Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết truyền kỳ viết bằng chữ hán của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.66 KB, 91 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu thuyết là một trong những thể loại quan trọng bước đầu của nền văn học
viết. Tiểu thuyết chữ Hán của Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của nền văn
học Trung Quốc từ nội dung đến thể loại, kế thừa lối chép sử ghi lại những sự kiện
quan trọng của các triều đại phong kiến, các danh nhân lịch sử văn hóa, những bước
ngoặc trọng đại của một quốc gia một dân tộc. Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam dần
tách ra với tiểu thuyết Trung Quốc và có được nhiều thành tựu nhất định. Bước vào
thế kỷ XV và đến cuối thế kỷ XVII đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của thể
loại truyện ngắn nói chung và tiểu thuyết truyền kỳ nói riêng với hai tác phẩm để lại
tiếng vang là Thánh Tông di Thảo của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ. Đã mở đầu cho sự manh nha phát triển của tiểu thuyết chữ Hán Việt
Nam giai đoạn này. Với 7 tiểu loại của tiểu thuyết chữ Hán: bút ký, chí quái, truyền
kỳ, lịch sử, công án, diễm tình và du ký. Mặc dù là thể loại tiểu thuyết không được
xem trọng trong nền văn học chính thống lúc bấy giờ nhưng tiểu thuyết truyền kỳ
đã thu hút không chỉ sự quan tâm của độc giả đương thời mà cả những độc giả ở
giai đoạn sau. Các tác giả giai đoạn này tập trung viết truyện truyền kỳ với số lượng
nhiều nội dung vô cùng phong phú và đa dạng. Có thể kể đến một số tập truyền kỳ
tiêu biểu như: Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm
Quý Thích, Vân nang tiểu sử của Phạm Đình Dục…Viết truyện truyền kỳ các tác
giả hướng đến những điều mới lạ mà ở thực tại không tìm ra được vì thế bằng cách
vận dụng các yếu tố “kỳ” để hướng đến một thế giới mà mọi người có thể gửi gắm
ước vọng của mình vào đó. Tiểu thuyết truyền kỳ hàm chứa được nhiều nội dung,
các tác giả giai đoạn này có thể thể hiện nỗi niềm, tâm tư tình cảm của bản thân đặc
biệt là ở những tác giả nữ bởi dưới chế độ phong kiến khắc khe con người chưa
được quyền thể hiện cái tôi cá nhân của mình một cách mạnh mẽ. Không dừng ở đó,
tiểu thuyết truyền kỳ với những tập truyện ra đời mấy trăm năm nhưng thể hiện
những nội dung vô cùng phong phú.
Được tiếp xúc với thể loại tiểu thuyết truyền kỳ qua một số tác phẩm tiểu
thuyết kể trên người viết bị thu hút bởi nội dung phong phú, câu chuyện ngắn gọn



1


nhưng hàm chứa những ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, đã thôi thúc người viết chọn đề tài
này để tiếp tục tìm hiểu về thể loại tiểu thuyết truyền kỳ bởi thể loại truyền kỳ mang
đến cho người đọc nhiều điều mới lạ về mặt nội dung lẫn thể loại. Về nội dung và
nghệ thuật, tìm hiểu một số tập truyền kỳ tiêu biểu qua đó có cái nhìn một cách tổng
quan hơn về thể loại tiểu thuyết này. Người đọc nhận thấy đây là vấn đề ít được đề
cập đến và tiểu thuyết truyền kỳ chứa đựng nhiều vấn đề về văn hóa, chính trị của
thời đại, nhiều vấn đề mới lạ của cuộc sống mà con người không tìm đến được nên
mượn các câu chuyện truyền kỳ nhằm thể hiện ước mơ và quan điểm của mình. Đã
có một số nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu các tác tập truyện của tiểu thuyết
truyền kỳ ở những phương diện khác nhau. Nên cùng với việc tham khảo các công
trình nghiên cứu đó người viết thấy được sự phong phú về nội dung, đa dạng về
nghệ thuật mà các nhà nghiên cứu trước đã chỉ ra từ các tác phẩm truyền kỳ, từ đó
người viết có thêm nguồn tư liệu để tiếp tục nghiên cứu hoàn thành đề tài của mình.
Chọn đề tài “Nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết truyền kỳ viết bằng chữ Hán
của Việt Nam”, người viết mong góp một phần công sức để bổ sung thêm những
vấn đề mà người viết tìm ra thông qua việc tìm hiểu đề tài này, đút kết và khái quát
một số vấn đề mà các nhà nghiên cứu trước đã nói đến hoặc chưa đề cập tới.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ra đời từ rất sớm, các tập tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán đã có những ảnh
hưởng sâu rộng đến nền văn học Việt Nam nhất là giai đoạn văn học trung đại.
Ngoài ra, trong lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học thì vấn đề tìm hiểu tiểu
thuyết truyền kỳ bằng chữ Hán của Việt Nam cũng được các học giả trong và ngoài
nước quan tâm.
Đối với đề tài này, người viết nhận thấy tiểu thuyết chữ Hán và nhất là thể loại
tiểu thuyết truyền kỳ là những vấn đề đã được giới nghiên cứu và các nhà phê bình

tìm hiểu và khai thác. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu còn mang tính nhỏ
lẻ, hầu hết là những bài nghiên cứu về một tác phẩm nằm trong thể loại tiểu thuyết
truyền kỳ hoặc nhận định về một tác phẩm nào đó. Ngoài ra, trên các tạp chí như là
Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Văn học và trong các luận văn thạc sĩ, các bài viết của
các giáo sư, tiến sĩ cũng có những bài viết có đề cập đến các khía cạnh của đề tài mà
người viết nghiên cứu. Những bài viết nêu lên một cách khái quát nhận định chung

2


về một tác phẩm hoặc một tác giả nằm trong thể loại truyền kỳ. Các công trình
nghiên cứu hay các bài viết đều có giá trị riêng góp phần bổ sung lí giải các vấn đề
liên quan đến đề tài nhất là các bài nghiên cứu về các tác phẩm trong thể loại tiểu
thuyết truyền kỳ. Bên cạnh đó, cùng với sự phổ biến của mạng internet ngày nay,
người viết tìm được một số bài viết có liên quan trên các trang mạng, báo và tạp chí
online. Nhìn chung, các bài viết đã đưa ra các nhận định về vấn đề ở một số khía
cạnh nhất định. Trên cơ sở đó, người viết tóm lược những nội dung, những nhận
định mà các nhà nghiên cứu trước đã tìm hiểu, người viết trích dẫn những nhận định
sau:
Trong Tạp chí văn học (1995), Jean Hyae Kyeong đã có bài viết So sánh thể
loại tiểu thuyết truyền kỳ của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam (qua ba tác phẩm
Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục) đã nói đến sự ảnh
hưởng của truyền kỳ Trung Quốc đến các quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam và Hàn Quốc qua ba tác phẩm kể trên.
Năm 1997, Viện nghiên cứu Hán Nôm đã cho xuất bản cuốn Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam gồm bốn tập, trong đó ở tập một có đề cập đến thể loại
tiểu thuyết truyền kỳ, là một trong bảy loại nhỏ của tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam:
“Loại tiểu thuyết này ra đời và phát triển trên cơ sở tiểu thuyết chí quái, nhưng
khác với chí quái ở chỗ tác giả truyền kỳ sử dụng “hư bút” một cách hoàn toàn chủ
động, có ý thức. Nếu công việc chủ yếu của chí quái là biên chép, nhằm lưu lại cho

đời một chuyện lạ có ý nghĩa răn khuyên, thì công việc chủ yếu của truyền kỳ lại là
“sáng tác”, mượn câu chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự người cầm bút”.[13, tr
14]
Đến năm 2010, trong Tạp chí văn học số 1, Đoàn Lê Giang có bài nghiên
cứu đề cập đến thể loại truyền kỳ trong văn học Á Đông. Ông có nhận định rằng:
“Truyện truyền kỳ khác với chí quái: truyện chí quái vẫn rất gần với cổ tích, nó coi
trọng cốt truyện chứ ít để ý đến văn, hơn nữa nó ngắn và hầu như không có tác giả.
Truyền kỳ là sáng tác văn học của một tác giả, có dấu ấn cá nhân rất rõ, chú trọng
ở văn chương, rất gần với tiểu thuyết sau này”[5, tr. 43].
Và gần đây nhất vào năm 2011, bài viết của Bùi Thanh Truyền được in trong
Tạp chí văn học số 3 với nhan đề Hành trình của nhân vật ma trong văn học Việt

