Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Khủng hoảng nợ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.59 KB, 58 trang )

Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
......................................................................................
MỤC LỤC



1


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TPCP
DNNN
VN
NHNN
WB
IMF
GDP
NBER
EU

Trái phiếu Chính Phủ
Doanh nghiệp Nhà nước
Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Thế giới
Quỹ tiền tệ Quốc tế
Tổng sản phẩm quốc dân
Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ
Liên minh Châu Âu

2



Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

LỜI MỞ ĐẦU
-------Ngày 07/11/2006, Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Hoạt động kinh tế đối ngoại tiến bộ rõ rệt. 7
năm qua, kinh tế vĩ mô Việt Nam cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng, tiềm
lực và quy mô kinh tế tăng lên. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước kém phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, toàn cầu hóa còn có những hạn
chế tiềm ẩn không ít rủi ro, một biến cố xảy đến với quốc gia. Một trong những biểu
hiện rõ nét và đặc trưng nhất của mặt hạn chế này, ta không thể không kể tới sức công
phá và lan tỏa dữ dội của các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới – một tất yếu khách
quan gây nhiễu động kinh tế toàn cầu.
Nếu như năm 2008 đánh dấu một mốc đen tối trong lịch sử kinh tế của hầu khắp
các quốc gia trên thế giới với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát từ
“bong bóng thị trường bất động sản Mỹ”. Khủng hoảng nợ công châu Âu bùng nổ
trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh chóng lan rộng
sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU, tiếp đến là các nền kinh tế lớn nhỏ
khác nhau trên thế giới, báo hiệu nguy cơ trở thành vấn nạn nhức nhối trong thời gian
kéo dài.
Từ đầu năm 2010 đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vô vàn thông tin về tình
hình nợ công của các nước châu Âu, những gói cứu trợ khẩn cấp từ nhiều tổ chức kinh
tế khác nhau như IMF, ECB,…để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ. Thêm
vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng hoảng của nhiều khu vực kinh tế
hiện nay, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả
năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu.
Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong
vòng xoáy nợ công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh
tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia,

trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về nợ công và biện pháp quản lý
nợ công ở Việt Nam là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời
điểm hiện tại.

3


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

Đây là đề tài khá rộng và có tính bao quát cao. Do đó, với kiến thức hạn hẹp
của Nhóm 1 – K23, chúng em trình bày một số hiểu biết khái quát về những vấn
đề sau:
Phần 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công.
Phần 2: Khủng hoảng nợ công và tác động của nó đến tình hình tài chính tiền tệ ở
2 nước điển hình là Hy Lạp và Ireland.
Phần 3: Thực trạng nợ công ở Việt Nam và giải pháp.
Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, bài
làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như còn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm rõ. Nhóm
thực hiện kính mong nhận được sự thông cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi
tích cực từ thầy cô và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Mong thầy và các
bạn nghiên cứu và góp ý để bài tiểu luận thêm phần hoàn thiện và góp chút kiến
thức cho hành trang tri thức của các bạn đồng hành.

4


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

PHẦN 1: NỢ CÔNG VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
1.1. Nợ công

1.1.1. Khái niệm
 Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau về nợ
công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc gia.
 Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB), nợ công là toàn bộ những khoản
nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
 Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ
và các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị
trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các DNNN.
 Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước
ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
 Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của
khu vực tài chính công và nợ của khu vực phi tài chính công. Trong đó:
 Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương,
các tổ chức tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín
dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển)
 Khu vực phi tài chính công gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa
phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.
 Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 , nợ công bao
gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền
địa phương. Xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất
giữa: “Nợ chính phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là
một trong ba yếu tố cấu thành nên nợ công.
 Nhận xét: Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về
cơ bản, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó và có những đặc trưng sau đây:
5


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công


 Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
 Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền
 Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển
kinh tế – xã hội vì lợi ích chung
1.1.2. Phân loại
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ công có thể được chia thành
nhiều bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau. Sau
đây là ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với các khoản nợ
công của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu: của quốc gia đó.
 Phân loại theo nguồn vay nợ:
 Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước
 Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính toán giá trị nợ công ở một số nước,
trong đó có VN, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước ngoài mà
mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa đổi; bởi
lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả không chính xác cho giá trị nợ công
của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp
thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách
ứng phó kịp thời và hợp lý.
 Phân loại theo chủ thể nợ:
 Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do NHNN VN
phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
 Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát
hành.


6


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ công bao gồm
khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế trong và ngoài nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.
 Phân loại dựa vào thời hạn nợ:
 Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
 Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
 Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.
1.1.3.Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công
 Các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm:
 Nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP);
 Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP;
 Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu;
 Nợ chính phủ so với GDP;
 Nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước;
 Nghĩa vụ nợ chính phủ so với thu ngân sách nhà nước;
 Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu ngân sách nhà nước;
 Hạn mức vay thương mại nước ngoài và bảo lãnh vay nước ngoài của
Chính phủ.
Thông thường người ta sử dụng chỉ tiêu nợ công so với tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) để xác định tình trạng nợ công của một quốc gia.
 Ngưỡng an toàn của nợ công:
Theo công trình nghiên cứu năm 2010 của Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc
gia Mỹ (NBER), được khảo sát trên 44 quốc gia, cho ra kết quả: khi tỷ lệ
nợ/GDP vượt ngưỡng 90% thì nó tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế và làm

giảm đi 4% trong tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó. Đặc biệt, đối với các
nền kinh tế mới nổi như VN thì ngưỡng nợ/GDP là 60%, tỷ lệ nợ vượt quá
ngưỡng này sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 2%.
1.1.4.Vai trò, ý nghĩa của nợ công
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
 Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn
vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của
Nhà nước. VN đang trong giai đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó cơ sở hạ tầng là yếu
tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng
và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ

