Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.18 KB, 13 trang )

Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

I. LỜI NĨI ĐẦU:
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển xã hội Hy Lạp cổ đại, F.Engels đã đánh giá
“Hy Lạp là giai đoạn ấu thơ đẹp nhất của lồi người” và đi đến kết luận “khơng có Hy
Lạp, khơng có châu Âu hiện đại”.
Con người từ trước đến nay ln cố gắng giải quyết các vấn đề của cộng
đồng và từng cá nhân thơng qua đề xuất mới hoặc cải thiện mơ hình tổ chức xã hội.
Các nhà đơ thị học, quy hoạch sư và kiến trúc sư từ xưa đến nay ln theo đuổi mục
đích tạo ra mơi trường trong đó con người sống hài hòa với con người và với thiên
nhiên. Mơ hình thành bang (Polis) của người Hy Lạp cổ đại đã từng đạt được mục
đích nâng cao tính cố kết cộng động, sự giao tiếp giữa con người với con người bên
cạnh việc giải quyết các vấn đề xã hội khác của thời đại. Những ý tưởng về tổ chức
xã hội trong các polis vẫn còn mê hoặc nhân loại hơn 2000 năm.
Nếu đơ thị là biểu tượng của nền văn mình (chữ “city” có gốc là
“civiliazation”), thì đơ thị cũng đã trở thành cơng cụ văn hóa để qua đó con người nỗ
lực đạt được một khái niệm cộng đồng đầy đủ hơn. Trong tác phẩm của mình,
Aristotle gọi con người là “zoon politikon” – những sinh vật sống trong một polis –
để nhấn mạnh rằng polis, hay cộng đồng, là khơng gian duy nhất để một con người
có thể “hiện thực đầy đủ năng lực tinh thần, đạo đức và trí tuệ” của chính mình.
Polis là những cộng đồng độc lập được quản lý bởi hội đồng cơng dân xuất
hiện vào khoảng thế kỷ 5 trước Cơng Ngun tại Hy Lap. Đặc điểm dân chủ của xã
hội Hy Lạp là một tiến bộ quan trọng. Chính nó đã nâng cao vai trò của con người
trong xã hội, đã khơi dậy những tiềm năng của con người, làm cho khoa học, triết
học và các loại hình nghệ thuật phát triển rực rỡ theo hướng phục vụ con người. Nổi
bật trong số các loại hình nghệ thuật ấy là kiến trúc và điêu khắc. Từ đó hình thành
khái niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Kiến trúc Hy Lạp - kết quả của trí tuệ, sức sáng
tạo của con người vì con người đã trở thành chuẩn mực cổ điển là tiền đề cho nhiều
sáng tạo kiến trúc của các thời đại sau.


Ý thức được tầm quan trọng đó, thơng qua bài tiểu luận này tơi xin trình bày
một số tìm hiểu và nhận định dựa trên cơ sở phân tích những di sản vật chất - kiến
trúc, nghệ thuật và một số sơ đồ về qui hoạch tổ chức đơ thị của nền văn minh Hy
Lạp cổ đại.
Căn cứ vào mục đích nội dung, đề tài này đã phối hợp các phương pháp tiếp
cận khác nhau, tuy nhiên phương pháp chủ yếu chính vẫn là phương pháp biện
chứng, trong đó bao gồm thu thập tài liệu cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh, đọc, phân tích,
tổng hợp tài liệu và xử lý các thơng tin có được một cách hợp lí.Nguồn thơng tin sử
dụng trong đề tài đã được thu thập từ Internet và các tài liệu chun nghành lịch sử
kiến trúc.
1
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

MỤC LỤC:

I. LỜI NĨI ĐẦU:…………………………………………………………………………01
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:………………………………………………………………03
II.1 Quan niệm về đơ thị: ………………………………………………………….……03
II. 2 Phân khu chức năng đơ thị:…………………………………………………….…..03
II.3 Hình thái khơng gian đơ thị: …………………………………………………….….04
II.4 Qui mơ đơ thị:…………………………………………………………………….….05
II.5 Các loại hình kiến trúc (của thời kỳ Hy Lạp chính thống)…………………….…..05
II.5.1 Kiến trúc tơn giáo: …………………………………………………………….……05
II.5.2. Kiến trúc biểu diễn……................................................................................................05
II.5.3 Kiến trúc hành chính: ………………………………………………………..…..….06

