và hình thành chất mới, không có những sự thay đổi đáng kể ngày càng lớn trong tự nhiên cũng như
trong xã hội. Không có bước nhảy cũng tức là không có sự thay đổi về chất và như vậy thế giới chỉ duy trì những cái đã
có và ngày hôm nay khác ngày hôm qua chỉ là về lượng, thậm chí sự vật này khác sự vật khác cũng lại chỉ là sự khác biệt
về lượng
--> Như vậy, sự phát triển của bất cứ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút

để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động
của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định.
7.2/Sự biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi vềlượng:
- Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật. Chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
-Chẳng hạn, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức cũng là thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được
nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh viên cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi về kết cấu, quy mô
và trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Cũng giống như vậy, khi nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi
thì vận tốc của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng
với cùng một khối lượng, tính chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi…
 Từ những sự phân tích trên có thể rút ra nội dung của quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại như sau: mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn
khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại
sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
2.Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật này trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay
Từ việc nghiên cứu quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các
kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất
định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết
từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư
tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt chặt bị”, “góp gió thành bão”… Những việc làm vĩ đại của con người
bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con gnười đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta
tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục trong
quá trình tiến lên CNXH.
- Quy luật tự nhiên và quy luật xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn
quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua ý thức của con người. Do đó, khi tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết
tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những
thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới khắc phục
được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần
về lượng trong quá trình xây dựng CNXH.

- Trong hoạt động thực tế, chúng ta cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ
thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc
quy luật này. Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà chúng ta sẽ lựa chọn bước nảy cho phù hợp. Song con người và đời sống
xã hội rất đa dạng, phong phú, do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết phải
thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố. Muốn xd CNXH thành công cần kiên trì tìm ra
từng bước đi phù hợp trong mỗi gdoan lịch sử khác nhau
- Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật
Phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu
13


của sự vật đó. Vd: Trong một cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất
có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.
Thời kỳ quá độ là một thì kỳ đấu tranh phức tạp của dân tộc ta với các thế lực thù địch, là thời kỳ đấu tranh giữa cái mới
và cái cũ. Vận dụng quy luật những thay đỏi về lượng dẫn đến những thay đổi về chát, Đảng ta luôn kiêm định với mục
tiêu xây dựng CNXH trên cơ sở phát huy đúng đắn động lực phát triển đất nước....
Câu 5: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định? Ý nghĩa phương pháp luận của sự nhận thức
quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?
Trả lời:
1/ Nội dung của quy luật Phủ định của phủ định.
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, chỉ rõ khuynh hướng của
sự vận động, phát triển, của sự vật và sự liên hệ giữa cái mới và cái cũ. Để hiểu được bản chất của quy luật trước hết cần
nắm được khái niệm của phủ định và phủ định biện chứng
a/Khái niệm phủ định.
Trong thế giới vật chất, các sự vật đều có quá trình sinh ra, tồn tại, mất đi và được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế
cái cũ bằng cái mới là sự phủ định. Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất.
b/Khái niệm phủ định biện chứng.
- Nếu quan điểm siêu hình coi phủ định là sự xoá bỏ hoàn toàn cái cũ, thì triết học Mác – Lênin coi phủ định là sự phủ
định biện chứng - sự phủ định có kế thừa, tạo điều kiện cho sự phát triển
- Quan niệm về sự phủ định biện chứng như trên tất yếu sẽ gắn với sự giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy.

Chính sự ra đời của sự vật mới về chất phải thông qua biệc giải quyết mâu thuẫn.
- Đặc điểm của phủ định biện chứng.
+ Tính khách quan: thể hiện ở chỗ nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật. Đó là kết quả của việc giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật và của quá trình từ tích luỹ về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất.
+ Tính kế thừa: cái mới ra đời dựa trên cơ sở của cái cũ đó là sự phủ định có kế thừa. Phủ định có kế thừa - sự loại bỏ
những yếu tố đã lỗi thời, lạc hậu gây cản trở cho sự phát triển, đồng thời cũng chọn lọc, giữ lại những yếu tố tích cực và
cải biến đi cho phù hợp.
c.Nội dung của quy luật phủ định của phủ định.
- Thế giới vật chất vận động và phát triển thông qua quá trình phủ đinh biện chứng vô tận. Sự phát triển của các sự vật
diễn ra qua nhiều lần phủ định, tạo ra một khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kỳ. Chu kỳ của sự phủ định biện
chứng biểu hiện ở chỗ thông qua một số lần phủ định cái mới xuất hiện dường như đối lập lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao
hơn.
+ Qua sự phủ định lần thứ nhất sự vật chuyển thành mặt đối lập với chính mình
+ Qua sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới này lại chuyển thành mặt đối lập với nó và dường như trở lại dạng ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn.
VD: Hạt lúa -------------------Cây lúa ------------------ Bông lúa
Qua lần phủ định thứ nhất thì Cây lúa là phủ định của hạt lúa, qua lần phủ định thứ hai, bông lúa là phủ định của cây lúa
nhưng bông lúa lại bao gồm nhiều hạt lúa nên dường như sau lần phủ định này hạt lúa dường như trở về dạng ban đầu
nhưng trên cơ sở cao hơn (thành nhiều hạt lúa trên một bông lúa).
- Kết quả sự phủ định của phủ định là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước, trong cái
khẳng định ban đầu (hạt lúa) và cái phủ định lần thứ nhất (cây lúa). Đó là sự “lọc bỏ” biện chứng những giai đoạn đã qua
để đạt đến cái mới về chất cao hơn. Đó chính là quá trình “lọc bỏ” biện chứng.
Ở ví dụ trên, qua hai lần phủ địn sự vật trải qua một chu kỳ phát triển. Rõ rang, ở sự vật đơn giản ít ra cũng phải thông
qua hai lần phủ định mới có được sự phát triển, ở các sự vật phức tạp số lần phủ định có thể nhiều hơn.
14