3


Nam đã đưa ra những quan niệm về hồn ma trong văn học cũng như trong đời sống
tâm linh con người thông qua một số tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ. Đồng thời
ông cũng nhận định: “Ma quỷ thần quái là nét đặc trưng cơ bản của truyền kỳ
trung đại. Nếu xếp các truyện Truyền kỳ mạn lục, Thánh Tông di thảo, Lan trì kiến
văn lục, Vân nang tiểu sử, Truyền kỳ tân phả…cạnh nhau, người ta sẽ không khỏi
ngạc nhiên trước một thế giới ma phong phú, nhiều màu vẻ”.[26, tr. 15]
Đây là các nhận định của một số nhà nghiên cứu về thể loại tiểu thuyết
truyền kỳ. Liên quan đến các tác phẩm người viết tìm hiểu trong đề tài này thì còn
có một số các bài viết, nhận định của các nhà nghiên cứu về các tác phẩm cụ thể mà
người viết có đề cập đến trong đề tài của mình.
Truyền kỳ mạn lục - một tác phẩm đặt nền móng cho truyện truyền kỳ Việt
Nam có một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như:
Công trình nghiên cứu đầu tiên là bài nghiên cứu của Bùi Duy Tân có tựa đề
Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán được in
trong quyển Văn học Việt Nam (thế kỷ thứ X nửa đầu thế kỷ thứ XVIII) đã đánh giá:

“Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị. Giá trị ấy chủ yếu là ở sức mạnh
tố cáo những tệ lậu của chế độ phong kiến, ở sự tin tưởng vào phẩm giá con người
và ở tấm lòng thông cảm với nỗi đau khổ và niềm mơ ước của nhân dân. Giá trị ấy
lại còn là ở những thành tựu của thể loại tự sự nói riêng, của văn học dân tộc viết
bằng chữ Hán.”[16, tr. 273]
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam (1980), các nhà nghiên cứu đã đánh
giá: “Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được nhiều tác gia ngày xưa ca ngợi là
“thiên cổ kỳ bút”, “thiên cổ kỳ thư”. Xét cho kỹ thì Truyền kỳ mạn lục quả là một
thành công xuất sắc, một cái mốc quan trọng trên con đường phát triển của thể loại
tự sự trong văn học.”[28, tr. 270]
Tập truyện Truyền kỳ mạn lục được đánh giá cao, có giá trị trong tiến trình
phát triển của nền văn học viết Việt Nam “Truyền kỳ mạn lục là kết quả của quá
trình phát triển lâu dài của thể loại tự sự trong văn học Việt Hán. Truyền kỳ mạn
lục đã nảy sinh trên nền tảng của những thành tựu đạt được trong văn hóa, văn học
dân gian. Nhưng nguyên nhân sâu xa mà lại trực tiếp của sự xuất hiện Truyền kỳ
mạn lục là nhu cầu phản ánh của văn học trong thời kỳ lịch sử này”[28, tr. 271]

4


Ngoài các bài viết tập trung nghiên cứu về nội dung của tác phẩm thì công
trình nghiên cứu của Trần Ích Nguyên với nhan đề : Nghiên cứu so sánh “Tiễn
đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn lục” chủ yếu đề cập đến mối tương đồng và dị
biệt giữa các truyện trong hai tập truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và Tiễn
đăng tân thoại của Cừu Hựu. Bài nghiên cứu đã nêu lên tác dụng phản ánh hiện
thực của tác phẩm “thông qua tác phẩm, chúng ta biết được Việt Nam cũng từng có
một thời không yên ổn và một xã hội loạn li”
Luận văn thạc sĩ của Đinh Văn Sự với đề tài Đặc điểm nghệ thuật trong
truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã đánh giá: “Truyền kỳ mạn lục chịu ảnh
hưởng của những sáng tác dân gian và văn xuôi lịch sử dân tộc. Do được sáng tác

theo thể truyền kỳ, tập truyện này chịu ảnh hưởng bởi những đặc trung của thể loại
truyền kỳ thời trung đại trong văn học Trung Quốc nói riêng và văn học Đông Nam
Á nói chung.”[21, tr. 84]
Một luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập đến tập truyện Truyền kỳ mạn lục ở khía
cạnh tâm linh là thạc sĩ Lê Thành Trung, với đề tài “Yếu tố tâm linh trong Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ”đã đề cập đến vấn đề tâm linh thông qua tác phẩm từ đó
rút ra những bài học giáo dục nhân cách, đem đến cho con người niềm tin vào thế
giới thiêng liêng, tâm linh luôn tồn tại xung quanh con người, nhắc nhở con người
sống có đạo lí vì ở đời có luật nhân quả.
Một số các công trình nghiên cứu về các tác phẩm khác nằm trong thể loại
tiểu thuyết truyền kỳ mà người viết có đề cập đến sau:
Tập Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông được Nguyễn Sĩ Cần và Hoàng
Ngọc Trí đề cập đến trong quyển Văn học Việt Nam (Từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ
XVIII) là: “Riêng truyện văn xuôi chữ Hán, tập Thánh Tông di thảo tương truyền
của ông nhưng vì là “di thảo” do người đời sau sưu tập, sắp xếp nên có thể lẫn lộn
một số truyện của người khác nên giới nghiên cứu sử dụng rất dè dặt, sợ nhầm
truyện người khác hoặc là truyện của nhà vua mà do người đời sau ghi chép lại có
sửa chữa cho hiện đại hơn.”[16, tr. 447]
Bên cạnh những tác phẩm kể trên thì tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam còn có sự
đóng góp vô cùng quan trọng của một văn tài là Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm với
tập truyện Truyền kỳ tân phả, tập truyện được giới nghiên cứu đương thời đánh giá

5


cao và có giá trị mãi đến ngày nay. Không chỉ có đóng góp trong nền thơ văn chữ
Nôm với Chinh phụ ngâm mà bà còn có tác phẩm bằng chữ Hán là tập truyện
Truyền kỳ tân phả, đây là tập truyện được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến tuy nhiên
các công trình nghiên cứu chỉ tập trung vào nội dung của tác phẩm chưa nói nhiều
đến giá trị của tác phẩm so với nền văn học chữ Hán nói chung và thể loại tiểu

thuyết truyền kỳ nói riêng. Trong quyển Tổng tập văn học Việt Nam đã đề cập đến
nội dung của tập truyện này: “Truyền kỳ tân phả là tập truyện có chủ đề nhất quán
ca ngợi tình yêu và đề cao đạo đức, tài năng của người phụ nữ. Chủ đề tư tưởng
như vậy đã làm cho tác phẩm này mang ý nghĩa xã hội đậm nét. Đây là thành công
căn bản của tập truyện”[24, tr. 454]
Luận văn thạc sĩ của Lê Thị Mỹ Xuyên Tìm hiểu Truyền kỳ tân phả của Đoàn
thị Điểm đã rút ra nội dung chính của tác phẩm là ca ngợi nhân vật người phụ nữ
với những phẩm chất tiêu biểu như chung thủy, hi sinh, chịu đựng và đặc biệt là tài
năng. Qua đó phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời mà người phụ nữ
phải gánh chịu đồng thời thể hiện ước mơ về hạnh phúc cá nhân của con người nhất
là đối với người phụ nữ.
Như vậy, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tác phẩm
tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Nhìn chung
các công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc khai thác, đào sâu nội dung của từng
tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết truyền kỳ một cách riêng lẻ chưa có các bài
nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về thể loại này. Từ việc tham khảo
những công trình nghiên cứu trước người viết có được những gợi ý quý báo về các
mặt như nội dung, nghệ thuật, thể loại…để qua đó người viết tổng hợp và mạnh
dạng nghiên cứu hoàn thành đề tài của mình.