II.5.4 Kiến trúc thể dục thể thao: ………………………………………………………….06
II.5.5 Kiến trúc lăng mộ: ………………………………………………………………….06
II.5.6 Kiến trúc nhà ở và cung điện: …………………………………………….………...06
II.6 Các thủ pháp tạo hình trong kiến trúc và điêu khắc: ………………..….………...06
II.6.1 Tỉ lệ vàng………………..……………..…………………………………....06
II.6.2 Kích thước hồng tráng so với con người: ……………………….………....06
II.6.3 Thủ pháp thị giác: ………………………………………..………...…….....06
II.6.4 Thức cột …………………………………………………………………......06

2
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

II.6.5 Sự đa dạng trong kiến trúc đền thờ Hy Lạp: ………………………………..07
III. KẾT LUẬN…………………………………………………………………………...11

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
II.1 Quan niệm về đơ thị:
Người Hy Lạp quan niệm đơ thị là một thiết chế xã hội cộng đồng mang tính
địa phương rõ rệt, các đơ thị ln được tổ chức và xây dựng sao cho phù hợp với
điều kiện tự nhiên, với đặc điểm xã hội và kinh tế của từng địa phương. Vì vậy, mỗi
một đơ thị khơng những có đặc điểm riêng dễ nhận diện mà giữa chúng ln có sự
cạnh tranh để phát triển. Đơ thị là niềm tự hào của mọi cơng dân tự do Hy Lạp, là
cơng sức tập thể xuất phát từ ý thức xây dựng cuộc sống cộng đồng thơng qua một
thiết chế dân chủ tiến bộ. Hội đồng Cơng dân trước hết tập hợp ý kiến đóng góp của
cơng dân về các vấn đề đơ thị và sau đó tổ chức cho mọi cơng dân thực hiện những

quyết định của Hội đồng Q tộc. Những sinh hoạt cộng đồng như vậy diễn ra
thường xun trên các quảng trường cơng cộng hay trong những nhà họp cạnh các
quảng trường cơng cộng.
Chính ý thức tổ chức cộng đồng với ưu thế của những sinh hoạt cơng cộng đã
dẫn đến quan niệm đơ thị là một thể thống nhất, trong đó các chức năng có mối liên
hệ với nhau. Riêng khu vực tơn giáo, tín ngưỡng và hành chính, chính trị, tuy có
tường bảo vệ, song vẫn có mối liên hệ sử dụng thuận lợi và trực tiếp với các khu vực
chức năng khác của đơ thị. Điều này hồn tồn khác với cách tổ chức đơ thị Ai Cập,
Lưỡng Hà và phương Đơng – nơi mà các khu vực chức năng hoạt động độc lập trên
ngun tắc phân biệt giai cấp và được bảo vệ bằng hệ thống thành, lũy kiên cố, tạo
nên tổng thể biệt lập, khép kín trong lòng một đơ thị.
II. 2 Phân khu chức năng đơ thị:

3
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

_Khu vực cư trú (Asty): là nơi xây dựng nhà ở. Khu vực này còn gọi là khu thị
dân. Nhà ở Hy Lạp được xây dựng tương đối thống nhất về thể loại, được xây dựng
phân tán. Khơng tạo thành những khu ở riêng biệt cho các giai tầng xã hội như
thường gặp trong các đơ thị cổ đại của Ai Cập và phương Đơng. (Xem hình 10)
_Khu vực tơn giáo, tín ngưỡng (Acropolis): là “thánh địa”, nơi xây dựng đền
thờ các thần, khu vực thiêng liêng nơi diễn ra các nghi thức tơn giáocủa người Hy
Lạp. Khu vực này có tường thành bảo vệ, còn gọi là khu vực thành nội, thành hạt
nhân. Vào thời kỳ cổ điển thịnh kỳ, các acropol được xây dựng thêm các nhà hát
ngồi trời có thềm dốc bậc ở các khu vực chân núi. Các acropol nổi tiếng nhất là