- Sự phủ định của phủ định là sự kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ mới và
cứ thế tiếp tục mãi mãi, tạo nên hình thái “xoáy trôn ốc” của sự phát triển.
2. Ý nghĩa phương pháp luận.

- Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là tất yếu của sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan. Song quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà quanh co phức tạp phải trải qua nhiều
lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn phiến diện giản đơn trong việc nhận
thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội.
- Quy luật phủ định của phủ định khẳng định tính tất thắng của cái mới vì cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát
triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao
hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có ý thức phát triển ra cái mới, tạo điều kiện
cho cái mới phát triển.
- Trong khi phê phán cái cũ cần phải biết sang lọc kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ
nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
*Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định áp dụng vào sự phát triển nền văn hoá
của Việt Nam hiện nay có thể thấy
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chính sách cải cách mở cửa, nền văn hoá Việt Nam hiện nay đón nhận một
luồng sinh khí mới từ khắp nơi trên thế giới. Xu hướng toàn cầu hoá không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế mà còn
tác động rất lớn đến sự phát triển của văn hoá nước ta hiện nay. Chúng ta cần phải biết tiếp thu những cái mới, tiến bộ
của nền văn hoá, văn minh thế giới để tạo tiền đề cho sự phát triển văn hoá trong tương lai. Song trong quá trình tiếp thu
phải có sự sang lọc, lựa chọn, bởi cái mới không phải cái mới lạ.
- Sự phát triển văn hoá dựa trên tiếp thu có chọn lọc từ nền văn hóa của các nước phát triển trên thế giới còn cần có cơ sở
từ nền tảng truyền thống của văn hoá Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, bởi sự phát triển phải gắn liền với sự kế thừa, phải
có nền tảng thì mới là sự phát triển đúng đắn. Chúng ta tiếp thu cái mới không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn cái cũ.
Chúng ta chỉ loại bỏ những gì là lạc hậu, cản trở cho sự phát triển và phải biết giữ gìn và tôn trọng những gì tiến bộ để
vừa mang lại sự phát triển vừa thể hiện được đặc trưng văn hoá vốn đậm đà của dân tộc Việt Nam.
Câu 6: Trình bày quan niệm của triết học Mác – Lênin về thực tiễn; những nội dung của nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm này trong việc nhận thức con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta?
Trả lời:
I. Quan niệm của triết học Mác -Lê nin về thực tiễn:
1. Phạm trù thực tiễn:
a)Quan niệm của các nhà triết học trước Mác về thực tiễn:
- Bê cơn: nhà duy vật Anh tk 18, khi đề cao vai trò của tri thức, đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết học là tìm ra con đường

nhận thức giới tự nhiên, chống chủ nghĩa kinh viện, chủ nghĩa kinh nghiệm. Nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và
thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm tra chân lí. Ông là nhà tr h đầu tiên thấy được vai trò của
thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức.
- Phoi- ơ- bắc: đã đề cập đến thực tiễn, nhưng theo ông, chỉ có lí luận mới là hoạt động chân chính của con người, còn
thực tiễn mang tính con buôn bẩn thỉu.
- Hê ghen: có một số tư tưởng hợp lí, sâu sắc về thực tiễn: Bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hóa
bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Nhưng ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng,
cho thực tiễn là một “suy lí logic”
->Các nhà tr h trước Mác cho rằng quá trình hình thành ý thức của con người mang tính thụ động, nên nhận thức luận
còn hạn chế. “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay, kể cả chủ nghĩa duy vật Phoi ơ bắc,
15


là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không
được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn” (Mac)
- Sự phát triển của khoa học thời cận đại, đặc biệt các khoa học thực nghiệm đã làm nên cuộc cách mạng trong nhận thức
luận. Theo đó, mỗi chân lí khoa học phải được chứng minh bằng thực nghiệm. Các nhà tr h trước M tuy chưa đặt ra vai
trò của thực tiễn đối với nhận thức, nhưng đã đề cập tới vai trò của thực nghiệm trong khoa học->đặt nền tảng cho quan
niệm thực tiễn của tr h M.
b) Quan niệm của triết học M- L về thực tiễn:
- Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung, khoa học tự nhiên nói riêng, cùng với hoạt động trong phong trào
đấu tranh cách mạng, M, Ă đã đưa thực tiễn vào nhận thức luận. Không những thế, còn nâng lên trình độ mới: thực
tiễn cách mạng và lí luận cách mạng.-> lí luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế
giới.
- Theo tr h M- L: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
+Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích: Hoạt động của con ng bao gồm hđ vật chất và hđ tinh thần. Hđ vc là
những hđ mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào những đối tượng vật chất nhất định nhằm cải tạo chúng
theo nhu cầu của con người. Thực tiễn là hoạt động vật chất, kết quả của nó là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật
chất và tinh thần của con người.