7


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ
sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
 Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi
trong dân cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm,
thông qua việc Nhà nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này
được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn
khu vực tư.
 Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế –
ngoại giao quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến
các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Nếu
VN biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn
ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích

nước bạn, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất
quán của Đảng và Nhà nước.
“Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác
động tiêu cực nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ
các khoản tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ
công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu
cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công.“1
1.2. Khủng hoảng nợ công
1.2.1.Thế nào là khủng hoảng nợ công?
 Cũng giống như tình trạng đa khái niệm của nợ công, tùy thuộc vào từng
góc độ nhìn nhận và đánh giá sự kiện, khủng hoảng nợ công được cắt
nghĩa theo các cơ sở khác nhau. Hiểu một cách khái quát nhất :Khủng
hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền
kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi
nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông
qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,
… để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho
1 Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số tháng 8/2011

8


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và
ngày càng chồng chất thêm.
 Tham khảo theo IMF, một quốc gia được xác nhận lâm vào khủng hoảng
nợ nếu nó được tổ chức Standard & Poor’s liệt vào danh sách các nước
không có khả năng hoàn trả nợ hoặc phải xin vay từ IMF một khoản lớn
(vượt quá 100% hạn mức tín dụng đề ra) để tài trợ cho khoản nợ nói trên.

Ở đây, tiêu chuẩn được đưa ra để Standard and Poor’s xác định một quốc
gia là không có khả năng hoàn trả nợ là việc chính phủ của quốc gia đó
không thể thanh toán đủ gốc hoặc tiền lãi cho các khoản nợ nước ngoài vào
ngày đáo hạn hoặc trong thời gian ân hạn quy định (bao gồm các khoản
phát sinh trong nghiệp vụ thanh toán nợ bằng hối phiếu, nghiệp vụ SWAPs
tài sản nợ, …). Như vậy, tình hình vay nợ bất thường với quy mô lớn tại
IMF là một trong những dấu hiệu báo trước cho những bất ổn trong tình
trạng nợ công của một quốc gia, có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng
nhanh chóng
1.2.2. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng khủng hoảng nợ công:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nợ nần, ở mỗi nước và tuỳ từng thời kỳ lại
có các nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công hiện nay ở nhiều nước đều
có chung một số nguyên nhân cơ bản sau:
 Đầu tiên phải kể đến, việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước,
lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước ở các cấp có xu hướng
ngày càng phình to, các chương trình kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, y
tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng không ngừng tăng
…. Đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn
cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
 Chính phủ không minh bạch các số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên bức
tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách của quốc gia. Thêm vào đó là
sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt
chẽ, thậm chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước.
(điển hình Hy Lạp)
 Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí
một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau
như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc
loại bỏ phù hợp với các quy định của WTO và các thoả thuận thương mại
9



Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

khác mà các quốc gia tham gia vào. Trong khi đó, vấn đề quản lý các
nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít khó khăn ở nhiều nước do tình
trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không
nghiêm của các cơ quan chức năng.
 Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ
tràn lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán...với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa
chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại
tệ dồi dào và cả... vay nợ nữa. (điển hình Argentina)
 Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của
một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành
bong bóng. Mặt khác Chính phủ đã lựa chọn bao cấp các ngân hàng này
khi họ bị thua lỗ. (điển hình Ireland)
 Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp đồng nghĩa với việc thâm hụt ngân sách
của quốc gia sẽ khó có thể bù đắp bằng các nguồn vốn nội địa và phải đi
vay vốn từ nước ngoài.
1.2.3. Tác động của khủng hoảng nợ công đến tài chính tiền tệ:
Giá TP

CÁN CÂN NGÂN SÁCH THÂM HỤT
Huy
động
vốn

↓ Chi tiêu
↑ Thuế


In tiền

Thất nghiệp ↑

Nợ/GDP ↑

Đầu tư ↓

Đầu tư gián tiếp
(chứng khoán) ↓

Phát hành
Trái Phiếu

Lãi suất TP ↑

Lạm phát ↑

GDP ↓

 Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số sau:

10


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Cán cân ngân sách thâm hụt
 Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng
 Lạm phát tăng.

 Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm.
 Thất nghiệp tăng
 Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, Chính phủ cần huy
động để trả nợ buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái
phiếu, vay mượn ở ngân hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước
khác, từ các tổ chức quốc tế như IMF...hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt
ngân sách bên cạnh đó phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để
giảm chi tiêu. Việc phát hành thêm TPCP thì giá TPCP giảm, lãi suất trái
phiếu tăng vì chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được
người mua.
 Khi cán cân ngân sách thâm hụt, ngân hàng trung ương sẽ tài trợ thâm hụt
bằng cách phát hành thêm tiền làm tăng khối cung tiền gây ra áp lực lạm
phát.
 Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp,
kìm hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng
trưởng GDP giảm sút  chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu
tư sẽ dẫn đến tình trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng.
 Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người
dân và của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền
quốc gia sụt giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn
trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm.
1.2.4. Giải pháp quản lý nợ công nhằm khắc phục khủng hoảng nợ công
Theo hướng dẫn quản lý nợ công của IMF/WB-2001 chỉ rõ: “mục tiêu của quản
lý nợ công là đảm bảo nhu cầu tài chính của chính phủ được đáp ứng với chi phí thấp
nhất trong trung và dài hạn phù hợp với mức độ rủi ro”. Thông qua chính sách và kế
hoạch phát triển riêng của từng quốc gia, mục tiêu này đã được cụ thể hóa, thể hiện
thông qua các nội dung chủ yếu trong quản lý nợ công, bao gồm:
 Bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với vấn đề cơ cấu, quy
mô và sử dụng nợ công.
 Nâng cao và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về nợ công

 Xây dựng các chiến lược quản lý nợ cụ thể và hiệu quả.
 Xây dựng các mô mình quản lý rủi ro trong hoạt động quản lý nợ.
 Đề xuất và thực thi phát triển thị trường chứng khoán Chính phủ
11


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

PHẦN 2: KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HYLẠP VÀ IRELAND
2.1. HyLạp
2.1.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cuối năm 2009 đến 2010
 Ngày 20/10/2009 thủ tướng mới của đảng xã hội Hi Lạp, ông George A.
Papandreou, thông báo rằng người tiền nhiệm của ông đã che dấu tình trạng
thâm hụt ngân sách khổng lồ mà nước này đang mắc phải thâm hụt ngân
sách chính phủ của nước này là 12,7% GDP, chứ không phải 3,7% như
chính phủ tiền nhiệm dự báo trước đó.
Biểu đồ 1: Thâm hụt ngân sách chính phủ HyLạp trên GDP 2
 Ngày 3/11/2009, Ủy ban Châu Âu (EC) dự báo mức thâm hụt ngân sách của
Hy Lạp là 12,7% trong năm 2009 và 12,2% trong 2010. Ngay sau đó, nhiều
dự báo được cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức 113,4% GDP
năm 2009 lên 121-125% GDP trong năm 2010.

Biểu đồ 2: Nợ công trên GDP 3
 Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên
thị trương tài chính. Ngày 7/12/2009 S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm Avà đến ngày 16/12/2009 xuống còn BBB-; Fitch đánh tụt điểm số của nền
kinh tế này từ A- xuống còn BBB+. Mất niềm tin của các nhà đầu tư, TPCP
Hy Lạp liên tục phải nâng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế.
Biểu đồ 3: Lãi suất trái phiếu chính phủ 4

2

3
4

12


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Trước sức ép của liên minh EU khi yêu cầu Hy Lạp phải có biện pháp đưa
thâm hụt ngân sách về mức 3% GDP đến năm 2012, đầu năm 2010 chính
phủ Hy Lạp đã đưa ra nhiều biện pháp để giảm bội chi ngân sách về 8,7%
GDP trong năm 2010 như: cắt giảm ngân sách cho quốc phòng, y tế, giảm
quỹ hưu trí, lương, thưởng tại khu vực công, ban hành một số sắc thuế mới
về nhập khẩu… Tuy nhiên, những nỗ lực và hứa hẹn về chính sách khắc
phục của chính phủ Hy Lạp đã không thể giúp cải thiện tình hình nợ công
của Hy Lạp mà liên tục bất ổn bởi làn sóng phản đối của người dân.
 Trước tình hình đó, Châu Âu không thể để Hy Lạp vỡ nợ bởi những hệ lụy
đổ vỡ hệ thống ngân hàng, mất khu vực đồng tiền chung và kéo theo nhiều
quốc gia khác rơi vào hiệu ứng domino. Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo
EuroZone và IMF công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ Euro
dành cho Hy Lạp. Đây là thời điểm đánh dấu sự bất lực của chính phủ Hy
Lạp trước khả năng kiểm soát nợ công.
2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Hy Lạp:
2.1.2.1. Tham nhũng, hối lộ, trốn thuế có hệ thống
 Tham nhũng là một vấn đề nan giải ở rất nhiều quốc gia, dù là một nước
phát triển hay đang phát triển. Tại Hy Lạp, nhiều năm qua, các quan chức,
chính trị gia liên tục phải từ chức vì liên quan đến tham nhũng, nhận hối lộ.
Nhưng, cho đến nay, rất ít người bị xét xử và kết án vì tội danh tham nhũng.
Chính điều này đã khiến người ta nghĩ đến một điều luật “bất thành văn”,
đó là việc, các quan chức tham nhũng, nhận hối lộ rất mạnh tay, nhưng đến

khi bị cơ quan điều tra phát hiện thì lại rất nhanh chóng tuyên bố từ chức,
và theo Luật của Hy Lạp, nếu các quan chức chủ động hành động như thế thì
sẽ không còn bị đưa ra xét xử nữa.Theo tính toán, hàng năm, nạn tham nhũng
ở Hy Lạp đã lấy đi khoảng 10% GDP của nước này.
 Do tham nhũng, nhận hối lộ diễn ra tràn lan ở mọi lĩnh vực trong đời sống
xã hội nên việc hối lộ cũng được coi là… bình thường khi người dân quan
niệm, đi hối lộ để “đôi bên cùng có lợi”. Chỉ tính riêng trong năm 2009,
tổng số tiền mà người dân Hy Lạp dùng để hối lộ lên đến 800 triệu Euro,
trong đó phần lớn tập trung ở lĩnh vực y tế và xây dựng cơ bản. Trong một
nghiên cứu của Tổ chức Minh bạch quốc tế, trung bình mỗi gia đình ở Hy
Lạp tiêu đến 1450 Euro một năm cho việc hối lộ.
13