acropol ở Athena (Acropolis), ở Bergama (hay Πέργαμος, Pergamos) và ở Paestum.
(Xem hình 3,4,6)
_Khu vực sinh hoạt cơng cộng (Agora): bao gồm các hoạt động hội họp chính
trị, xã hội, văn hóa, giải trí, thương mại, dịch vụ…Đây thực chất là trung tâm cơng
cộng của đơ thị nằm trong khu vực cư trú. Agora cũng là tên gọi của Hội đồng Cơng
dân. Nhà họp của hội đồng cơng dân có sảnh và hàng hiên cột lớn nhìn ra quảng
trường cơng cộng – nơi thường xun diễn ra hội họp tập trung. Do cùng vị trí và
tính chất hoạt động nên người Hy Lạp dùng chung tên gọi Agora cho cả Hội Đồng
Cơng dân và quảng trường cơng cộng. (Xem hình 1)
Diện tích các agora khoảng 5% diện tích đất thành phố. Những agora tiền kỳ
có hình dạng bất quy tắc nhưng từ cuối thế kỷ 4 TCN trở đi, nó có dạng hình học
nhất định và được bao vây bởi các hàng cột thức hai tầng. Ở giữa agora có đặt bàn
thờ và tượng thần. Các agora quan trọng có thể kể ra là agora ở Miletos
(Μίλητος), Megalopolis (Μεγαλοπολη), ở Asoss và Knid.
_Khu vực sản xuất thủ cơng nghiệp và nơng nghiệp: Khu vực sản xuất thủ
cơng chính nằm ngồi đơ thị thường ở khu vực cảng. trong phạm vi của đại thành
bang và trực thuộc đơ thị, xen kẽ giữa các khu lưu trú là các cánh đồng, vườn cây
nhỏ.(Hình 21)
Qua cách phân khu chức năng trên, chúng ta thấy được trung tâm của đơ thị
là khu vực tơn giáo tín ngưỡng và khu vực sinh hoạt cộng đồng. Ở hồn cảnh cổ đại,
do sự chưa phát triển của khoa học tự nhiên, con người nhỏ bé trước thiên nhiên
nên tín ngưỡng ln được coi trọng. Mỗi một thành bang Hy Lạp cổ đại đều thờ
phụng một số vị thần nhất định. Các tác phẩm điêu khắc cho thấy các vị thần có hình
hài như con người. Thậm chí qua các thần thoại, chúng ta cũng thấy nhiều nét tương
đồng về nhân cách giữa họ với con người. Đây là điểm rất độc đáo vì nó nói lên khát
vọng của con người muốn trở nên ưu việt hơn của các cá nhân trong cộng đồng. Các
4
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại



Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

vị thần của mỗi thành bang nói lên khát vọng của dân chúng về nhóm phẩm chất ưu
việt mà họ muốn hướng tới. Điều này làm nên sắc thái bản địa rõ nét của đơ thị
thành bang.