+ Tính lịch sử: Mỗi hoạt động của con ng đều mang tính lịch sử, cụ thể, chỉ diễn ra trong một giai đoạn nào đó. Có quá
trình hình thành, phát triển và kết thúc hoặc chuyển hóa, không có hđ thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hđ thực
tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử về đối tượng, phương tiện, mục đích hoạt động.
+ Tính xã hội: Hđ thực tiễn mặc dầu thông qua từng cá nhân, nhóm người, nhưng không thể tách rời các quan hệ xã hội.
Xã hội quy định mục đích, đối tượng, phương tiện và lực lượng trong hđ thực tiễn. >hđ th t mang tính xã hội sâu sắc,
trong cộng đồng, vì cộng đồng, do cộng đồng.
+Nhằm cải tạo tn, xh, cn: Hđ th t mang tính tất yếu, nhưng có ý thức (về kết quả, về phương pháp, đối tượng, đbiệt về
mục đích của quá trình hđ). Mục đích của hđ th t nhằm thỏa mãn nhu cầu về vc và tt của cá nhân, xh. Không có hđ nào
không có mục đích, dù kết quả của hđ th t có khi không phù hợp với mục đích của con ng.
+ 3 hình thức cơ bản của hđ th t: hđ sản xuất vc, hđ chính trị xh, hđ thực nghiệm khoa học. Hđ sx vc trực tiếp tác động
vào tự nhiên, nhằm tạo ra của cải vc. Hđ chính trị xh trực tiếp tác động vào xh, cải biến các quan hệ xh theo hướng tiến
bộ. Hđ thực nghiệm khoa học của các nhà KH
->sự phân biệt mang tính tương đối vì chúng hỗ trợ, ảnh hưởng nhau. Hđ sx vc là cơ bản nhất. Ngoài ra, còn có các hđ th
t phát sinh, đặc thù như hđ giáo dục, hđ nghệ thuật…
2. Phạm trù lí luận ( không cần học)
II. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn:
Sự thống nhất này bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Con ng luôn tác động tích cực vào
thế giới khách quan- tự nhiên và xh- cải biến nó bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con ng và
sự biến đổi th gi kh q là hai mặt thống nhất-> quy định sự thống nhất biện chứng giữa lí luận và thực tiễn
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lí luận; lí luận hình thành, phát triển phải xuất phát
từ thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn
a)Thực tiễn là cơ sở của lí luận: Những tri thức được khái quát thành lí luận là kết quả của quá trình hđ th t của con ng.
Thông qua hđ th t, kể cả thành công cũng như thất bại, con ng hình thành nên lí luận. Th t còn là cơ sở để bổ sung và điều
chỉnh những lí luận đã được khái quát.
b)
Thực tiễn là động lực của lí luận: lí luận được vận dụng để làm phương pháp cho hđ thực tiễn, mang lại lợi ích
cho con ng càng kích thích con ng tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lí luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng
16



khiến lí luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy, hoạt động của con người không bị hạn chế trong
không gian và thời gian. ->thực tiễn đã thúc đẩy khoa học mới ra đời- khoa học lí luận
c)Thực tiễn là mục đích của lí luận: Mặc dù lí luận cung cấp những tri thức khái quát về thế giới, thỏa mãn nhu cầu hiểu
biết của con ng nhưng mục đích chủ yếu của lí luận là nâng cao năng lực hoạt động của con ng trước hiện thực khách
quan, đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân, xh. Tự thân lí luận không thể tạo nên những
sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con ng. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hđ thực tiễn, nhằm biến đổi tự nhiên và xh
theo mục đích con ng -> mục đích của lí luận là phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn.
d)
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lí của lí luận: Tính chân lí của lí luận chính là sự phù hợp của lí luận với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lí luận đối với hđ th t. Mọi lí luận phải thông qua
thực tiễn để kiểm nghiệm. “ Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con ng có thể đạt đến chân lí khách quan hay không, hoàn
toàn không phải là vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lí” (Mác). Thông qua thực tiễn, những lí luận đạt đến chân lí sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại, những kết
luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lí luận; ngược lại, lí luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và
phát triển trong thực tiễn.
- Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu, hoạt động của con người chưa có lí luận chỉ đạo, song con
người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con ng khái quát thành lí luận. Từ đó, những
hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lí luận soi đường. Chính nhờ có lí luận soi đường, hoạt
động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
- Lí luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp,
biện pháp thực hiện. Lí luận còn dự báo được khả năng phát triên cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo những
rủi ro, hạn chế, thất bại có thể có trong quá trình hoạt động. Như vậy, lí luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu
quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con ng. Mặt khác, lí luận còn có vai trò
giác ngộ mục tiêu, lí tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng
trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. “ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lí luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó thâm nhập vào quần chúng” (Mác)
- Mặc dù lí luận mang tính khái quát cao, song, nó còn có tính lịch sử cụ thể. Cần phân tích tình hình cụ thể để vận dụng,
tránh máy móc, giáo điều làm sai giá trị của lí luận.