3. Mục đích nghiên cứu
Ở mỗi công trình nghiên cứu nào mục đích nghiên cứu cũng có vai trò vô cùng
quan trọng. Việc xác định mục đích nghiên cứu giúp người viết có hướng đi đúng
đắn, xác định rõ được vấn đề cần nghiên cứu từ đó đi sâu vào tìm hiểu một cách
tường tận nhất. Với đề tài Nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán
Việt Nam người viết hướng đến những mục đích sau:

6



Thông qua quá trình nghiên cứu đề tài người viết tìm hiểu về nội dung, các
vấn đề hiện thực xã hội Việt Nam thời phong kiến được phản ánh trong tác phẩm,
vấn đề tình yêu đôi lứa, hình ảnh người phụ nữ và những danh nhân lịch sử văn hóa
cũng được đề cập đến một cách rõ nét.
Tìm hiểu về khía cạnh nghệ thuật của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ để thấy
được những thành tựu độc đáo mà thể loại tiểu thuyết này mang lại. Khảo sát một
số tiểu thuyết truyền kỳ tiêu biểu để làm nổi bật lên nghệ thuật của thể loại tiểu
thuyết truyền kỳ và những đóng góp của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ đối với nền
văn học trung đại Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của một đề tài đóng một vai trò không kém quan trọng
đến việc thành công của một công trình nghiên cứu. Việc xác định và giới hạn đúng
phạm vi nghiên cứu sẽ giúp người viết tránh sự lang man dài dòng, không đi đúng
vào nội dung của đề tài cần nghiên cứu. Với đề tài Nội dung và nghệ thuật tiểu
thuyết truyền kỳ viết bằng chữ Hán của Việt Nam người viết tập trung tìm hiểu về
nội dung và nghệ thuật qua một số tiểu thuyết truyền kỳ tiêu biểu như :Truyền kỳ
mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ 阮嶼, Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜 của Đoàn
Thị Điểm 团氏點, Thánh Tông di thảo 聖宗遺草 của Lê Thánh Tông 黎聖宗 .
Nguồn tư liệu để người viết làm cơ sở văn bản của tác phẩm là quyển Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam gồm 4 tập do Trần Ngĩa dịch và Viện nghiên cứu Hán
Nôm phát hành. Tuy nhiên do hạn chế về kến thức chữ Hán và không tiếp cận được
với nguyên văn bản gốc của các tác phẩm nên người viết chỉ khảo sát tìm hiểu dựa
trên bản dịch phổ biến nhất hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi thể loại văn học có những đặc trưng khác nhau nên góp phần vào sự thành
công của đề tài nghiên cứu là có được phương pháp nghiên cứu phù hợp với đề tài và thể
loại văn học đó. Vì vậy, với đề tài “Nội dung và nghệ thuật tiểu thuyết truyền kỳ viết
bằng chữ Hán của Việt Nam” này người viết sử dụng những phương pháp cụ thể sau:

Phương pháp so sánh – đối chiếu: đây là một phương pháp quan trọng trong suốt
quá trình nghiên cứu đề tài. Bằng việc so sánh đối chiếu các tác phẩm giúp người viết đi
sâu tìm hiểu từng khía cạnh của vấn đề.

7


Phương pháp phân tích - tổng hợp: đây là một phương pháp không kém phần quan
trọng. Dựa vào một số nhận xét đánh giá của các nhà phê bình, nghiên cứu và phân tích
trên văn bản tác phẩm mà người viết đưa ra những nhận xét đánh giá của mình để bài
viết mang tính khoa học và thuyết phục hơn.
Song song đó, người viết cũng sưu tầm các tác phẩm tiểu thuyết truyền kỳ tiêu biểu,
đọc và rút ra những nội dung được thể hiện thông qua tác phẩm. Phân tích để tìm hiểu
chi tiết về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó có cái nhìn khách quan hơn
để đạt hiệu quả cao hơn trong quá trình nghiên cứu đề tài này.

8


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIỂU THUYẾT CHỮ
HÁN VÀ TIỂU THUYẾT TRUYỀN KỲ
1.1.

Khái quát tiểu thuyết và tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam

1.1.1. Giới thuyết về tiểu thuyết
Tiểu thuyết (小說) theo văn tự Hán được hiểu là lấy lời nói để giải thích rõ
sự vật gì ra, hay lấy lời nói để thuyết phục người ta theo mình. Tiểu thuyết là một
thể loại đã xuất hiện từ rất lâu ở Trung Quốc, ở Việt Nam và các nước phương

Đông chịu ảnh hưởng sâu sắc thể loại tiểu thuyết của nước này. Theo Phương Lựu
thì “Ở Trung Quốc, chữ “tiểu thuyết” xuất hiện lần đầu tiên trong Ngoại thiên,
sách Trang Tử, mang hàm nghĩa như một học thuật chứ chưa phải là sáng tác văn
học”[9, tr. 251]. Và Ban Cố cho rằng: “Loại tiểu thuyết gia xuất thân từ hạng quan
nhỏ, nghe các lời nói nơi thôn cùng ngõ hẻm, khắp các nẻo đường mà viết nên thể
loại tiểu thuyết vì thế vào thời kỳ này thể loại tiểu thuyết không được xem trọng”.
Giai đoạn này thơ, từ, phú là văn học “chính thống” còn tiểu thuyết và kịch là “tà
thống”. Đến thế kỷ XV thì có nhiều bộ tiểu thuyết ra đời, cách nhìn nhận về thể
loại này cũng có nhiều thay đổi. Phùng Mộng Long cho rằng “Ngoài lục kinh,
quốc sử, phàm những trước thuật khác đều gọi là tiểu thuyết”, đến Hồ Ứng Lân
khẳng định “Tiểu thuyết là sách của bọn tài tử”[9, tr. 251] nhằm đề cao vai trò của
tiểu thuyết. Có thể thấy rằng, thể loại tiểu thuyết dần được con người tiếp nhận và
có bước phát triển qua từng thời kỳ. Mầm mống tiểu thuyết ở Trung Quốc xuất
hiện khá sớm dưới dạng “chí quái”, “chí nhân” ghi chép những chuyện quái dị.
Người Trung Quốc xưa chia tiểu thuyết thành ba loại là: đoản thiên tiểu thuyết,
trung thiên tiểu thuyết và trường thiên tiểu thuyết. Đây là ba loại tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc đã có quá trình hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn. Quan
niệm tiểu thuyết của Trung Quốc có ảnh hưởng không chỉ đến Việt Nam mà còn
đến các quốc gia ở Đông Nam Á như Nhật Bản, Triều Tiên.
Trong giai đoạn sơ khai của thể loại tiểu thuyết Việt Nam, ta đã có một số
truyện ngắn viết bằng văn xuôi chữ Hán có thể xem đó là tiểu thuyết như Lĩnh nam

9


chích quái, Việt điện u linh, Thượng kinh ký sự, Hoàng Lê nhất thống chí. Đó là
những câu chuyện văn xuôi viết về những nhân vật là anh hùng, liệt nữ, những con
người có tài đức phi thường nhằm mục đích giáo huấn đạo đức con người. Theo
thời gian tiểu thuyết ngày càng có giá trị và dần phát triển thành một thể loại văn
học. Nước ta kế thừa thể loại tiểu thuyết từ đó và dần xác định được thể loại riêng

của dân tộc. Đến ngày nay thì tiểu thuyết được hiểu là một thuật ngữ chỉ thể loại
tác phẩm tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá
trình hình thành và phát triển của nó. Biêlinxki gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời
tư” [7, tr. 1716]. Giáo sư Trần Đình Sử quan niệm “Tiểu thuyết là hình thức tự sự
cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng
rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc
đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh
hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều
thể loại tiểu thuyết chiếm địa vị trung tâm trong hệ thống thể loại văn học hiện
đại” [10, tr. 225]. Thể loại tiểu thuyết được hình thành qua một quá trình vận động
lâu dài. Và trên cơ sở tổng hợp nhiều quan niệm về tiểu thuyết khác nhau, để phù
hợp với vấn đề mà người viết nghiên cứu, có thể khái niệm tiểu thuyết theo nhận
định sau của Trần Nghĩa: “Ấy là một thể loại văn học lớn mà đặc trưng cơ bản là
thông qua việc miêu tả các tình tiết câu chuyện và hoàn cảnh cụ thể để khắc họa
tính cách nhân vật, nhằm phản ánh cuộc sống xã hội muôn màu muôn vẻ. Thế
mạnh của tiểu thuyết so với các thể loại khác là ở chỗ bút pháp thường linh hoạt,
đa dạng và không bị hạn chế bởi không gian, thời gian”.[14, tr.5].