II.3 Hình thái khơng gian đơ thị:
_Dạng đơ thị bố cục tự do: Các đường phố, những quảng trường cơng cộng
cùng với các cơng trình kiến trúc được hình thành trong sự kết hợp với địa hình tự
nhiên, do đó các đơ thị này có hình thái khơng gian rất đa dạng. Dạng bố cục đơ thị
này xuất hiện vào giai đoạn đầu của văn minh Hy Lạp cổ đại và phát triển mạnh đến
khoảng thế kỷ V trước cơng ngun. (Hình 01, 03, 04)
Đối với dạng bố cục tự do, chúng ta thấy rằng ở đây có sự tận dụng triệt để
yếu tố tự nhiên trong tổ chức đơ thị. Trong thời kì đầu dạng bố cục này được ưu tiên
sử dụng vì lí do kinh tế-kỹ thuật cùng thị hiếu hòa hợp với thiên nhiên. Tuy nhiên,
chúng ta thấy được rằng dạng bố cục này chỉ phù hợp với đơ thị qui mơ nhỏ và tổ
chức hoạt động đơn giản. Điểm đặc sắc ở đây là sự hồn mỹ của yếu tồ hòa hợp và
khéo léo khai thác tự nhiên. Các sườn dốc được tận dụng để làm khán đài, các hướng
tốt được khai thác cho phù hợp với hoạt động của cơng trình cơng cộng. Bên cạnh
đó, các cơng trình đẹp tự thân và bố cục rất hài hòa hồn tồn trong sự chủ ý của
các cư dân Hy Lạp. Ngay cả acropolis ở Athen, dù gây ấn tượng mạnh cho chúng ta
về bố cục tự do, vẫn hàm chứa một qui luật về góc tạo bởi tâm cổng thành với các
cạnh cơng trình.
_Dạng đơ thị phát triển theo ngun tắc hình học: Mặt bằng đơ thị có dạng
bàn cờ. Hình thức bố cục này do Hippodamus đề xuất lần đầu tiên vào thế kỷ V trước
Cơng ngun cho thấy những ảnh hưởng của phương pháp quy hoạch đơ thị
phương Đơng cổ đại. Từ đó nó được phổ biến và được áp dụng chủ yếu trong thiết
kế và xây dựng các đơ thị mới của Hy Lạp cổ đại. (Hình 10, 22, 23)

Đối với dạng bố cục hình học này, chúng ta thấy được sự thuận lợi về giao
thơng và qui củ tổ chức. Đặc biệt ở thành phố cảng Piraeus, chúng ta thấy rằng từ
một ngơi làng nhỏ đóng vai trò một làng thủ cơng và cảng biển của Athens,
Hippodamus đã phát triển thành một đơ thị qui mơ lớn hơn với mạng lưới ơ cờ. Điều
này có ý nghĩa thuận lợi về giao thơng và quản lý cho hoạt động sản xuất của thành
phố, thuận lợi cho một thành phố cảng với nhiều khách ngoại bang. Tuy nhiên, dù ở
phương thức tổ chức đơ thị dạng hình học, chúng ta vẫn thấy người Hy Lạp cổ đại

5
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

vẫn khai thác tốt thiên nhiên qua việc phát triển các cảng biển hồn tồn là các cảng
nước sâu tự nhiên với các vịnh kín gió và núi đá chắn sóng.
Xa hơn nữa, chúng ta thấy rằng thành phố Piraeus phát triển đã giúp thành
bang Athens giảm tải sức nóng phát triển nói riêng và thúc đẩy vùng đơ thị Athens
phát triển nói chung. Điều này ắt hẳn là cảm hứng cho mơ hình đơ thị vệ tinh mà
chúng ta vẫn áp dụng đến ngày nay. Và cũng như vậy đối với dạng đơ thị phát triển
theo hình học của Hippodamus vẫn được sử dụng đến ngày nay.
II.4 Qui mơ đơ thị:
Trong tác phẩm Politics (Chính trị học), triết gia Aristotle đề xuất quy mơ lý
tưởng của một polis là 5000 cơng dân, một quy mơ “đủ nhỏ để tiếng nói của mỗi
cơng dân được lắng nghe bởi cả cộng động nhưng đủ lớn để có thể (hình thành nền
kinh tế) tự cung, tự cấp”. Chúng ta có thể ngạc nhiên về quy mơ dân số nhỏ bé này
nhưng thực tế thì chỉ những người đàn ơng trưởng thành tự do được gọi là “cơng
dân”. Do đó, quy mơ dân số thực tế của một polis có thể gấp hơn 10 lần số cơng dân