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Theo giới nghiên cứu, tỷ lệ thất thoát thuế ở Hy Lạp thuộc hàng lớn nhất
châu Âu và cũng là con số khá cao trên thế giới khi hàng năm, số tiền thuế
thất thoát lên tới 25%. Chính Bộ Tài chính Hy Lạp cũng khẳng định, ở một
nước phát triển như Hy Lạp, với dân số hơn 11 triệu người nhưng lại chỉ có
khoảng 15 nghìn người kê khai có mức thu nhập trên 100.000 Euro là có
vấn đề
2.1.2.2. Chi tiêu công “siêu thoáng”
Tham nhũng, trốn thuế là những tệ nạn khiến Hy Lạp ngày càng nghèo hơn so
với các nước trong EU, khiến nước này lâm vào cảnh nợ nần quốc tế chồng chất.
Thế nhưng, việc Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ còn có sự “góp phần” không
nhỏ của việc chi tiêu công quỹ “siêu thoáng” cũng như những bộ máy công quyền
không ngừng “lớn mạnh” về số lượng, nhưng chất lượng, hiệu quả công việc lại
giảm đi rất nhiều.
 Chi quỹ lương:



Quỹ lương của khối dịch vụ công tại Hy Lạp đã tăng gấp đôi trong vòng
10 năm qua. Trong khi đó, nguồn thu không được cải thiện sau hàng loạt
biện pháp cắt giảm thuế để kích thích đầu tư.



Thỏa thuận tài trợ 110 tỉ Euro chung của IMF và khối Liên hiệp châu Âu
cho Hy Lạp có chỉ ra rằng trong năm trước ngoài số tiền dùng trả lãi
vay, có đến 75% phần chi còn lại của ngân sách Chính phủ Hy Lạp là để
duy trì một mức lương và phúc lợi xã hội cao.



Trong năm 2009, Hy Lạp đã tuyển dụng tổng cộng khoảng 27.000 công
chức mới, nhưng số công chức chỉ đến công sở “ngồi chơi xơi nước”
chiếm tới 1/3. Rõ ràng, ngân sách quốc gia Hy Lạp đang phải oằn mình
gánh chịu một lượng công chức khổng lồ mà không có cách nào giảm tải
được bởi trong Hiến pháp nước này có điều khoản cấm việc sa thải công
chức Nhà nước.



Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người
làm công ăn lương ở nước này. Số lượng nhiều là thế, nhưng những
người được gọi là “công chức Nhà nước”, dù làm ít hay nhiều, vẫn được
hưởng mức lương khá cao so với mức lương bình quân ở những khu vực

14



Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

khác. Chỉ tính tiền lương thu nhập chính (chưa tính tiền thưởng, tiền hỗ
trợ), sau khi trừ đi các khoản, bình quân 1 công chức lĩnh được 1.350
Euro/tháng. Trong khi đó, bình quân mỗi tháng, người làm công ăn
lương ở các khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước chỉ được lĩnh khoảng
750 Euro.


Tất nhiên, hậu quả của “công chức” là ngân sách Hy Lạp năm nào cũng
bị bội chi. Thâm hụt ngân sách liên tục tăng cao. Và, đến năm 2009, nó
đạt đến mức 12,7% (theo quy định của EU, mức thâm hụt ngân sách ở
các nước thành viên không được quá 3%). Với mức thâm hụt lớn như
vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi tổng số nợ quốc gia của Hy Lạp lên tới
con số 300 tỷ Euro vào năm 2009. Số nợ này được coi là “khủng”, vì nó
tương đương với 113,4% GDP một năm của Hy Lạp. Con số này không
chỉ làm Chính phủ Hy Lạp lo ngại mà ngay cả EU cũng phải vội vã tìm
cách trợ giúp để cứu vãn nền kinh tế Hy Lạp, tránh một sự phá sản Nhà
nước có thể ảnh hưởng dây chuyền tới tất cả các nước thành viên trong
EU.