1.1.2. Nguồn gốc tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam
Sự hình thành của thể loại tiểu thuyết Việt Nam đặc biệt là thể loại tiểu thuyết
chữ Hán đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn chương của dân tộc. Đây
là một thể loại mà nguời Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc nhưng cũng
có sự kế thừa chọn lọc và có những bước phát triển riêng, có nét riêng của thể loại
nước nhà.
Tiểu thuyết chữ Hán và nhất là thể loại tiểu thuyết truyền kỳ ra đời là sự kết
hợp và kế thừa của nhiều thể loại khác và trải qua một quá trình vận động lâu dài,
do giao lưu văn hóa, văn học giữa các nước trong khu vực mang lại. Nếu ta xét về

10



sự vận động bên trong thì các thể loại tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ và chương hồi
của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của thần thoại, truyền thuyết và truyện cổ tích.
Các thể loại văn học dân gian này được phổ biến do quá trình truyền miệng là chủ
yếu, không ghi chép nhiều vào sách vở nhưng đã ăn sâu vào lòng dân. Hình thức
truyền miệng này đã cung cấp nhiều đề tài phong phú, nguồn cảm hứng cho tiểu
thuyết và đặc biệt là tiểu thuyết truyền kỳ và chí quái. Nhân vật trong các loại tiểu
thuyết này là các nhân thần, yêu quái, người, động vật, sơn thần, thủy thần...như
trong các tiểu thuyết Việt điện u linh, Truyền kỳ mạn lục, Thánh Tông di thảo…đã
là những hình thức nhân vật quen thuộc đối với người đời.
Về mặt giao lưu giữa các nền văn học thì tiểu thuyết của ta chịu ảnh hưởng và
tiếp thu nhiều từ tiểu thuyết chí quái, truyền kỳ và chương hồi của Trung Quốc.
Bên cạnh các ảnh hưởng về nhiều mặt và sâu sắc của Trung Quốc, tiểu thuyết chữ
Hán Việt Nam còn vay mượn các đề tài, cốt truyện và các môtíp. Nếu một tác
phẩm ra đời được phần đông con người quan tâm coi như chuẩn mực cho một thể
loại nào đó thì tác phẩm ấy sẽ trở thành đối tượng để người sau bắt chước, học tập.
Như trong quyển Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam có đề cập một số tác
phẩm được mô phỏng từ các tác phẩm trước đó, người viết trích dẫn một số tác
phẩm sau: “sau khi Công dư nghiệp ký, đỉnh cao của tiểu thuyết bút ký ra đời, liền
có Công dư nghiệp ký tục biên, Công dư nghiệp ký bổ di…; sau khi Lĩnh Nam
chích quái, đỉnh cao của tiểu thuyết chí quái ra đời, liền có Lĩnh nam chích quái
tăng bổ, Lĩnh Nam chích quái tục bổ…; sau khi Truyền kỳ mạn lục, đỉnh cao của
tiểu thuyết truyền kỳ ra đời, liền có Truyền kỳ tân phả, Tân truyền kỳ lục…; và sau
Hoàng Lê nhất thống chí, đỉnh cao của tiểu thuyết lịch sử ra đời, lần lược có
Hoàng Việt long hưng chí, Việt Lam xuân thu…”[14, tr. 22]
Vì thế sự tiếp thu và phát triển là điều tất yếu trong mỗi thể loại văn chương,
nhưng trong đó sự tiếp thu có thể đến độ bão hòa thì các tác giả đời sau lại khai
thác những đề tài nhỏ hơn trong tác phẩm chuẩn mực đó. Như vậy, thể loại tiểu
thuyết của Việt Nam luôn tồn phát triển và dần theo thời gian thì càng có nhiều đề
tài, và số lượng trở nên phong phú và đa dạng hơn.


1.1.3. Phân loại tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam

11


Theo như ghi nhận của quyển Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam thì
tiểu thuyết chữ Hán được chia làm các loại sau:

Tiểu thuyết bút ký (小說筆記)
Tiểu thuyết bút ký hay còn gọi là tiểu thuyết “chí nhân”, gồm những mẫu chuyện
ngắn, những “di văn dật sự” liên quan đến các anh hung dân tộc, các danh nhân
lịch sử, văn hóa được ghi lại không phải bằng “hư bút” mà bằng “tín bút”. Nghĩa là
thấy sao ghi vậy, nghe sao chép vậy, không thêm không bớt.

Tiểu thuyết chí quái (小說团怪)
Tiểu thuyết chí quái gồm những câu chuyện nghịch dị, khác đời về người, vật, thần
thánh…được ghi lại bằng “tín bút” theo sự cảm nhận của tác giả.

Tiểu thuyết truyền kỳ (小說傳奇)
Tiểu thuyết truyền kỳ ra đời trên cơ sở tiểu thuyết chí quái, nhưng khác với tiểu
thuyết chí quái là tiểu thuyết truyền kỳ sử dụng “hư bút” một cách hoàn toàn chủ
động, có ý thức. Nếu công việc chủ yếu của chí quái là biên chép nhằm lưu lại cho
đời một chuyện lạ có ý nghĩa răng khuyên thì tiểu thuyết truyền kỳ lại là sáng tác,
mượn câu chuyện hiếm thấy để gửi gắm tâm sự người cầm bút.

Tiểu thuyết lịch sử (小說曆史)
Tiểu thuyết lịch sử gồm những tác phẩm viết về đề tài lịch sử, thông qua việc miêu
tả nhân vật và sự kiện, tái hiện một cách nghệ thuật diện mạo xã hội và xu thế phát
triển của lịch sử một thời, nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi bổ ích và

mỹ cảm văn học. Về phương diện bút pháp thì tiểu thuyết lịch sử phải dựa vào lịch
sử khi miêu tả các nhân vật và sự kiện chủ yếu nhằm đạt đến sự chân thực lịch sử.
Tuy nhiên, vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp nhằm phát huy trí
tưởng tượng làm cho sự chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực nghệ
thuật.

Tiểu thuyết công án (小說公按)
Tiểu thuyết công án nội dung phản ánh có thể là “thường”, là “quái” miễn nói lên
một sự thật, một lẽ phải nào đó cần được tôn trọng, bảo vệ trước pháp luật, làm cho

12


cái thiện được chiến thắng, cái các bị đẩy lùi. Bút pháp của thể loại tiểu thuyết này
có thể là “thực”, cũng có thể là “hư”, hoặc là “thực” và “hư” kết hợp.

Tiểu thuyết diễm tình (小說团情)
Tiểu thuyết diễm tình hay còn gọi là truyện “tài tử giai nhân”. Nội dung viết về trai
tài gái sắc, buta pháp sử dụng chủ yếu ở đây là hư cấu.

Tiểu thuyết du ký (小說遊記)
Tiểu thuyết du ký kể lại những điều tai nghe mắt thấy trong một chuyến đi, cùng
những tư tưởng tình cảm nảy sinh của tác giả. Bút pháp sử dụng chủ yếu là “thực
lục”, nhưng vẫn có sự sắp xếp cần thiết.

1.2.