- Lí luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Mục đích của lí luận phải định hướng cho hoạt động thực tiễn về mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, giải quyết các
mối quan hệ…và định hướng mô hình của hđ thực tiễn .
- Lí luận tuy là logic của thực tiễn, song, lí luận có thể lạc hậu so với thực tiễn. Vận dụng lí luận vào thực tiễn phải bám
sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lí luận, hoặc thay đổi lí luận cho phù
hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lí luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể không, hoặc kết quả
chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lí luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lí luận chính là điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
“Thực tiễn cao hơn nhận thức ( lí luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực
tiếp” (Lê nin)
III. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng
hiện nay ở nước ta:
1/ Lí luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh
nghiệm của thực tiễn.
17


- con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa XH, bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sx và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”
- vấn đề nghiên cứu tìm tòi để luận chứng cho lí luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta vẫn đang tiếp tục và như
Đảng đánh giá: công tác lí luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng
2/.Hoạt động thực tiễn phải lấy lí luận chỉ đạo, khi vận dụng lí luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể.
- từ khi ra đời đến nay, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa M L vào điều kiện cụ thể nước ta.
- Ngày nay, coi trọng lí luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ thế giới để phát triển đất nước
trong thời đại kinh tế tri thức
- Tiếp thu những thành tựu của tư duy nhân loại trong xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, cơ chế
quản lí khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội…để dân giàu, nước mạnh, xh công bằng, văn minh.

3/Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
-là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại
khi điều kiện đã thay đổi. Tri thức kinh nghiệm thông thường là trình độ thấp của tri thức, chỉ khái quát thực tiễn trong
những điều kiện đơn giản, hạn chế, chậm biến đổi. Như nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu của nước ta bao đời, hay cơ chế
bao cấp trước đây la những nguyên nhân dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Phải hoàn thiện cơ chế thị trường định
hướng XHCN, đòi hỏi mọi thành phần kinh tế phải năng động, sáng tạo, bám sát thị trường để chủ động ứng phó.-> khắc
phục triệt để
- trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hóa lí luận, kiến thức sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực tiễn,
vận dụng lí luận máy móc, không tính toán đến điều kiện lịch sử - cụ thể ở mỗi nơi, mỗi lúc. Biểu hiện là tầm chương,
trích cú, bỏ qua sự vận động của thực tiễn cũng như bản thân lí luận, coi chân lí đã được hình thành là bất di bất dịch,
không hiểu tính cụ thể, tương đối, tuyệt đối của chân lí. Chỉ dựa vào câu chữ mà không hiểu bản chất đích thực, vận dụng
máy móc kinh nghiệm của nước khác, nơi khác, ví như ta đã vận dụng máy móc mô hình của Liên Xô trước đây.
Nguyên nhân của bệnh giáo điều là hiểu lí luận nông cạn, lí luận xa rời thực tiễn, lí luận suông. Mặt khác, do tính tập
trung hóa trong cả lĩnh vực lí luận làm mất đi sự sáng tạo, sinh động của lí luận, tạo thành đường mòn trong tư duy của
cán bộ, kể cả cán bộ khoa học, Những gì trên chưa quyết thì chưa dám, thì phủ quyết khiến cán bộ rơi vào giáo điều. Thứ
nữa, do vận dụng sai lí luận vào thực tiễn, thiếu linh hoạt khi vận dụng cái chung vào cái riêng, không bổ sung, điều
chỉnh lí luận mà chỉ trích dẫn suông-> lí luận chưa phát huy vai trò tiên phong, định hướng, chưa trở thành phương pháp
luận cho thực tiễn-> nguy hại lớn, gây mất lòng tin đối với lí luận, với chủ nghĩa M và đường lối của Đảng. Là căn
nguyên sụp đổ một số nước XHCN và khủng hoảng niềm tin với chủ nghĩa M L-> khắc phục: phải thống nhất giứa lí
luận và thực tiễn – chính là một nội dung cơ bản của triết học M L.
Câu 7 : Hãy phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất? Vận dụng quy luật này luận chứng tính tất yêu của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?
Trả lời:
1.
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất: LLSX của xã hội bao gồm con người lao đông và những tư liệu sản xuất con người sử dụng để
sản xuất của cải vật chất. Trong LLSX thì lao động là yếu tố chủ thể giữ vai trò quyết định. Tư liệu sản xuất là yếu tố
khách thể, giữ vai trọng quan trọng trong quá trình sản xuất.