 Chi xây dựng cơ sở hạ tầng: Sử dụng vốn bất hợp lý và lãng phí: Dễ dàng hút

vốn đầu tư nước ngoài, trong gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục
bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ Euro. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế
Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này
không xảy ra, nhà chức trách dường như “ngủ quên” trên núi tiền có được nhờ
vay nợ. Nói đúng hơn, Chính phủ Hy Lạp chỉ biết chi tiêu (phần lớn cho cơ sở

hạ tầng) chứ hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ. Một ví dụ dễ
thấy nhất là công tác tổ chức Thế vận hội Olympic Athens 2004, một thế vận
hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử. Chi 12 tỷ Euro (cao
hơn tới 10 tỷ so với dự kiến) nhưng không cho phép bất cứ một biển hiệu
quảng cáo nào được xuất hiện trên đường phố, Chính phủ Hy Lạp đã khiến

15


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

ngân sách quốc gia năm 2004 thâm hụt tới 6,1% (so với GDP) trong khi giới
hạn mà khối EU cho phép là 3%.
2.1.2.3. Cơ cấu vốn vay bất hợp lý:
 Chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn

Biểu đồ 4: Tỷ trọng nợ công của HyLạp ttheo kỳ hạn 5
Một điều đáng chú ý là sự chi tiêu lãng phí của Chính phủ Hy Lạp lại dựa trên
cơ cấu nợ bất hợp lý, khi mà hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong
đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy
Lạp là 124,9%. khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ Euro (tương đương 11,3 tỉ
đô la Mỹ) TPCP vào ngày 19/5/2010. Khi các khoản vay ngắn hạn chưa phát huy
được hiệu quả thì chính phủ lại lo trả nợ. Điều này càng làm gia tăng áp lực nợ lên
chính phủ.
 Tỷ lệ vay nợ nước ngoài cao

Đơn vị tính : %
Tên quốc gia

2010


2011

2012

68,2

79,2

82,3

86,0

90,3

Hy Lạp

112,5

124,9

147,9

170,6

158,5

Ý

106,1


116,4

119,0

120,8

127,0

Pháp

2009

2013

5 Lemonde.fr avec AFP, 20/04/2010

16


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

Nhật Bản
Mỹ

191,8

210,2

216,0


230,9

245,4

75,5

89,1

98,2

102,5

106,5

Bảng 1: So sánh số liệu nợ công so GDP của một số nước trên thế giới 6
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy rõ tỷ lệ % giữa nợ công trên GDP của
Nhật Bản cao hơn rất nhiều so với Hy Lạp nhưng Nhật Bản vẫn chưa lâm vào tình
trạng khủng hoảng nợ công. Đó là do sự khác nhau trong cơ cấu nợ giữa 2 nước.
95% TPCP Nhật Bản là do người dân trong nước nắm trong khi hơn 75% nợ của
chính phủ Hy Lạp lại do người nước ngoài nắm giữ. Khi có bất cứ 1 sự khủng
hoảng nào về kinh tế, chính trị thì các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng bán tháo các
trái phiếu….khiến Hy Lạp dễ dàng trở thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ
quốc tế.
2.1.2.4. Bệnh thành tích khi gia nhập EU
 Năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng Euro, Hội đồng châu Âu đã họp
tại Dublin để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và EU ký một hiệp ước quy định
các thành viên trong nhóm giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt
quá 3% GDP và tổng nợ chính phủ không vượt quá 60% GDP quốc gia.
 Mười một sáng lập viên lúc bấy giờ vẫn ấn định giờ G là ngày 1/1/1999 ra mắt

đồng Euro. Nhưng không có quốc gia nào trong khối lúc bấy giờ đáp ứng được
tiêu chí trên. Lúc đó, con số thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến một số người nghi
ngờ.
 Đáng ngạc nhiên hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5%
vào năm 1998 và dự báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ còn 1,9% vào năm 1999.
Cả châu Âu đã hoan hô thành tích này, tung hô Hy Lạp như một câu chuyện
thần kỳ khiến một số nước phải ngưỡng mộ. Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha
cũng cố gắng đạt thành tích thâm hụt chỉ 3%.
6 IMF2013,Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới 2013, tháng 4/2013

17


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Những số liệu không chính xác
 Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế toán mới, cho thấy thâm hụt thực sự
của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm 2004 một báo cáo khác lại chỉ
ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là 4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập
nhằng tiền chi tiêu mua sắm công với viện trợ chính phủ đến 2 tỉ Euro.
 Không chỉ thế, Hy Lạp còn cố ý không tính đến một số chi tiêu quân sự
cũng như y tế trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này còn xem
một số viện trợ từ châu Âu là khoản thu vào của chính phủ.
 Với cách này, Hy Lạp đã bưng bít thâm hụt ngân sách năm 2003 một cách
khó tin. Vào tháng 3/2004, Hy Lạp công bố thâm hụt ngân sách 2,6 tỉ Euro
tương đương 1,7%, tức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của EU là
2,7%. Điều đó khiến nhiều người nghi ngờ và EU gây áp lực khiến Hy Lạp
công bố lại.
 Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp công bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các
trợ cấp thuế ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau

đó, Hy Lạp thừa nhận đã bỏ qua một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên
giá trị thặng dư an sinh xã hội cùng lãi suất thấp đi, nên con số thực phải là
4,6%. Đến tháng 3.2005, Hy Lạp thông báo thâm hụt của năm 2003 là
5,2%. Và trong lần báo cáo cuối cùng vào cuối năm đó, con số tăng lên mức
5,7%. Sau 18 tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6 tỉ lên 8,8 tỉ
Euro.
2.1.3 Giải pháp Hy Lạp đã thực hiện
Sau khi khủng khoảng bắt đầu từ tháng 12/2009 đến tháng 05/2010, chính
phủ Hy Lạp không còn khả năng trả nợ đến hạn và có nguy cơ vỡ nợ, EU và Quỹ
Tiền tệ Quốc Tế (IMF) đã đồng ý một khoản cứu trợ kỳ hạn 03 năm trị giá 110 tỷ