Tìm hiểu tiểu thuyết truyền kỳ

1.2.1. Khái niệm truyền kỳ

Tiểu thuyết truyền kỳ là một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc
thường được gọi là văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết, vốn bắt nguồn từ truyện kể dân
gian, sau được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng những
môtíp kỳ quái hoang đường lồng trong một cốt truyện có ý nghĩa trần thế, nhằm
gợi hứng thú cho người đọc. Truyền kỳ là một thể loại xuất hiện khá sớm ở Trung
Quốc và dần dần phát triển mạnh mẽ ảnh hưởng đến các nước khác trong đó có
Việt Nam. Truyền kỳ có thể hiểu bằng nhiều cách khác nhau, có khi được hiểu theo
tính chất câu chuyện, khi thì dựa vào đặc điểm thể loại ở một thời kỳ nào đó nhất
định. Truyền kỳ (傳奇)có nghĩa là ý chuộng cái lạ, đặc điểm của truyền kỳ là chứa
đựng nhiều thể có thể nhận thấy tài viết sử, làm thơ, tài nghị luận trong tác phẩm
truyền kỳ. Theo Trần Đình Sử thì “truyền kỳ” bao hàm hai ý nghĩa: “Một là có ý
chuộng lạ (hiếu kỳ), như Hồ Ứng Lân đời Minh nói, kể những việc khác thường, kế
thừa truyền thống truyện chí quái đời Ngụy Tấn. Hai là, như tác giả đời Tống là
Triệu Ngạn Vệ nói, đặc điểm của truyền kỳ là chứa đựng nhiều thể, có thể nhận
thấy có tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận”[20, tr. 349]. Còn theo Từ điển Hán
Việt từ nguyên thì:
Truyền 傳 (bộ nhân 团人, 13 nét: trao): người này trao cho người khác. Nơi
này sang nơi khác.[8, tr. 2262]

13


Truyền kỳ 傳奇: tên một loại truyện ghi chép những việc lạ lùng. Khởi đầu
từ đời Đường do Bùi Hình soạn 6 quyển. Qua đời Tống, đời Nguyên thì truyền kỳ
là những khúc hát, những vở kịch chứ không phải những chuyện quái đản nữa.
Theo quan niệm thông thường của chúng ta thì truyền kỳ là những tiểu thuyết ghi
lại những sự tích, những cuộc mạo hiểm lạ lùng.[tudienhanvjettunguyen;2263]
Gọi là tiểu thuyết nhưng tiểu thuyết truyền kỳ có dung lượng ngắn và kết
cấu không theo kiểu truyện dài thu ngắn, đã có dáng dấp của truyện ngắn cận hiện
đại. Sự tham gia của các yếu tố thần kỳ vào câu truyện không phải do lực lượng

siêu nhiên như thần thoại hoặc các nhân vật có phép lạ như trời, bụt, thần tiên…mà
phần lớn ở sự thay đổi về hình thức của nhân vật. Tuy nhiên, bao giờ trong truyện
cũng có những nhân vật là người thật vì thế truyện truyền kỳ mang đậm yếu tố
nhân bản, miêu tả trực tiếp thế thái nhân tình, phản ánh quan điểm của một số tác
giả và có giá trị nhân bản sâu sắc. Những tác giả viết truyện truyền kỳ đều là các
nhà văn, các nhà sử gia nổi tiếng.

1.2.2. Tiểu thuyết truyền kỳ trong văn học trung đại Việt Nam
Truyện truyền kỳ trung đại Việt Nam từ khi ra đời cho đến khi phát triển đỉnh
điểm đã trãi qua một quá trình lâu dài để hoàn thiện. Từ những tác phẩm đầu tiên
còn mang âm hưởng của văn học dân gian đến khi thoát khỏi những ảnh hưởng đó,
thể loại truyền kỳ này đã làm nên những thành công nhất định.
Ở Việt Nam, khi nói đến thể loại truyền kỳ thì hầu hết các nhà nghiên cứu
đều có chung nhận định rằng đây là thể loại có nguồn gốc từ Trung Quốc. Nhưng
trong cách phân chia thể loại văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam thì người Việt có
sự phân chia không giống nhau và có quá trình phát triển riêng. Quá trình phát triển
riêng đó xuất phát từ nền văn hóa và sự vận động của nền văn học dân tộc làm cho
tiểu thuyết truyền kỳ của Việt Nam có sự khác biệt so với các nước trong khu vực
mặc dù vẫn tiếp thu, ảnh hưởng và hòa vào dòng chảy của thể loại truyền kỳ trong
khu vực. Truyện truyền kỳ Việt Nam ra đời sau và chịu ảnh hưởng sâu sắc của
truyền kỳ Trung Quốc nên dễ dàng nhận thấy nó mang những đặc điểm của truyền
kỳ Trung Quốc và cả đặc điểm của thể loại truyền kỳ trong khu vực. Nói truyện
truyền kỳ Việt Nam tiếp thu truyện truyền kỳ Trung Quốc là vì truyền kỳ Việt Nam
cũng bắt đầu từ u linh, chí quái rồi mới phát triển đỉnh cao thành truyện truyền kỳ.

14


Truyện truyền kỳ Việt Nam là một bộ phận gắn liền với truyện ngắn trung
đại Việt Nam, là một bộ phận góp phần làm phong phú thêm thể loại truyện ngắn

trung đại. Vì vậy, khi đề cập đến các giai đoạn phát triển của thể loại truyền kỳ thì
người viết đã dựa theo tiến trình phát triển của truyện ngắn trung đại để phân chia
giai đoạn phát triển cho thể loại truyền kỳ. Tiếp nhận ý kiến nghiên cứu của phó
Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na thì truyện ngắn trung đại Việt Nam phát triển qua
bốn giai đoạn khác nhau để có quá trình phát triển riêng.
Giai đoạn thứ nhất từ thế kỷ thứ X – XIV là giai đoạn đặt nền móng khởi
đầu cho bước phát triển đầu tiên của truyện ngắn trung đại. Giai đoạn này vẫn còn
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học dân gian từ nội dung đến hình thức. Vẫn còn
xuất hiện các mô-típ dân gian như “thụ thai thần kỳ”, “xuống thủy phủ”, “lên trời”,
“diệt yêu quái”. Nội dung chủ yếu là khẳng định một quốc gia độc lập, có nền văn
hiến riêng, có lịch sử lâu đời, đâu đâu cũng có anh tài nhân kiệt.
Giai đoạn thứ hai từ thế kỷ XV – XVII là giai đoạn thể hiện sự phát triển rực
rỡ nhất của thể loại truyện ngắn và cả thể loại truyền kỳ. Văn xuôi tự sự giai đoạn
này không còn chịu sự ràng buộc của văn học dân gian, tự sáng tạo ra những thể
loại mới vừa mang đậm bản sắc dân tộc lại vừa phản ánh sinh động hiện thực
đương thời. Ở giai đoạn này cũng là bước phát triển rực rỡ nhất của thể loại truyền
kỳ. Truyện truyền kỳ sử dụng hình thức kỳ ảo để chuyển tải nội dung phản ánh tạo
sức hấp dẫn cho mọi tầng lớp; thế giới vừa thực vừa ảo với con người, thần thánh,
ma quỷ…Và trong truyện truyền kỳ giai đoạn này các tác giả còn đề cập đến những
số phận khác nhau trong xã hội. Các tác giả khắc họa các nhân vật thần thánh nhằm
thể hiện các khía cạnh khác nhau của thế giới thần linh. Sức mạnh của con người
được thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau, không chỉ có sức mạnh làm chủ muôn
loài mà con người nhỏ bé còn dám nhìn thẳng vào sự thật chỉ ra sự giả nhân giả
nghĩa của nhà cầm quyền đương thời. Truyện truyền kỳ giai đoạn này đưa con
người vào thế giới tình yêu với những hương vị ngọt ngào và đắng cay, không chỉ
nhuốm màu bi thương mà còn nồng nàn hạnh phúc.
Đến giai đoạn thứ ba từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn
hoàn thiện các hình thức của thể loại truyện ký và chương hồi. Sự ra đời của tiểu
thuyết chương hồi đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của văn xuôi tự sự Việt