của nó nếu tính thêm các bà vợ, trẻ em, nơ lệ và người ngoại bang. Aristotle cho
rằng, bằng giọng văn hóm hỉnh của mình, rằng một polis chỉ có 10 cơng dân là
khơng thể vì polis đó khơng thể tự tồn tại, nhưng một polis có 100.000 cơng dân thị
lại q đơng để có thể quản lý.
Trước đó, theo Hippodamus thì qui mơ dân số khơng nên vượt q 10.000
người. Đây là con số đầy đủ để tổ chức cuộc sống cộng đồng đơ thị hợp lí. 10.000
người ở đây chỉ tính nam giới cơng dân tự do ở tuổi trưởng thành. Nếu tính cả phụ
nữ, trẻ em và nơ lệ thì đạt khoảng 50.000. Ơng nghiên cứu giải quyết các vấn đề
chức năng đơ thị và kết nối với hệ thống vùng đơ thị. Kết quả, ơng đã chia cơng dân
thành 3 loại: binh lính, thợ thủ cơng và nơng phu. Đất đai cũng được chia làm 3 loại:
đất tơn giáo, đất cơng hữu, đất tư hữu.
Về qui mơ đơ thị, dù sao chăng nữa qua hai học giả trên, chúng ta thấy được
yếu tố duy lí trong chiến lược xây dựng đơ thị của người Hy Lạp. Điều này có thể
xem như một ý tưởng về sự phát triển bền vững sơ khai. Một bài tốn về phát triển
mà đến nay các nhà hoạch định vẫn đang đối mặt.
II.5 Các loại hình kiến trúc (của thời kỳ Hy Lạp chính thống).
II.5.1 Kiến trúc tơn giáo: Đền thờ Hy Lạp ngồi chức năng thờ cúng còn là
nơi sinh hoạt cơng cộng với các đặc điểm sau:
- Có bậc thang bao bọc xung quanh.
- Mặt chính quay về hướng Đơng, mặt trời chiếu vào bàn thờ trong nhà.
- Thường xây dựng thành quần thể ở vị trí cao nhất trong thành phố.
6
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

Cơng trình tiêu biểu: Quần thể Acropolis Athens.(Hình 03,04,05, xem thêm II.6.5)

II.5.2. Kiến trúc biểu diễn: ngồi mục đích biểu diễn cơng trình còn là nơi
hành lễ tơn giáo, thường được xây dựng lộ thiên dựa vào sườn núi.
Cơng trình tiêu biểu: Kịch trường Delphin.(Hình 2)
II.5.3 Kiến trúc hành chính: Do u cầu của nền dân chủ chủ nơ nên nhu cầu
hội họp làm phát sinh nhiều loại cơng trình như: phòng họp của những người trúng
cử, phòng họp cơng chúng và người ứng cử...(Hình 20)
II.5.4 Kiến trúc thể dục thể thao: Sân vận động, Trường đua ngựa, Thao
trường, Trường dạy thể dục thể thao.(Hình 07,08,09)
II.5.5 Kiến trúc lăng mộ: Lăng mộ nổi tiếng nhất trong các lăng mộ là lăng
Mausoleum tại Halicarnassos, từ đó từ mausoleum trở thành từ chỉ chung các cơng
trình lăng mộ.
II.5.6 Kiến trúc nhà ở và cung điện: Cung điện thời Hy Lạp cổ đại ít được
chú ý tới. Người Hy lạp chủ yếu sinh hoạt tại nơi cơng cộng và các đền đài, vì vậy
nhà ở cũng rất khiêm tốn. Các cơng trình ở thường được xây dựng phát triển theo
chiều cao (2 tầng), mặt bằng gồm các phòng bao quanh các sân trong nhỏ.
II.6 Các thủ pháp tạo hình trong kiến trúc và điêu khắc:
II.6.1 Tỉ lệ vàng: Tỉ lệ vàng xuất hiện trong nhiều nền văn hóa. Ở Hy Lạp,
Pythagoras đã đề xuất vào thế kỷ VI trước Cơng ngun. Tỉ lệ vàng đã được sử dụng
rộng rãi trong kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp. Sự ứng dụng này tạo ra những tác
phẩm thõa mãn tính cân bằng và chặt chẽ, hài hòa trong sắp xếp, bố cục thẩm mỹ.
Đồng thời tạo tiền đề cho các ứng dụng về sau như Vitruvius man (La Mã). (Hình 13)
II.6.2 Kích thước hồng tráng so với con người: Các cơng trình tơn giáo có kích
thước to lớn đồ sộ với ý nghĩa là ngơi nhà của các vị thần. Tạo ra bố cục hồnh tráng
và át chế sự nhỏ bé của con người. (Hình 17)
II.6.3 Thủ pháp thị giác: Với một cơng trình đơn giản về hình khối như
Pathenon. Các nhà khảo cổ đã chỉ ra một số thủ pháp thị giác để tăng cường hiệu
quả thẩm mỹ đầy tinh tế như: Các cột ở góc có đường kính hơi lớn hơn một chút. Bệ
đỡ hàng cột có độ cong lên phía trên về phía trung tâm 60 mm (2,36 inch) về đầu
phía Đơng và phía Tây, và 110 mm (4,33 inch) ở hai bên. Hiệu ứng của đường cong
tinh tế này làm đền thờ có vẻ cân đối hơn là cách nhìn thật về nó. (Hình 13)