18


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

Euro để đưa Hy Lạp thoát khỏi khủng hoảng. Đổi lại Hy Lạp phải thực hiện giảm
bội chi ngân sách theo một lộ trình khắc khổ.
 Tháng 02/2010 thực hiện cam kết đầu tiên với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB), chính phủ Hy Lạp đã giảm một phần
tiền lương của nhân viên chính phủ, cắt giảm 10% tiền thưởng và cũng như
giảm nhân viên công cộng và phục vụ cho ngành du lịch. Đánh đổi lại Hy Lạp
được thông qua gói cứu trợ trị giá 80 tỷ Euro.
 Tháng 03/2010 Quốc hội Hy Lạp tiếp tục thông qua Luật bảo vệ nền kinh tế để
tiếp tục cắt giảm chi tiêu trước nguy cơ vỡ nợ. Theo đó, sẽ cắt giảm 30% chi
tiêu vào Giáng sinh, lễ Phục sinh, tiếp tục cắt giảm 12% tiền thưởng khu vực
công, cắt giảm 7% lương hiện tại, tăng thuế VAT các mặt hàng từ 4,5% lên
5%, từ 9% lên 10 % và từ 19% lên 21%, tăng thuế đối với xăng dầu lên 15%,
tăng thuế nhập khẩu xe hơi từ 10% đến 30%. Tuy nhiên sau hai nổ lực cắt giảm
chi tiêu và tăng thu ngân sách, chính phủ Hy Lạp vẫn không có khả năng cứu

vãn tình hình trước khoản nợ đến hạn khoảng 11,3 tỷ đôla vào tháng 05/2010.
 Trước nguy cơ vỡ nợ Ủy ban Châu Âu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng
trung ương Châu Âu đã thành lập Ủy ban ba (Troika) bên để đưa ra chương
trình cứu trợ cho chính phủ Hy Lạp với một khoản cứu trợ kỳ hạn 03 năm trị
giá 110 tỷ Euro. Đổi lại Hy Lạp phải thực hiện giảm bội chi ngân sách theo một
lộ trình khắc khổ.
 Ngày 01/05/2010 chính phủ Hy Lạp đã thông qua kế hoạch thắt lưng buộc
bụng lớn nhất để tiết kiệm khoảng 38 tỷ Euro đến năm 2012. Theo đó, chính
phủ đã cắt giảm 8% phụ cấp trong khu vực công, quy định chế độ tiền thưởng
1.000 Euro mỗi hai năm, cắt giảm các thu nhập vượt 3.000 Euro/tháng và vượt
2.500 Euro/tháng đối với lương hưu, quy định mức tối đa 500 Euro một tháng
đối với lương tháng 13, 14 của công chức nhà nước. Thực hiện tăng thuế nhập
khẩu ô tô lên 10%, tăng thuế VAT lên mức 5,5%, 11% và 23%, tăng thuế tiêu

19


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

thụ đặt biệt lên 10% đối với rượu, thuốc lá và nhiên liệu, thực hiện tư nhân hóa
các công ty thuộc sở hữu nhà nước để giảm chi tiêu, giảm các đơn vị nhà nước
từ 6000 đơn vị còn 2000 đơn vị.
 Ngày 02/05/2010 sau nỗ lực của chính phủ Hy Lạp, Troika đã cung cấp 45 tỷ
Euro trong năm 2010 để thanh toán các khoản vay đến hạn, trong đó có 8,5 tỷ
Euro trái phiếu chính phủ tới hạn. Về mặt tích cực, Hy Lạp đã có vốn để thanh
toán các khoản nợ đến hạn nhưng do chính sách cắt quá mạnh khiến Hy Lạp
liên tục xảy ra đình công và biểu tình trên khắp đất nước, đã có 3 người thiệt
mạng ngay trong ngày đầu tiên.
 Từ tháng 05/2010 đến nay Hy Lạp đã liên tục thực hiện các chính sách thắt
lưng buộc bụng để được nhận khoảng 240 tỷ Euro, mặc dù đã sử dụng gần hết

các khoản vay này nhưng Hy Lạp vẫn không nhận được sự tín nhiệm trên thị
trường tài chính và tình hình vẫn tiếp tục không mấy khả quan. Các gói cứu trợ
đã giải ngân với lãi suất ưu đãi khoảng 5% chỉ là biện pháp để Hy Lạp tạm thời
không lâm vào tình trạng vỡ nợ trước mắt. Tính đến năm 2013, thâm hụt ngân
sách của Hy Lạp là 10%, nợ chính phủ 156,9% so với GDP, thất nghiệp
khoảng 27%, GDP giảm khoảng 3,8% so với năm 2012.
 Việc Hy Lạp chưa vỡ nợ tới nay là do nguồn tiền cứu trợ có kỳ hạn 10 năm từ
Troika đang thanh toán các khoản nợ đến hạn của chính phủ, một phần còn do
nhiều chủ nợ nắm trái phiếu chính phủ mà đa phần là chủ nợ cá nhân trong
nước của Hy Lạp đồng ý cơ cấu lại thời hạn trả nợ của trái phiếu. Trong khi đó
các biện pháp thắt lưng buộc bụng quá mức đã làm gia tăng tình trạng bạo
động, đình công và phản đối trên toàn quốc, việc áp dụng mức thuế cao đã làm
cho nền kinh tế càng suy giảm chứ không phát triển được. Kế hoạch thắt lưng
buộc bụng để vượt qua khủng hoảng nợ công bằng cách cơ cấu, tăng hiệu quả
nền kinh tế cho đến lúc này vẫn không có hiệu quả.