15


Nam. Văn xuôi tự sự giai đoạn này phản ánh những vấn đề lịch sử - xã hội rộng lớn
với tầm khái quát cao. Đây là giai đoạn lịch sử đầy bão táp và biến động, văn xuôi
tự sự giai đoạn này phản ánh trực tiếp những điều mắt thấy tai nghe. Quan niệm
“văn dĩ tải đạo” (文以載道), “thi ngôn chí”(詩言志)bị đẩy xuống hàng thứ yếu,
quan niệm viết về “sở văn”(所文), “sở kiến”(所見) chiếm ưu thế. Ở giai đoạn này,
thể loại truyện truyền kỳ được các tác giả “canh tân”( 更新) như Đoàn Thị Điểm,
Phạm Quý Thích…đã đưa thêm chữ “tân” ( 新 ) vào ngay nhan đề tác phẩm để
người đọc biết được sự canh tân đó (Tân truyền kỳ lục 新傳奇錄 của Phạm Quý
Thích, Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜 của Đoàn Thị Điểm). Sự canh tân của thể loại
truyền kỳ giai đoạn này về mặt nghệ thuật đây là một bước thục lùi bởi lẽ khi viết
về những điều mắt thấy tai nghe ngoài đời càng thực bao nhiêu thì sự huyền ảo đặc
trưng của truyền kỳ không còn nữa. Truyện truyền kỳ giai đoạn này rơi vào sự
khủng hoảng. Các tác giả đã chuyển sang sáng tác các truyện người thật việc thật
hoặc truyền kỳ về người thật việc thật và truyện ngụ ngôn để đưa loại hình truyện
ngắn giai đoạn này ra khỏi ngõ cụt.
Giai đoạn cuối là giai đoạn chuyển giao giữa văn xuôi trung đại và văn xuôi
cận – hiện đại.
Qua bốn chặng đường phát triển, văn xuôi Việt Nam trung đại dần chuyển
sang chủ nghĩa hiện thực đặc biệt là sự tích hợp của kí và tiểu thuyết chương hồi.
Tuy nhiên ở thể loại truyền kỳ do không đáp ứng được nhu cầu của thời đại vì vậy
thể loại này dần mất đi những đặc trưng của truyền kỳ, có thể thể loại truyền kỳ sẽ
tồn tại dưới hình thức khác ở thời hiện đại.
Có thể thấy,tiểu thuyết truyền kỳ văn học trung đại phát triển rực rỡ ở thế kỷ
XV – XVII với những tác phẩm để lại tiếng vang và những đặc điểm đặc trưng của
truyền kỳ được các tác giả khác họa một cách rõ nét. Nhưng đến thế kỷ XVII –
XIX thì tiểu thuyết truyền kỳ rơi vào tình trạng khủng hoảng và xuống dốc. Các tác
phẩm không còn đáp ứng được nhu cầu của thời đại, xu hướng hiện thực hóa dẫn

đến các tác phẩm truyền kỳ không còn thể hiện được những “bản sắc” riêng của nó.

16


Từ đó, các thể loại khác dần thay thế vai trò của truyền kỳ ở giai đoạn văn học thời
hiện đại.

1.3.

Vấn đề văn bản và tác giả trong tiểu thuyết truyền kỳ viết bằng

chữ Hán
1.3.1. Tình trạng văn bản chữ Hán của tiểu thuyết truyền kỳ
Theo Trần Nghĩa, tiểu thuyết truyền kỳ xuất hiện khá sớm nên việc sưu tầm,
tổng hợp gặp không ít khó khăn. Người viết chủ yếu dựa vào quyển Tổng tập tiểu
thuyết chữ hán Việt Nam để khảo sát nội dung của các tập truyện truyền kỳ. Một
số truyện do quá trình lưu truyền bị thất lạc, kĩ thuật bảo tồn lưu giữ hoặc quá trình
cải biên được người sau thêm bớt nên không xác định được bản gốc của tác giả.
Nhưng nhìn chung các truyện của tiểu thuyết truyền kỳ vẫn giữ được những đặc
trưng riêng của thể loại.
Tiểu thuyết chữ Hán của nước ta không nhiều nhất là ở thể loại truyền kỳ.
Trong đề tài nghiên cứu này người viết có khảo sát một số tập truyện tiêu biểu của
thể loại tiểu thuyết truyền kỳ sau:
Thánh Tông di thảo 聖宗遺草 (bản thảo cón sót lại thời Thánh Tông) là tập
truyện ký gồm 19 truyện, không đề tên tác giả, không ghi năm biên soạn. Hình thức
ghi chép của Thánh Tông di thảo được thống nhất cho cả 19 truyện. Mỗi truyện
chia làm 2 phần: phần truyện và phần lời bình, tác giả lời bình là Sơn Nam Thúc.
Các truyện mang tính truyền kỳ, có truyện mang tính ngụ ngôn tạp kí. Đây là tác
phẩm được xem là mở đầu cho sự phát triển của văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam.

Giá trị tập truyện được thể hiện cả ở nội dung và hình thức, đặc biệt là trong quá
trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam.
Tập truyện Truyền kỳ mạn lục 傳奇漫錄 của Nguyễn Dữ, đây là tập truyện
gồm 20 truyện. Về văn bản Truyền kỳ mạn lục hiện có nhiều dị bản mang tên như
Cựu biên Truyền kỳ mạn lục hoặc Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập
chú. Văn bản được khăc in và sao chép nhiều lần để đáp ứng nhu cầu của người
đọc.
Nội dung phản ánh hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, phê phán những
biểu hiện sai trái, lệch lạc để xây dựng một xã hội phong kiến theo tư tưởng nho

17


gia. Tác phẩm phản ánh tình trạng tham nhũng đang hoành hành lúc bấy giờ, nạn
chiến tranh phong kiến làm cho nhân dân khổ sở điêu đứng cùng với lối sống trụy
lạc của tầng lớp thị dân hư hỏng. Qua Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ cũng phản
ánh số phận con người chủ yếu là người phụ nữ. Tác phẩm nói lên một cách sâu
sắc khát vọng chân chính của người phụ nữ và những bi kịch mà người phụ nữ phải
gánh chịu như bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình, bi kịch bị chà đạp về nhân phẩm.
Qua những số phận, những bi kịch ấy có thể thấy được chính cái thế lực xã hội
cường quyền và thần quyền là nguyên nhân chính. Tác phẩm cũng là những mâu
thuẩn phức tạp trong tư tưởng của chính nhà văn vừa bảo thủ vừa nhân đạo.Về
nghệ thuật đây là một tác phẩm đánh dấu bước phát triển mới trong văn xuôi tự sự
chữ Hán Việt Nam. Truyền kỳ mạn lục đã đạt được những thành tựu nghệ thuật nổi
bật ở các phương diện như: xây dựng tình tiết, kết cấu câu truyện, xây dựng nhân
vật phong phú, sự kết hợp giữa các yếu tố thực và ảo làm cho tác phẩm lãng mạn,
trữ tình, tăng sức hấp dẫn và mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Truyền kỳ mạn lục
được người đời tôn vinh là “Thiên cổ kỳ bút” là “áng văn hay của bậc đại gia”.
[11, tr. 389]
Truyền kỳ tân phả 傳奇新譜 của Đoàn Thị Điểm là tác phẩm viết bằng văn

xuôi chữ Hán gồm 6 truyện. Tập truyện hiện có nhiều bản in và chép tay được lưu
giữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng
Truyền kỳ tân phả có tên gọi là Tục truyền kỳ gồm 6 truyện: Bích Câu kỳ ngộ, Hải
khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ, Hoành Sơn tiên cục, An Ấp liệt nữ và Nghĩa
khuyển khuất miêu.
Các truyện đều mang tính huyền thoại, hoang đường nhưng các truyện đều có
nguồn gốc từ các bản thần tích, thần phả hay các truyền thuyết dân gian, mượn các
yếu tố thần linh ma quái để qua đó gửi gắm thái độ của mình đối với hiện thực
cuộc sống. Với tập truyện Truyền kỳ Tân phả Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã đề
cập sâu sắc đến vai trò của người phụ nữ trong đời sống gia đình và xã hội. Trong
Truyền kỳ tân phả tác giả đã thể hiện một cái nhìn mới về khát vọng tình yêu và
hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống ở cõi trần quá ngắn ngủi vì thế con người có mong
ước lên cõi tiên để tận huởng cuộc sống hạnh phúc vĩnh hằng và phản ánh đúng
những vấn đề của thời đại mình thông qua tác phẩm.