18


+ LLSX của xã hội phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người. LLSX được biểu thị ở trình độ lao động của
con người ngày càng được nâng cao và tính chất của tư liệu sản xuất ngày càng tiên tiến.
- Quan hệ sản xuất: QHSX là quan hệ kinh tế nảy sinh giữa con người với con người trong quá trình sản xuất của cải
vật chất. Quan hệ sản xuất được thể hiện ở 3 mặt:
+ QH sở hữu đối với tư liệu sản xuất
+ QH trong việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất
+ QH trong việc phân phối kết quả sản xuất
QHSX thể hiện ở 4 khâu trong quá trình tái sản xuất: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dung
- Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, QHSX không tách rời LLSX. C.Mác chỉ ra: những QHSX này phù hợp với 1 trình
độ phát triển nhất định của các LLSX vật chất. Sự thống nhất giữa LLSX và QHSX tạo thành 1 phương thức sản xuất
nhất định
+ Phương thức sản xuất xã hội: là sự kết hợp của 2 mặt giữa LLSX của xã hội và QHSX xã hội. Trong phương thức
sản xuất thì LLSX là nội dung bên trong còn QHSX là hình thức biểu hiện bên ngoài của phương thức sản xuất.
+ Giữa LLSX và QHSX có 1 mối quan hệ biện chứng rõ ràng và phụ thuộc. Mác gọi đó là quy luật sản xuất phải luôn
luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.
- QHSX và LLSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong phương thức sản xuất nhất
định.
+ Trong 2 mặt đó, LLSX là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát triển
+ QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn định.
+ Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa 2 mặt đó tạo thành quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển của
LLSX -> quy luật bản chất của sự vận động, phát triển xã hội.
- Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao
động.
+ Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX. Trình độ của LLSX biểu hiện ở trình độ công cụ lao
động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ
+ Gắn liền với trình độ của LLSX là tính chất của LLSX: Khi LLSX là công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém
phát triển thì LLSX có tính chất cá nhân; khi LLSX đạt tới trỉnh độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển

thì LLSX có tính chất xã hội hóa
- Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định QHSX, làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó.
+ Khi 1 phương thức sản xuất mới ra đời, sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là trạng thái mà
trong đó, QHSX là hình thức phát triển của LLSX. QHSX tạo điều kiện sự dụng và kết hợp 1 cách tối ưu giữa người lao
động với tư liệu sản xuất -> thúc đẩy LLSX phất triển.
+ Sự phát triển của LLSX đến 1 trình độ nhất định lại làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự
phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX kìm hãm LLSX phát triển.
+ Yêu cầu khách quan của sự phát triển của LLSX tất yếu sẽ dẫn đến thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển.
- LLSX quyết định QHSX nhưng QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của LLSX.
+ QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến phân công
lao dộng và tác động đến sự phát triển của LLSX
+ QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc đẩy LLSX phát triển. QHSX lỗi thời, lạc hậu so
với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX, từ đó dẫn đến QHSX cũ được thay thế bằng QHSX
mới phù hợp với trình độ của LLSX để thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến, cơ bản của xã hội, chi phối sự
vận động phát triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
19


2. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ LLSX và tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN nước ta hiện nay.
- Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX nói lên rằng nền sản xuất của xã hội chỉ có thể được phát
triển trên cơ sở QHSX phải phù hợp với LLSX, cho nên hiểu và vận dụng đúng quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển sản xuất.
- Lý luận hình thái kinh tế xã hội còn chỉ ra sự phát triển của LLSX phải gắn liền với việc xác lập QHSX phù hợp trên cả
3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Nước ta chủ trương sử dụng nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, đồng thời thực hiện phát triền nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế thị trường là kết quả của
sự phát triển LLSX đến 1 trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình
thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là 1 động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển.

+ Trước đây chúng ta chưa nhận thức và vận dụng đúng quy luật này thể hiện xây dựng QHSX quá cao quá xa so với
tính chất và trình độ của LLSX chưa quan tâm chú ý đầy đủ đến các mặt QHSX.
+ Nước ta hiện nay đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội nên LLSX vẫn còn ở trình độ thấp, tính chất của công
cụ sản xuất là thủ công và nửa cơ khí, nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ nên Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới.
Chúng ta khẳng định:
Đa dạng hóa các hình thức sở hữu.
Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo hiệu quả lao động theo tài sản và vốn đónggóp...
- Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với những việc làm trên chúng đã tạo ra sự phù hợp của QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. –
+ Mỗi hình thái kinh tế xã hội có 1 LLSX, cơ sở vật chất của nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có cơ sợ vật chất kĩ thuật
hiện đại.
+ Nước ta tiến lên CNXH từ 1 nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái thiếu thốn nhất là
chúng ta chưa có nền đại công nghiệp. Do đó, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng cơ
sơ vật chất cho CNXH.
* Một số khái niệm sơ lược về phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
- Phương thức sản xuất là cách thức mà con người sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Một
mặt thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mặt khác thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người
tronng sản xuất.
Nói một cách khác, phương thức sản xuất - cách thức mà con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
- Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bao gồm nhiều yếu tố cấu thành và các yếu tố
đó có liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó người lao động là yếu tố quyết định.
Người lao động trước hết phải có nhu cầu lao động và nhu cầu sinh sống, có thể lực và trí lực để lao động sản xuất, có tư
liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động).
Lực lượng sản xuất mang tính khách quan, mang tính xã hội lịch sử.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Bao gồm:
1. Quan hệ giữa người - người trong việc sở hữu tư liệu sản xuất
2. Quan hệ giữa người - người trong việc tổ chức lao động xã hội
3. Quan hệ giữa người - người trong việc phân công, phân phối sản phẩm.