II.6.4 Thức cột (Hình 11,12)
Thức cột là hệ thống tỷ lệ và hình thức trang trí cột, là cách người Hy Lạp cổ đại tìm
kiếm đến cái đẹp lý tưởng. Có 3 loại thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột
Doric, cột Ionic và cột Corinth. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc
một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng
7
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Thức cột Hy Lạp
được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.


Thức cột Doric:
Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản
nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ một
trụ thẳng đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này khơng có phần đế cột
(base) lẫn khơng có phần đầu cột (capital). Vẻ đẹp thức cột này thường được
so sánh với vẻ đẹp khỏe mạnh của người đàn ơng cường tráng và có khả
năng chịu lực cao nhất (về sau thời La Mã nó được sử dụng ở tầng dưới cùng
của đấu trường Coliseum). Tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột khoảng 1:4.



Thức cột Ionic:
Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột

Doric. Nguồn gốc cột Ionic là Ionia, thuộc địa của Hy Lạp. Cột Ionic có 24 gờ
sống đứng trong khi cột Doric chỉ có 20 gờ, tỷ lệ đường kính cột trên chiều
cao cột là 1:9. Ngồi ra, cột này có thêm đế cột (base) ở phía dưới và đầu cột
có hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe ra rồi cuộn vào trong (volute).
Các dầm ngang của cột Ionic được phân vị theo chiều ngang thành ba dải.
Các ngơi đền có cột này là đền Artemis ở Ephesus (Έφεσος), đền thờ Apollo
Epikourios ở Bassae (Βασσές, Bassaes), đền Erecteyon ở Athena.



Thức cột Corinth:
Thức cột Corinth ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Cơng
ngun, có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa
lệ, giống như một lẵng hoa kết hợp cùng với mấy tầng là phiên thảo diệp
(acanthe). Thức cột này do kiến trúc sư Callimachus sáng tạo ra. Cột này có ưu
điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được trong
khơng gian. Có thể thấy cơng trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở
Athena và đền Apollo ở Bassae.

Các loại cột trên sau này được người La Mã cổ đại kế thừa và phát triển, đồng
thời sáng tạo thêm hai loại thức cột mới là Toscan và Composite.
Các thức cột Hy Lạp là sự biểu trưng đầy chuẩn mực cho nền kiến trúc Hy Lạp
cổ đại. Cũng như kiến trúc Hy Lạp cổ đại có thể xem là ngun khởi cho kiến trúc
Châu Âu mãi về sau. Hơn thế nữa, thị hiếu ấy vẫn tồn tại và áp dụng cho đến ngày
nay, cũng như nhiều phương pháp và ý tưởng vẫn được tiếp nối, nhiều bí ẩn vẫn
được phát hiện như những món q đáng giá cho các nhà nghiên cứu kiến trúc Hy
Lạp cổ đại.