20


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

2.2. Ireland
2.2.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công tại Ireland
 Ireland là một quốc đảo nằm ở Tây Bắc châu Âu, phía tây đảo Anh. Năm 1973,
Ireland gia nhập EU, và năm 1999, trở thành thành viên của khu vực sử dụng
đồng tiền chung châu Âu - EuroZone. Kinh tế Ireland phát triển dựa vào dược
phẩm, hàng công nghệ cao và dịch vụ.
 Sau chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế Ireland xếp vào diện lac hậu nhất so
với các nước châu Âu. Tuy nhiên mọi chuyện bắt đầu thay đổi từ giữa những
năm 1990 khi Ireland đã có những bước đột phá thần tốc để bắt kịp các nước

trong khu vực. Từ những năm 1995 đến trước khủng hoảng tài chính thế giới,
kinh tế Ireland trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nhờ vào mức thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, là 12,5% - thuộc hàng
thấp nhất ở châu Âu, cộng với các quy định luật pháp không quá khó chịu, lực
lượng lao động trẻ, thạo tay nghề và khả năng kết nối dễ dàng với các nền kinh
tế khác trong EU. Ireland trong giai đoạn này đã từng được gọi là “Con hổ
vùng Celtic”, là “cổng vào của thị trường châu Âu” với mức tăng trưởng 6,5%
(2002-2007).
 Tuy nhiên giai đoạn phát triển kinh tế của Ireland cũng không kéo dài được lâu.
Thời điểm tháng 11/2010, Ireland đã chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của
vòng xoáy khủng hoảng nợ công tại châu Âu khi phải nhờ đến sự cầu viện của
EU và IMF sau Hy Lạp, và trở thành một trong nhóm nước PIIGS (gồm Bồ
Đào Nha, Ireland, Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha).

Biểu đồ 5: Thâm hụt ngân sách của Ireland giai đoạn 2001-2012 7

7 Eurostat

21


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

 Biểu đồ 5 cho thấy mức thâm hụt ngân sách của Ireland tăng mạnh trong hai
năm 2009 và 2010. Từ năm 2001-2007, tỉ lệ thâm hụt ngân sách/GDP luôn nằm
trong ngưỡng an toàn theo khu vực EuroZone là 3% GDP. Kể từ năm 2008,
thâm hụt ngân sách bắt đầu tăng vọt, từ mức 7,4% GDP (2008) đến 13,7%
(2009), và đỉnh điểm là 30,6% năm 2010, cao gấp 10 lần mức cho phép. So
sánh với các nước trong khu vực (Biểu đồ 6), tỷ lệ thâm hụt ngân sách/GDP
trong 2 năm 2011-2012 của Ireland là cao nhất so với các quốc gia khác. Theo

đó, Ireland cũng nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao trong khu
vực.
Đơn vị tính: % GDP

Biểu đồ 6: Thâm hụt ngân sách các nước khu vực Liên minh châu Âu 2011-2012 8
 Thâm hụt ngân sách tăng nhanh kéo theo làm gia tăng gánh nặng nợ nần của
quốc gia khi phải tìm nguồn để tài trợ cho bội chi NSNN. Như trên đã phân
tích, thâm hụt ngân sách của Ireland tăng vọt từ năm 2008 cũng làm cho tỷ lệ
nợ công tăng theo. Tỷ lệ nợ công/GDP cũng tăng mạnh kể từ năm 2008 và tăng
dần qua các năm: 44,2% (2008), 64,4% (2009), 91,2% (2010), 104,1% (2011),
117,4%(2012), trung bình tăng hơn 30% so với thời điểm năm 2007 và vượt xa
khung cho phép của khu vực EU là 60% GDP. Giá trị nợ công tính đến năm
8 Eurostat

22


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

2012 đã đạt tới con số 192 tỷ Euro, và đến quý 2 năm 2013, con số này là 204
tỷ Euro. Ireland cũng nằm trong số những nước có tỷ lệ nợ công cao hơn nhiều
so với mức quy định trong khu vực.

Đơn vị tính: % GDP

Biểu đồ 7: Nợ công các nước trong khu vực EU năm 2011-2012 9

Biểu đồ 8: Tỷ lệ nợ công/GDP của Ireland qua các năm 10
 Nợ công gia tăng đã tác động tiêu cực đến tình hình tài chính tiền tệ của quốc
gia này. Trong khoảng thời gian từ tháng 8-11/2010, lợi tức TPCP kỳ hạn 10

năm của Ireland đã tăng khoảng 2%, lên gần 7%/năm do sự mất lòng tin của
nhà đầu tư trước tình trạng nợ công đang ngày một leo thang. Chi phí bảo lãnh
9 Eurostat
10 Eurostat

23


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

cho trái phiếu của nước này cũng tăng vọt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ
(CDS) kỳ hạn 10 năm của TPCP Ireland đã lên tới mức 595 điểm phần trăm.
Như vậy, cứ 10 triệu Euro nợ dài hạn của Ireland sẽ mất 595.000 Euro phí bảo
lãnh (cao nhất so với các nước trong khu vực).