Đây là mối quan hệ, liên hệ tất yếu được tạo nên trong quá trình sản xuất, vì trong sản xuất, lao động người ta liên hệ với
nhau và do khác nhau về năng lực lao động, về vai trò mà người ta thiết lập các mối quan hệ. Những mối quan hệ này
mang tính khách quan và tính chất xã hội, lịch sử.
* Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất:
20


-Sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ mang tính chất biện chứng.
Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội - quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
-Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất. Nhưng lực lượng sản
xuất chỉ có thể phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý, khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày
càng gay gắt thì đòi hỏi phải có một sự thay đổi cho phù hợp để phát triển  đây chính là tác động trở lại của quan hệ
sản xuất tới lực lượng sản xuất.
( Ghi chú: phần này cần nêu bật được tính chất của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
và tác động ngược lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất).
- Tính chất của lực lượng sản xuất:
Ph.Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau.
Tính chất của lực lượng sản xuất: Là tính cá thể hay tính xã hội của lao động hay công cụ lao động, nghĩa là lao động và
công cụ lao động được tạo ra, được sử dụng bởi các cá nhân riêng biệt hay bởi xã hội. Yếu tố quan trọng của lực lượng
sản xuất là trình độ.
/Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá
trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Người lao động làm chủ được sức
mạnh của mình, nắm được quy luật, biến đổi đối tượng sản xuất thành những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của con
người.
/Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện rõ nhất ở việc tạo ra những công cụ lao động mới. Vì vậy có thể căn cứ vào
công cụ lao động mà hiểu được trình độ sản xuất. Phân công lao động càng cao thì trình độ lao động càng cao.
-Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức, nội dung bao giờ cũng
quyết định hình thức.

Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, yếu tố cách mạng vì:
+ Trong sản xuất, người ta không ngừng tích lũy tri thức và kinh nghiệm và không ngừng phát hiện ra những đặc tính
mới của đối tượng và phát hiện ra những đối tượng lao động mới.
Mặt khác trong quá trình sản xuất, nhu cầu của con người cũng không ngừng tăng lên  dẫn đến cải tiến không ngừng
các công cụ lao động và phát minh ra các công cụ lao động mới. Trong khi đó quan hệ sản xuất có xu hướng bảo thủ, nó
được thiết lập và giữ gìn.
+ Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng: Vì khi lực lượng sản xuất mới ra đời nó sẽ xung đột với các quan hệ sản
xuất cũ. Và những xung đột ấy ngày càng gay gắt dẫn tới quan hệ sản xuất cũ bị phá hủy --> quan hệ sản xuất mới ra đời
thay thế nó mởi đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Sự thay đổi của phương thức sản xuất không phải bắt nguồn của quan hệ sản xuất mà nguyên nhân sâu xa của sự thay
đổi phương thức sản xuất là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự xuất hiện của những yếu tố mới của lực lượng
sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động mới đã qui định những hình thức quan hệ sản xuất tương ứng.
-- Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất là một hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất, có nghĩa là bất cứ một lực lượng sản xuất nào
cũng chỉ có thể phát triển ở trong một quan hệ sản xuất nhất định, không có lực lượng sản xuất thuần túy tồn tại.
Quan hệ sản xuất tác động đến lực lượng sản xuất có thể thúc đẩy hay kìm hãm: thúc đẩy khi quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ sản xuất, kìm hãm khi có sự mâu thuẫn.
 Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan
hệ sản xuất là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành
quan hệ sản xuất “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển (C. Mac và Angghen toàn tập). Khi các yếu tố
21


của lực lượng sản xuất như người lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động và ngày nay là những thành tựu của
khoa học công nghệ.
+ Quan hệ sản xuất có thể kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Sự
không phù hợp nghĩa là khi các yếu tố của lực lượng sản xuất không được đặt đúng vai trò của chúng. Do đó chúng
không phát huy được vai trò tạo nên tính trì trệ. Quan hệ sản xuất mặc dù thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất
nhưng không đóng vai trò quyết định. Quan hệ sản xuất sớm hay muộn sẽ bị thay thế bởi một quan hệ mới cao hơn.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất

 Trạng thái mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ xuất hiện, thay thế cho trạng thái phù hợp, khi
tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển chuyển sang một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất phát triển
chuyển sang một trình độ mới với tính chất xã hội hóa ở mức cao hơn. Sự mâu thuẫn sẽ phát triển đến một mức độ thay
thế bằng một kiểu quan hệ mới, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đỏi, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển đi lên của lịch sử xã hội loài người từ chế độ công xã nguyên
thủy qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
* Sự vận dụng quy luật này ở nước hiện nay:
- Trước năm 1986: Vào khoảng thời gian cuối những năm 70 và đầu 80 nền kinh tế của chúng ta rơi vào sự đình đốn, trì
trệ, không phát triển, năng suất năng suất năng suất lao động rất thấp, tình trạng thiếu lương thực triền miên. Người lao
động cảm thấy phấn khởi, hăng say trong lao động, làm ăn thì giả dối, bớt xén.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do chúng ta không tuân theo quy luật khách quan, không thấy
được và không vận dụng được quy luật khách quan, nhất là trình độ của lực lượng sản xuất.
Trình độ lao động sản xuất của nước ta có rất nhiều cấp độ chủ yếu là lao động thủ công. Trong đó có sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể --> quan hệ sản xuất không phù hợp, dẫn đến kinh tế kém phát triển.
- Đầu năm 80, những nhân tố mới của lực lượng sản xuất bắt đầu xuất hiện: ở những vùng xin ra khỏi hợp tác xã, khoán
sản phẩm cho người lao động.
Năm 1986, Đại hội Đảng lần 6 đã mở đường khởi xướng cho sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã thấy được tầm quan trọng
của quy luật khách quan. Quan trọng nhất là đổi mới tư duy, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, từ chỗ không tôn
trọng quy luật của quy luật khách quan. Chúng ta đã chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh
tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó có cả sở hữu tư bản, tư nhân, cá thể.
Nhờ vận dụng quy luật này, nên nền kinh tế của chúng ta trở nên năng động, người lao động phấn khởi, hăng say lao
động sản xuất --> vì lợi nhuận, lợi ích và năng suất lao động ngày càng cao, và mức tăng trưởng kinh tế từ 5% - 10%. Từ
một nước phải nhập khẩu lương thực chúng ta trở thành nước thứ 2 trên thế giới xuất khẩu lương thực lớn nhất.
- Hiện nay khi VN đã ra nhập WTO, khi nền kinh tế đất nước đã hội nhập thế giới đòi hỏi việc vận dụng quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất ngày càng linh hoạt hơn nữa để tận dụng được nhiều cơ hội
và vượt qua những thách thức…giúp nền kinh tế quốc gia phát triển.