8
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại



Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang
g _ MSSV: 10LT044

II.6.5 Sự
ự đa dạng trong kiến
n trúc đền thờ
t Hy Lạp
p:
Đền thờ Hy Lạp cổ
c đại có đặc
đ điểm là
à nhiều cột chạy vòng
g phía bên ngồi. Cácc loại
ền đài đượ
ợc phân the
eo mức độ phức tạp của cách thiết kế nhữ
ững cột đó
ó như
hình đề
sau:


Loại đền cổ
c nhất có dạng hình chữ nhật, lối vào chíính ở cạnh ngắn và có
c hai
cột ở chính cạnh ngắ

ắn này, gọii là dạng cột đơi ở hiên (Distyle
e); ví dụ như ngơi
hần Themiss ở Rhamnus.
đền thờ th

Mặt bằng đền thờ dạ
ạng Distyle
e



Loại đền cổ
c thứ hai có
c dạng nh
hư trên, nh
hưng có thê
êm hai cột ở cạnh ng
gắn
phía sau nữa,
n
gọi là dạng
d
cột đơi
đ ở hiên cả
c hai đầu ; ví dụ đền
n thờ Artem
mis
ở Eleusina (Ελεύσινα
α).


ạng Distyle
e cột ở hai phía
Mặt bằng đền thờ dạ


Loại đền giống
g
loại đền
đ thứ nh
hất, nhưng thay vì hai cột mà là bốn cột ở phía
trước, gọi là dạng hà
àng cột mặ
ặt trước hay hàng cộtt hiên (Prosstyle); ví dụ
ụ ngơi
οΰς).
đền ở Selinus (Σελινο



ạng Prostyyle
Mặt bằng đền thờ dạ

9
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiế
ến trúc Hy
y Lạp cổ đ
đại


Bài tiểu luận



Phạm Nhuệ Giang
g _ MSSV: 10LT044

Loại đền giống
g
loại đền
đ thứ ha
ai, nhưng có bốn cột ở cạnh ngắn phía trư
ước và
bốn cột ở cạnh ngắn
n phía sau, gọi là loại hàng cột cả hai đầu (Amphi-Prostyle)
(tiền tố "am
mphi" có nghĩa
n
là "cả
ả hai phía").



Mặt bằng đền thờ dạ
ạng Amphi-prostyle



Loại đền hình
h
tròn, vành
v

ngồi có hàng cột
c vòng quanh gọi là
à nhà tròn có
hàng cột bao
b quanh (Tholos); ví
v dụ Tholo
os ở Epidau
urus (Ἐπίδα
αυρος).



Loại đền hình
h
chữ nh
hật có tườn
ng chịu lựcc là chính, nhưng
n
mặtt ngồi tườ
ờng
ghép thêm
m các cột, gọi
g là loại đền
đ có cácc hàng cột giả bao qu
uanh hay bổ
b trụ
bao quanh
h (Pseudo-Peripteral)); ví dụ đền
n thờ thần Zeus ở Olyympia (Ολυ
υμπία).




Loại đền hình
h
chữ nh
hật có mộtt hàng cột chạy ở vàn
nh ngồi ch
hu vi cơng trình,
gọi là loại đền có cácc hàng cộtt bao quanh (Peripterral); ví dụ đ
đền Hephaestos
(hay These
eio - Θησείίο) và đền Parthenon
n (Παρθενώ
ώνας) ở Atthena (Αθή
ήνα,
Athína), đề
ền Paestum
m...

10
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiế
ến trúc Hy
y Lạp cổ đ
đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044


Mặt bằng đền thờ dạng Peripteral


Loại đền hình chữ nhật, có hai hàng cột chạy bao xung quanh cơng trình, có
tên gọi là đền Dipteral; ví dụ đền Olympeion ở Athena, đền thờ Apollo
ở Miletos (Μίλητος)...

Mặt bằng đền thờ Hy Lạp cổ đại được tạo thành bởi ba thành phần chính: pronaos
(tiền sảnh), naos (gian thờ) và pathenon (phòng để châu báu). Ngồi ra, trong một số
đền còn có thêm opisthodomos (hậu sảnh).
Vẻ đẹp của đền đài Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự ra đời và phát triển của các loại
thức cột. Yếu tố bản địa và sự nỗ lực sáng tạo của người Hy Lạp cổ đại đã cho chúng
ta thấy rõ trong thể loại kiến trúc đền thờ. Dù khơng gian thờ phụng khá tương
đồng và đơn điệu, sự khác biệt giữa các ngơi đền thờ của những vị thần khác nhau
cả về qui mơ cũng như hình thức là rất cần thiết. Hơn nữa, cần cả sự khác biệt giữa
đền thờ các vị thần của những thành bang khác nhau, điều này quan trọng với lòng
tự hào cơng dân thành bang. Và kết quả, chúng ta thấy được những nỗ lực sáng tạo
phong phú cho thể loại kiến trúc đền thờ như đã trình bày ở trên.
(Hình 15,16,17,18,19)