18


1.3.2. Vấn đề tác giả của tiểu thuyết truyền kỳ
Thể loại tiểu thuyết truyền kỳ xuất hiện từ lâu đời nhưng số lượng tác giả
tham gia sáng tác ở thể loại này chưa nhiều. Có thể nói trãi qua mấy thế kỷ thì mới
xuất hiện một tác phẩm để lại cho thế hệ sau học hỏi và đúc kết kinh nghiệm. Các
tác giả của thể loại truyền kỳ xuất thân từ nhiều tầng lớp, giai cấp khác nhau như tri
huyện, nho sĩ hay thậm chí là vua. Chính dòng văn học truyền kỳ cũng có những
thăng trầm của nó và vì thế ở nước ta số các tác giả sáng tác thể loại này không
nhiều, người viết xin được điểm qua một số tác giả sau:
Theo Bùi Duy Tân thì hoàng đế, nhà thơ Lê Thánh Tông lúc nhỏ tên là Hạo,
sau đổi thành Tư Thành, sinh năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3,
thụy hiệu Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh
Văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế là tác giả của tập Thámh Tông di thảo 聖宗

团草. Ông là con trai út của Lê Thái Tông (1434 – 1442), mẹ là bà Ngô Thị Ngọc
Dao con gái Ngô Từ, khai quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn. Tư Thành sinh
được 14 ngày thì Lê Thái Tông đột tử ở Lệ Chi Viên, gây nên vụ tru di gia tộc
thảm khốc cả nhà Nguyễn Trãi. Ông lên ngôi 38 năm, 10 năm đầu với niên hiệu là
Quang Thuận (1460 – 1469), 28 năm sau đổi niên hiệu là Hồng Đức (1470 – 1497).
Là người thông minh, tuấn tú, thông tuệ nên từ khi lên làm vua Lê Thánh Tông là
một ông vua anh minh, quyết đoán, hung tài, đại lược với việc củng cố, phát triển
nhà nước phong kiến quan liêu theo mô hình Nho giáo. Xây dựng các chế độ, thiết
chế, chuộng văn, trọng võ, mở mang đất đai bờ cõi. Lê Thánh Tông rất xem trọng
nông nghiệp có nhiều chính sách khẩn hoang, khuyến nông làm cho nhân dân cơm
no áo ấm, xã hội thái bình thịnh trị. Nhà vua cũng đề cao Nho giáo, mở rộng chế độ
khoa cử, dựng bia Văn Miếu, ưu đãi nho thần và phát triển những truyền thống văn
hiến lâu đời của dân tộc. Là một tác gia lớn của văn học dân tộc, Lê Thánh Tông
sáng tác cả văn thơ chữ Nôm và chữ Hán:
Về chữ Nôm, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết theo thể biền ngẫu, gồm
đoạn mở đầu và 10 đoạn răn 10 loại cô hồn (thiền tăng, đọa sĩ, quan liêu, nho sĩ,
tướng quân, lương y, thiên văn địa lý, hoa nương, thương cổ, đãng tử), thể hiện

19


khuynh hướng chính thống của nhà nước phong kiến đối với 10 hạng người của xã
hội với mục đích giáo huấn người sống.
Về chữ Hán, Lê Thánh Tông có một số tập tập truyện như: Liệt truyện tạp
chí ghi chép những ý hay tứ lạ khi đọc sự tích, danh ngôn Trung Quốc, rút ra
những bài học về tu dưỡng đạo đức. Tác phẩm thể hiện khá rõ tư tưởng sùng Nho
của tác giả, đồng thời cũng cho thấy sự dung hòa Nho – Phật – Đạo ở những mặt
có lợi cho việc giáo dục tư tưởng và đạo đức phong kiến; Lam Sơn Lương thủy
phú viết về ngọn núi, dòng sông ở nơi căn cứ địa khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi sự
nghiệp khai quốc của Lê Thái Tổ, miêu tả khí thế hào hùng của non song kỳ vĩ và

cuộc kháng chiến chống quân Minh thần thánh.
Nguyễn Dữ với tập truyện Truyền kỳ mạn lục (傳奇团錄). Theo sự biên soạn
của Lã Nhâm Thình thì nhà văn Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỷ thứ XVI. Ông
là người làng Đỗ Tùng, Gia Phúc, Hồng Châu (nay là tỉnh Hải Dương). Nguyễn Dữ
là con cả của tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496) Nguyễn
Tường Phiêu từng giữ chức Thượng thư. Nguyễn Dữ từ nhỏ đã ham học, học rộng
nhớ nhiều muốn theo nghiệp văn chương. Ông từng thi đỗ Hương tiến, nhiều lần
thi Hội đỗ Tam trường, sau làm tri huyện huyện Thanh Tuyền. Ông làm quan được
một năm thì lấy cớ xa nhà xin từ chức để về hầu cha mẹ. Sau khi nhà Mạc cướp
ngôi, ông ở quê dạy học. Ông viết Truyền kỳ mạn lục để gửi gắm tâm sự của mình
trước những biến động của thời cuộc và sự xuống cấp về đạo đức xã hội lúc bấy
giờ. Theo tư liệu của các nhà nghiên cứu trước cho biết, Nguyễn Dữ còn để lại duy
nhất một tập tiểu thuyết bằng chữ Hán là Truyền kỳ mạn lục. Gồm 20 truyện, chủ
yếu được viết bằng văn xuôi chữ Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn. Ở
cuối mỗi truyện có lời bình của tác giả về nội dung và ý nghĩa đạo đức của truyện.
Theo quyển Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam của Viện nghiên cứu Hán
Nôm do nhà xuất bản Thế Giới phát hành thì tập Truyền kỳ tân phả (傳奇新譜)
tương truyền do Đoàn Thị Điểm biên soạn. Đoàn Thị Điểm có tên tự là Hồng Hà
nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, sinh năm Vĩnh Thịnh nguyên niên (1705) tại làng Giai Phạm
sau đổi thành Hiến Phạm nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Đoàn Thị Điểm sinh ra trong
một gia đình có truyền thống hiếu học, từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh. Cha của bà

20


là Đoàn Doãn Nghi làm quan tới chức Điển hạ. Anh trai bà là Đoàn Doãn Luân
từng đỗ Giải nguyện trường thi Kinh Bắc. Năm 16 tuổi bà được quan thượng thư
Lê Anh Tuấn nhận làm con nuôi, bà từ chối vào cung ở quê sống với cha và anh
cùng nhau đàm luận văn chương bốc thuốc cứu người. Năm 25 tuổi cha mất, vài
năm sau anh cũng mất bà phải gánh vác gia đình, nuôi mẹ già, chị dâu và đàn cháu

nhỏ. Mãi đến năm 37 tuổi, bà mới kết hôn với tiến sĩ Nguyễn Kiều. Lấy nhau
không được bao lâu Nguyễn Kiều phải đi sứ sang Trung Quốc, bà ở nhà một mình
lo việc nhà chồng và việc nhà mình. Khi Nguyễn Kiều trở về được nhậm chức ở
Nghệ An. Theo chồng vào Nghệ An nhưng giữa đường bà lâm bệnh rồi mất ở tuổi
44. Một số tác phẩm tiêu biểu của bà như: Truyền kỳ tân phả, Chinh phụ ngâm…
Trên đây là một vài nét khái quát về một số tác giả đã góp phần vào sự
thành công của thể loại tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam mà người viết khảo sát.
Thông qua tìm hiểu về cuộc đời giúp ta có thể hiểu rõ hơn về các tác giả này và
biết được tư tưởng của tác phẩm thông qua một số sự kiện quan trọng được đánh
dấu trong cuộc đời của họ. Qua đó, người viết nắm bắt được tư tưởng chủ đạo của
tác phẩm mà tác giả muốn gửi gắm trong đó.

1.3.3. Vấn đề tiếp nhận tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam viết bằng chữ Hán
Các tác giả của tiểu thuyết truyền kỳ xuất thân từ nhiều tầng lớp giai cấp
khác nhau vì vậy nội dung phản ánh ở nhiều góc độ và có cái nhìn khác nhau. Thể
loại tiểu thuyết truyền kỳ viết bằng chữ Hán cũng được người đọc tiếp nhận ở nhiều
khía cạnh.
Khi ra đời, các tác phẩm tiểu thuyết truyền kỳ chủ yếu phản ánh về hiện
thực, về con người với nhiều phương diện. Điều khó khăn trong vấn đề tiếp nhận
tiểu thuyết chữ Hán giai đoạn này là tư tưởng của con người còn bó hẹp trong lễ
giáo. Con người trung đại vẫn còn chịu ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng phong kiến,
Nho gia xưa cũ. Những đổi mới về mặt tư duy nhận thức chưa được con người tiếp
nhận, và một số còn bị loại trừ. Những tiểu thuyết truyền kỳ đầu tiên ra đời chưa
được tiếp nhận nhiều mà bị xếp vào dạng văn học không chính thống bởi còn vay
mượn nhiều cốt truyện và những motip của văn học dân gian. Lực lượng đọc và
hiểu được thể loại này phần nhiều là nho sinh, quan lại, vua chúa, còn những người