Câu 8 : Hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội? Vận dụng mối
quan hệ này để phân tích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển xã hội ở nước ta và
luận chứng cho tính tất yếu cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
Trả lời:
I. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc thượng tầng (KTTT)
*Khái niệm:
22


- Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ
cấu kinh tế của xã hội đó.
- Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền. đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng những
thiết chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,… được hình thành trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
*Mối quan hệ biện chứng:
1. Csht quyết định kttt:
- csht nào thì hình thành kttt ấy. Quan hệ vật chất là quan hệ đầu tiên, cơ bản quy định các quan hệ tinh thần (qhệ chính
trị, qhệ pháp quyền,…) Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng sẽ quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực tinh thần.
Giải thích một hiện tượng nào của kttt thì phải dựa vào csht
- csht thay đổi thì sớm hay muộn kttt cũng thay đổi
- csht có ảnh hưởng đến sự thay đổi của các yếu tố trong kttt là khác nhau: Có yếu tố thay đổi nhanh, rất chậm, kế thừa
- khi csht cũ mất đi thì kttt do nó sinh ra cũng dần mất đi và từng bước được thay thế bởi 1 kttt mới phù hợp hơn. Trong
xã hội có giai cấp, sự biến đổi này phải thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội.
Vd: csht cũa xhội pkiến thay đổi, chuyển sang xhội tư bản chủ nghĩa thì:
+ chính trị, pháp quyền sẽ thay dổi nhanh chóng so với các yếu tố khác của kttt
+Triết học, quan điểm đạo đức, nghệ thuật thay đổi chậm hơn
+các quan điểm, tư tưởng tôn giáo vẫn đc kế thừa
(từ 1 đến 6 là thứ tự thay đối chậm dần)
Kiến trúc thượng tầng


Sở

1.chính trị
2.pháp quyền


3.triết học

Hạ

4.đạo đức

Tầng

5.nghệ thuật
6.tôn giáo

Đây là 1 sự thay đổi biện chứng, phát triển của các yếu tố trong kttt
2.KTTT tác động trở lại CSHT
- kttt bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển csht đã sinh ra nó. Trong xã hội có giai cấp, kttt bảo đảm sự thống trị chính trị
và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
- sự tác động của kttt đối với csht theo 2 hướng:
+tích cực: Nếu kttt tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển.
+tiêu cực: nếu kttt tác động ngược chiều với các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm kinh tế phát triển
- Mỗi lĩnh vực của kttt ảnh hưởng đến csht cũng khác nhau, tác động = những phương thức khác nhau: trực tiếp, gián tiếp
- Những yếu tố của kttt phản ánh csht, có thể là sự kế thừa những yếu tố của kttt cũ và có thể tác động lẫn nhau theo
những phương thức riêng.
=>Kết luận: Cần có quan điểm biện chứng trong việc đánh giá vai trò của csht và kttt, ko tuyệt đối hóa tính quyết định
của csht với kttt, cũng ko cường điệu hóa tác động trở lại của kttt tới csht, nếu ko sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm lịch sử.

II. Vận dụng mối quan hệ này vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách nền hành chính quốc gia ở nước
ta hiện nay…..???
1.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
23


Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng
với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên cơ
sở hạ tầng nhất định.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội, chúng thống nhất biện chứng
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; song kiến trúc thượng tầng
cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là nền tảng của kiến trúc thượng tầng. Mọi kiến trúc thượng tầng đều hình thành, phát triển trên nền tảng
của cơ sở hạ tầng, không thể tồn tại tự nó. Lực lượng nào thống trị trong cơ sở hạ tầng tức là thống trị về kinh tế, thì tất
nhiên là lực lượng thống trị về tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn hoặc sự thống nhất trong cơ sở hạ tầng tất nhiên quy định
mâu thuẫn hoặc thống nhất trên lĩnh vực kiến trúc thượng tầng.
Những thay đổi của cơ sở hạ tầng tất nhiên đưa đến những thay đổi kiến trúc thượng tầng. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng thực ra là phản ánh xung đột lợi ích trong cơ sở hạ tầng.
Sự quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng đòi hỏi giải thích những hiện tượng của kiến trúc thượng
tầng phải dựa vào cơ sở hạ tầng, xuất phát từ cơ sở hạ tầng chứ không thể chỉ căn cứ vào bản thân những hiện tượng đó.
*Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng là mặt hợp thành tất nhiên của hệ thống quan hệ xã hội. Những quan hệ sản xuất vật chất của xã
hội không thể tồn tại, phát triển và tác động ở bên ngoài những quan hệ tinh thần.
Kiến trúc thượng tầng chính là sự ý thức được của xã hội về sự cần thiết phải tác động một cách có ý thức lên những
quan hệ hay những sinh hoạt vật chẩt của xã hội.
Kiến trúc thượng tầng làm chức năng bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất. bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất và những lợi
ích gắn liền với nó. Ở đây phải kể đến vai trò quan trọng đặc biệt của nhà nước với những thành phần của nó như là quân

đội, cảnh sát, nhà tù là những công cụ, phương tiện vật chất để đảm bảo tính pháp lý của chế độ sở hữu tư liệu sản xuất.
Mỗi yếu tố, mỗi lĩnh vực của kiến trúc thượng tầng ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng một cách khác nhau. Chính trị ảnh
hưởng đến kinh tế khác với triết học và khác với tôn giáo, đạo đức… Như vậy không thể tách bỏ tuỳ tiện bất cứ một lĩnh
vực nào của đời sống tin thần ra khỏi sinh hoạt kinh tế. Tuy nhiên tất cả những lĩnh vực khác nhau của kiến trúc thượng
tầng tác động đến cơ sở hạ tầng đều phải trực tiếp hay gián tiếp thông qua chính trị, pháp lý là những lĩnh vực có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng, đồng thời quy định sự tác động của các yếu tố khác nhau của kiến trúc
thượng tầng.
Sự biến đổi, phát triển của các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối của chúng. Chúng vừa kế
thừa những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ, vừa phản ánh và tác động đến cơ sở hạ tầng, vừa tác động lẫn nhau theo
những phương thức riêng của chung, không phải bao giờ cũng phụ thuộc trực tiếp vào cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên tồn tại và
tác động đó của kiến trúc thượng tầng chỉ mang tính độc lập tương đối, nó không thể tách hoàn toàn khỏi cơ sở hạ tầng,
2.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội để phân tích vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự phát triển xã hội ở nước ta
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau – đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu
hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta.
Về mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đề ra là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta chỉ rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
24


kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
-Bên cạnh đó, Đảng ta còn chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một lực lượng sản xuất của nó hay nói cách
khác, có một cơ sở vật chất kỹ thuật của nó. Để có chủ nghĩa xã hội phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc cách

mạng khoa học và công nghệ mang lại.
Song, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái
thiếu thốn nhất của chúng ta chính là chưa có nền đại công nghiệp.Vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá.
- Đảng ta nhấn mạnh việc phải kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay nằm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phát triển còn thấp
kém. Đó là một cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều thành phần. Tính chất đa dạng của các quan hệ sản xuất chồng chéo, đan
xen vào nhau tạo nên tính chất nhiều mặt của cơ sở hạ tầng nước ta.
Câu 9 : Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp, dân tộc, nhân loại và
sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay?
Trả lời:
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và dân tộc:
1. Định nghĩa giai cấp:
Lênin: “Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của họ trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do
chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”
2. Định nghĩa dân tộc và 4 đặc trưng quan trọng chủ yếu:
- Dân tộc(quốc gia dân tộc) là hình thức cộng đồng người ổn định, bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên
cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh tế và về căn hoá biểu hiện trong tâm lí, tính cách.
- 4 đặc trưng:
+ Cộng đồng về ngôn ngữ: có chung phương tiện giao tiếp
+ Cộng đồng về lãnh thổ
+ Cộng đồng về kinh tế: một thị trường thống nhất để thực hiện các hoạt động kinh tế
+ Cộng đồng về văn hoá, về tâm lí, tính cách.
3. Quan điểm của CN Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc:
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thay thế được cho nhau, nhưng cũng không
tách rời nhau.

- Một dân tộc bao giờ cũng gồm các giai cấp khác nhau gồm: giai cấp cơ bản (sản phẩm trực tiếp của phương thức sản
xuất thống trị), giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian. Giai cấp cơ bản giữ địa vị thống trị quyết định tính chất,
xu hướng, phát triển của dân tộc và mối quan hệ cơ bản giữa các dân tộc.
Tuy nhiên, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp không đồng nhất hoàn toàn với nhau. Lợi ích dân tộc hình thành khách
quan trong lịch sử, các giai cấp, tầng lớp xã hội trong dân tộc không đi theo giai cấp thống trị một cách mù quáng. Khi
giai cấp thống trị còn là giai cấp cách mạng, lợi ích của nó phù hợp với lợi ích chung của dân tộc thì các giai cấp và tầng
lớp xã hội sẽ đi theo giai cấp thống trị. Và ngược lại, khi giai cấp thống trị đã trở nên phản động thì nó thường đi ngược
25


×