11
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

III. KẾT LUẬN:

Trong việc nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa, thành tựu vật chất có giá
trị như những bằng chứng đáng giá. Dù là những mảnh vụn khơng tồn vẹn của một
tác phẩm nghệ thuật, những dụng cụ sinh hoạt đời thường, những phế tích hoang
tàn cũng đáng để các nhà nghiên cứu dụng cơng khám phá hoặc để xác tín những
nhận định trước đó.
Qua việc tìm hiểu nghệ thuật tổ chức đơ thị và kiến trúc Hy lạp cổ đại, chúng
ta nhận thấy rằng trong quan niệm của người Hy Lạp cổ đại thiết chế xã hội cộng
đồng mang tính địa phương rõ rệt, các đơ thị ln được tổ chức và xây dựng sao cho
phù hợp với điều kiện tự nhiên, với đặc điểm xã hội và kinh tế của từng địa phương.
Các đơ thị thành bang ấy vừa dị biệt, vừa tương đồng, có đặc điểm riêng dễ nhận
12
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại


Bài tiểu luận

Phạm Nhuệ Giang _ MSSV: 10LT044

diện và ln có sự cạnh tranh để phát triển. Đơ thị đã trở thành cơng cụ văn hóa để
qua đó con người nỗ lực đạt được một khái niệm cộng đồng đầy đủ hơn, là cơng sức
tập thể xuất phát từ ý thức xây dựng cuộc sống cộng đồng thơng qua một thiết chế
dân chủ tiến bộ. So với xã hội giai cấp của Châu Á cùng thời điểm thì đây quả là một
sự độc đáo riêng có của các thành bang Hy Lạp.
Tín ngưỡng đối cới dân Hy Lạp cổ đại có vai trò quan trọng thể hiện những
khát khao, sự cầu thị và nỗ lực vươn tới của con người. Các vị thần của mỗi thành
bang nói lên khát vọng của dân chúng về nhóm phẩm chất ưu việt mà họ muốn
hướng tới. Điều này làm nên sắc thái bản địa rõ nét của đơ thị thành bang. Đồng thời
thơng qua đó, chúng ta cũng trả lời được câu hỏi tại sao kiến trúc đền thờ của Hy
Lạp cổ đại phong phú về chủng loại và qui mơ. Đó chính là vì nhu cầu khẳng định
yếu tố bản địa cũng như khát vọng tiến bộ và phát triển của con người đã thúc đẩy

sự sáng tạo khơng ngừng.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được sự khéo léo, tài tình của dân Hy Lạp cổ
đại trong việc chung song hòa hợp với tự nhiên và khai thác tự nhiên. Cũng như sự
khơn ngoan và duy lí của họ trong việc học tập tiến bộ của các dân tộc khác, cũng
như sự gạn lọc q khứ và kế thừa q khứ. Để rồi kết quả mà họ có được chính là
những thủ pháp kiến trúc, những thâm thúy về tỉ lệ kiến tạo chặt chẽ và hồnh tráng,
sự hiệu quả trong tổ chức sản xuất, tổ chức xã hội. Kiến trúc và nghệ thuật Hy Lạp cổ
đại đã xứng đáng là ngun khởi cho kiến trúc châu Âu, cũng như những giá trị nghệ
thuật tạo hình và chủ đề nhân văn về con người một lần nữa đã quay trở lại ở thời
Phục Hưng. Người Hy Lạp đã giải quyết rất nhiều tiền đề, làm nền cho văn minh
châu Âu phát triển, cũng như những ý thức, tầm nhìn và định liệu chiến lược phát
triển bền vững của họ thật đáng để chúng ta nhìn lại khi phải đối mặt với những khó
khăn trong thế giới ngày nay.

13
Những thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc Hy Lạp cổ đại



×