I. Thực trạng Hy Lạp và khu vực eurozone trước khi khủng hoảng nợ
công xảy ra:
I.1. Thực trạng khu vực đồng tiền chung eurozone:
Ngày 1/1/2009, eurozone chính thức kết nạp thêm Slovakia nâng tổng số
nước sử dụng chung đồng tiền euro lên con số 16, với dân số hơn 300 triệu người,
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên 12.000 tỉ Euro. Đến nay, sau 11 năm phát triển,
khu vực đồng tiền chung châu Âu đã phát triển, trải qua những thăng trầm. Đồng
Euro đã trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu và trở thành một đối trọng với
đồng USD của Mỹ .
Trước giai đoạn khủng hoảng tài chính 2008, nền kinh tế của khu vực
eurozone đã có những thành tựu nhất định:
Tỉ lệ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực đồng Euro từ năm 1999 - 2007
ở mức trung bình 2.59% /năm, và có lúc lên cao nhất vào năm 2006: 3.5%; giá trị
GDP trung bình trong khoảng thời gian từ năm 1999 – 2007 là khoảng 8200 tỷ
USD/năm. Trong giai đoạn trên, Euro đã góp phần tạo thêm 15 triệu việc làm mới
khiến thương mại và du lịch trở nên dễ dàng hơn.
Có được điều đó là do việc gia nhập vào khu vực đồng tiền chung châu Âu, sử
dụng chung 1 đơn vị tiền tệ đã hình thành nên 1 thị trường thống nhất về vốn, sức
lao động, hàng hóa và giúp cho các giao dịch trong khối diễn ra thuận tiện và dễ
dàng, giúp các nước trong khu vực tận dụng được các nguồn lực sẵn có cũng như
các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển.
Biểu đồ về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của khu vực Euro ( 1999-
2007 )
Đơn vị : %
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
Ngoài ra, do có một Ngân hàng trung ương cho cả khu vực cùng với chính
sách tiền tệ độc lập và không hề chịu sự tác động hay can thiệp của bất kỳ một
quốc gia nào trong nội bộ khối nên kể từ khi thành lập, ECB đã giữ được tỷ lệ lạm
phát ở mức hợp lý, góp phần giữ ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát cho các hoạt
động của nền kinh tế.
Cụ thể, trong giai đoạn 1999-2007, giá cả ở Châu Âu tăng với tốc độ bình
quân vào khoảng 2.2% mỗi năm bất chấp giá lương thực và nhiên liệu có xu hướng
leo thang liên tục trong những năm gần đây.
Biểu đồ về tỷ lệ lạm phát của khu vực đồng Euro( 1999 – 2007 )
Đơn vị : %
Nguồn : TradingEconomics.com; European Commission
Bên cạnh đó, ECB đã duy trì một mức lãi suất ổn định, điều này đã giúp hạn
chế những biến động lớn có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư và các doanh
nghiệp. Lãi suất bình quân ở mức 2,89% năm trước giai đoạn khủng hoảng tài
chính kinh tế thế giới 2008.
Nhờ sự ổn định và tăng trưởng kinh tế mà mức sống của người dân trong
khu vực Eurozone tăng lên, thể hiện qua sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người.
Tính đến cuối năm 2007, thu nhập bình quân của cả khu vực là khoảng 22000
USD/người; còn nếu tính theo giá sức mua tương đương thì thu nhập bình quân là
khoảng 33500 USD.
Biểu đồ thu nhập bình quân ( 1980 – 2009 )
Đơn vị : USD
Nguồn : TradingEconomics.com; The World Bank Group
Không chỉ là biểu tượng của cho sự hội nhập của Châu Âu, việc ra đời đồng
Euro đã tạo ra sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới. Đó là những thay đổi
trong việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả các giao dịch trên
thị trường chứng khoán khi đồng Euro trở thành một phương tiện thanh toán tương
đối ổn định và có sức chuyển đổi cao, khiến Euro dần trở thành 1 trong những
kênh đầu tư an toàn. Bên cạnh đồng USD dự trữ như trước đây thì NHTW các
nước có thêm 1 sự lựa chọn nữa là đồng Euro. Trên thực tế, dự trữ ngoại hối của
các quốc gia trên thế giới bằng đồng Euro có xu hướng tăng lên chứng tỏ Euro đã
được các công ty và chính phủ các nước chấp nhận như là 1 ngoại tệ mạnh. Khi
mới đưa vào lưu hành, giá trị 1 Euro chưa bằng 1 USD. Tuy nhiên, đồng tiền này
đã từng đạt mức kỷ lục 1 Euro đổi được 1,6 USD trong năm 2008.
Khu vực Eurozone chỉ chiếm 16,5% sản lượng kinh tế toàn cầu, nhưng đồng
Euro lại chiếm tới 27% dự trữ ngoại hối của thế giới. Sau hơn 3 năm đi vào hoạt
động, tỷ trọng của Euro trong quỹ dự trữ của các NHTW trên thế giới vào năm
2005 đạt 24,3% (của USD là 66,4%) và cho tới cuối năm 2007, đã là khoảng
27,8% .
Khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 thực sự là một thách thức với khu vực
đồng tiền chung eurozone.
Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra vào năm 2008,
kinh tế EU liên tục phải đối mặt với nhiều khó khăn như tốc độ lạm phát, tỷ lệ lạm
phát cao khiến cho việc lựa chọn đối sách của khu vực EU trở nên phức tạp. Như
nhận định của Ủy ban Châu Âu, khủng hoảng tài chính đã gây ra những tác động
nặng nề, đã quét sạch những thành tựu mà EU đạt được trong thập kỷ qua. Sản
lượng công nghiệp của EU trở lại mức của những năm 1930, 23 triệu người hay
10% dân số độ tuổi lao động bị thất nghiệp.
Kinh tế các nước Eurozone lần đầu tiên kể từ ngày được thành lập năm
1999, đã rơi vào giai đoạn suy thoái, do tăng trưởng âm (GDP đều giảm 0,2%)
trong hai quý liên tiếp. Sang đến đầu năm 2009, kinh tế các nước Eurozone tiếp tục
sụt giảm 0.5% sau khi chỉ tăng 1.1% năm 2008. Cụ thể, mảng dịch vụ và chế tạo
tại 16 nước Eurozone đều sụt giảm kỷ lục so với tháng 1/09. Ngoài ra, kinh tế khu
vực Eurozone cũng đã có 4 quý liên tiếp xuất hiện tăng trưởng kinh tế âm.
Lạm phát ở khu vực Eurozone tăng lên mức kỷ lục vào tháng 6/2008 với
4%, vượt cả mức dự đoán xấu nhất là 3,9% và gấp đôi so với mục tiêu 2% mà
ECB đặt ra.
Tỷ lệ thất nghiệp ở EU lên cao nhất trong 10 năm qua ở châu lục này.
Trong đó, hơn 15 triệu người đã thất nghiệp ở khu vực đồng Euro, tương đương