Đơn vị tính: %

Biểu đồ 9: Lợi tức trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm của Ireland 11
2.2.2 Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Ireland
 Nguyên nhân đầu tiên của cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland chính là do sự
mở rộng tín dụng quá nhanh đã tạo nên bong bóng tài sản, đẩy danh mục đầu tư
quốc gia vượt quá quy mô của nền kinh tế. Trong khi đó, Chính phủ đã không
kịp thời kiểm soát hành vi cho vay của các ngân hàng. Giai đoạn 2000-2007,
nền kinh tế nước này tăng trưởng mạnh, các ngân hàng Ireland đã đẩy mạnh
tăng trưởng tín dụng, trong đó chủ yếu là nới rộng cho vay bất động sản, tạo ra
và làm phình to bong bóng bất động sản giai đoạn 2000-2007, cụ thể là cuối
năm 2006, giá nhà đất cao gấp 10-17 lần thu nhập trung bình của người dân.
Trong khi đó, thể chế về giám sát ngân hàng không chặt chẽ, cạnh tranh giữa
các ngân hàng đã khiến các tiêu chuẩn cho vay ngày càng hạ thấp, hộ gia đình
có thể vay tiền với mức cho vay gấp 3-4 lần thu nhập trong vòng 30-40 năm.

Thêm vào đó, lãi suất giảm sau khi đồng Euro được đưa vào lưu thông năm
2002 cũng góp phần làm giảm chi phí vay vốn. Tuy nhiên, khi cuộc khủng
11 Tradingeconomics

24


Nhóm 1 - Khủng hoảng nợ công

hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ xảy ra năm 2007, khi hàng loạt những định chế
tài chính ở Mỹ đã công bố những hậu quả nặng nề mà họ phải gánh chịu thì các
ngân hàng lớn của Ireland cũng lâm vào tình cảnh khủng hoảng tương tự khi
giá trị bất động sản tại nước này giảm nhanh chóng 47% từ 9/2007 đến
12/2011. Thị trường bất động sản sụp đổ đóng băng, nhiều phần trong các
khoản cho vay bất động sản này trở thành nợ xấu, các ngân hàng ngày càng
phải giữ nhiều khoản nợ xấu và đứng trước nguy cơ sụp đổ. Đứng trước tình
hình đó, Chính phủ buộc phải chi tiền để thực hiện quốc hữu hóa ngành ngân
hàng và tái cấp vốn cho các ngân hàng này. Chính điều này làm cho mức thâm
hụt ngân sách của nước này tăng mạnh. Cụ thể, Chính phủ Ireland đã bỏ ra 50
tỷ Euro nhằm cứu lấy sáu ngân hàng lớn của nước này (trong đó có Bank of
Ireland, Allied Irish Bank, Anglo Irish Bank). Ireland đã tạo ra một định chế tài
chính mới gọi là Cục Quản lý tài sản quốc gia, gọi tắt là NAMA (National
Asset Management Agency) (2009) với mục tiêu nhận hầu hết các khoản nợ
xấu của các ngân hàng lớn tại Ireland và có trách nhiệm quản lý các tài sản này,
cố gắng đem lại lợi nhuận cho ngân sách. Như vậy, các ngân hàng sẽ đổi từ các
khoản nợ để lấy TPCP, điều này có nghĩa là Chính phủ đã biến các khoản nợ
xấu, những khoản nợ tư nhân khổng lồ trở thành tài sản công, đồng thời lấy
ngân sách Trung ương để bù đắp những tổn thất, trong khi các tài sản công này
đang liên tục bị mất giá.
 Nguyên nhân thứ hai, như đã được đề cập, trước khi gia nhập khu vực, Ireland

có mức lãi suất cao (trung bình gấp đôi lãi suất tại Đức). Sau khi gia nhập khu
vực Eurozone, nước này đã tiếp cận được một thị trường lớn và nguồn vốn rẻ,
vì thế lãi suất giảm mạnh xuống mức tương đối thấp, ví dụ với thời hạn 3
tháng, lãi suất đã giảm từ 20%/năm xuống còn 3%/năm, khiến cho chi phí vay
nợ trở nên rẻ hơn. Được hưởng lãi suất thấp, chi tiêu công tăng mạnh theo tăng
trưởng kinh tế giai đoạn 2002-2007. Cách đồng Euro mang lại tăng trưởng cho
nước này không nằm ở việc gia tăng xuất khẩu, mà là do tiêu dùng trong nước
tăng. Sự gia tăng của cầu tiêu dùng nội địa nhanh chóng đẩy giá cả lên cao, và
thiếu hụt lao động trở thành vấn đề. Kết quả là tiền lương nhân công tăng lên
và Chính phủ nước này đã chi tiêu nhiều, dẫn đến thâm hụt ngân sách. Việc
vay mượn là nguyên nhân tất yếu dẫn đến các khoản nợ tăng nhanh.
 Nguyên nhân thứ ba là do sự suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư đã đẩy
Ireland vào cuộc khủng hoảng bay hơi ngoại tệ trầm trọng. Khủng hoảng xảy

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×