21



thường dân hầu như chưa với tới thể loại này cho nên có thể nhận định rằng vào giai
đoạn manh nha ban đầu thể loại này chưa được phổ biến rộng rãi.
Phản ánh hiện thực là một trong những nội dung quan trọng của nền văn học
giai đoạn này. Con người có thể nhìn thấy số phận của mình xuất hiện trong những
tác phẩm văn học và thể loại tiểu thuyết chữ Hán đã làm được điều đó một cách
xuất sắc, đã khắc hoạ một cách rõ nét những số phận đau khổ trong cuộc sống. Với
dung lượng dài, các tác giả có thể thể hiện một cách rõ ràng hơn những số phận,
những con người ấy và đồng thời bằng việc sử dụng hình thức chữ Hán – một lối
chữ viết xuất hiện rất sớm ở nước ta từ những thiên niên kỷ thứ nhất trước công
nguyên được sử dụng phổ biến giai đoạn lúc bấy giờ. Đến thế kỷ XI chữ Hán vẫn
còn được sử dụng rộng rãi và đó còn là một phương tiện ghi chép, giao tiếp, giao
lưu kinh tế và là một phương tiện để phát triển văn hóa dân tộc quan trọng của
người Việt xưa. Từ đó, các tác giả truyền kỳ đã chọn chữ Hán làm ngôn ngữ chính
để sáng tác thể loại tiểu thuyết của mình bởi đây là thể loại bình dân, gần gũi với
đông đảo bộ phận dân chúng lúc bấy giờ. Nội dung được truyền tải được tiếp nhận
một cách dễ dàng hơn và các tác giả truyền kỳ phần nhiều là các nhà Nho, các nho
sinh, ẩn sĩ, các quan lại, các tầng lớp trí thức đều có thể dễ dàng tiếp cận thể loại
này.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, thể loại tiểu thuyết truyền kỳ ở Việt Nam dần
được chú ý đến nhiều hơn, các nhà nghiên cứu dần khai thác những đề tài về thể
loại truyện truyền kỳ, nhìn nhận những thành tựu mà thể loại này mang lại và đưa
thể loại này đến một bước phát triển mới.
Đối với ngày nay, việc tiếp nhận thể loại tiểu thuyết chữ Hán đều có một số
thuận lợi và khó khăn nhất định. Vào những năm đầu thế kỷ XX, thể loại này được
nghiên cứu rầm rộ và đạt được nhiều kết quả đáng chú ý. Tuy nhiên, vấn đề khó
khăn là không tránh khỏi. Ngày nay việc tiếp nhận tiểu thuyết truyền kỳ bằng chữ
Hán có nhiều góc độ khác nhau. Với việc sử dụng hình thức chương hồi, có lẽ vào
giai đoạn đương thời đó là một cách để các tác giả thể hiện được nội dung qua từng
chương từng hồi nhưng đối với việc tiếp nhận của con người hiện đại hôm nay thì
việc những câu chuyện không liền mạch tạo cho người đọc khó tiếp nhận vấn đề

hơn so với kết cấu của tiểu thuyết hiện đại. Nhiều vấn đề về chính trị, xã hội, lễ giáo

22


được đặt ra trong tiểu thuyết truyền kỳ lúc bấy giờ đến ngày nay một số tư tưởng
không còn được tán đồng. Nhất là đối với vấn đề về nhân quyền của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không được đề cao
và càng không có tiếng nói trong xã hội. Các tác giả xây dựng nhân vật những
người phụ nữ theo tiêu chuẩn của lễ giáo phong kiến “Công – dung – ngôn – hạnh”,
cũng song song đó có một số nhân vật có tài trí như bậc nam nhi như nàng Bích
Châu trong Hải Khẩu linh từ lục hay Đinh phu nhân trong An Ấp liệt nữ lục, là
những người phụ nữ vừa có tài trí vừa giữ tròn phẩm hạnh. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy dù người phụ nữ có tài đến đâu khi tồn tại trong xã hội phong kiến thì cái tài đó
cũng sẽ bị vùi lấp theo những lễ giáo đã được định sẵn. So với con người hiện đại,
nhất là đối với người phụ nữ thì ngày nay phụ nữ có được quyền làm chủ mình,
được quyền thể hiện bản thân và tìm hạnh phúc cho mình, cái nhìn của phụ nữ ngày
nay cũng có phần thoáng hơn vì thế một số vấn đề phản ánh trong các tác phẩm
truyền kỳ lúc bấy giờ đối với ngày nay không còn phù hợp. Dưới góc nhìn hiện đại,
một số quan niệm xưa cũ không còn đạt được giá trị như trước đó.
Vì vậy có thể thấy rằng, tiếp nhận thể loại tiểu thuyết chữ Hán nhất là đối với
tiểu thuyết truyền kỳ có những thuận lợi và khó khăn riêng. Điều quan trọng là việc
các tác giả truyền tải nội dung như thế nào để người đọc tiếp nhận dễ dàng, đạt
được những thành công nhất định và thể loại tiểu thuyết truyền kỳ giai đoạn này đã
làm được điều đó.

23


Chương 2. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC TIỂU THUYẾT

TRUYỀN KỲ CHỮ HÁN VIỆT NAM
2.1. Nội dung tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam
2.1.1. Phản ánh hiện thực xã hội
Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam sưu tầm ghi chép những tập tiểu thuyết ra đời
từ những năm thế kỷ XVI đến những năm đầu thế kỷ XIX, ghi chép lại những sự
kiện lịch sử quan trọng của một thời đại, một quốc gia, dân tộc hay của một tên tuổi
nào đó dựa vào chứng sử và sự hư cấu của tác giả. Các thể loại văn học đều muốn
truyền tải một nội dung, một tư tưởng nào đó thông qua tác phẩm và nhất là nội
dung phản ánh một vấn đề nào đó của xã hội, của con người và cả của thế giới thần
linh.
Tiểu thuyết truyền kỳ mang những nội dung vô cùng phong phú và giá trị sâu
sắc, phản ánh nhiều mặt của hiện thực xã hội và là một bức tranh thu nhỏ của xã
hội đương thời. Hiện thực xã hội của giai đoạn lịch sử này là phản ánh sự tranh
quyền đoạt lợi của các triều đình phong kiến, sự suy yếu xuống dốc của bộ máy
chính trị và đạo đức con người. Các vị vua anh minh giúp dân giúp nước dần dần
đã không còn, các bậc hiền tài dần đi vào rừng núi để lánh đời, chán nản với cái xã
hội đương thời và không muốn dốc sức cho một triều đình mục ruỗng. Vì thế, xã
hội càng trở nên rối ren, người dân thấp cổ bé họng chỉ còn biết chịu đựng và đôi
khi hạnh phúc cá nhân của họ còn bị đe dọa bởi quyền lực của các tầng lớp phong
kiến. Hiện thực xã hội trong tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam được thể hiện chủ yếu
qua các khía cạnh sau:

24


2.1.1.1. Sự xuống dốc về đạo đức của tầng lớp nho sĩ
Nho giáo là một hệ thống đạo đức triết lí do Khổng Tử ( 孔子)đề ra để xây
dựng một con người nhân đức và một xã hội thịnh trị. Nho sĩ là những người đọc
sách thánh hiền, dạy bảo con người ăn ở hợp luân thường, đạo lý. Những triết lý
nho gia được xem là khuôn vàng thước ngọc, là một chuẩn mực mà nhà nước

phong kiến lấy đó làm nguyên tắc để xây dựng nhà nước và nho sĩ là tầng lớp được
xem trọng xuất hiện nhiều nhất trong các bộ máy nhà nước triều đình phong kiến.
Hầu hết những nhà nho đều muốn tiến thân bằng con đường khoa cử và mục tiêu
của họ là phấn đấu học hành đỗ đạt để ra làm quan rạng danh tổ tiên và góp sức
mình giúp nước, giúp dân. Thế nhưng vào giai đoạn này một số các nhà nho không
còn những phẩm chất tốt đẹp ấy nữa mà đã dần bất mãn với xã hội bởi một triều
đình mục nát và một vị minh quân không còn nữa. Các nhà nho chân chính thì
không còn “hòa hợp” được với xã hội và triều đình thực tại, họ lánh đời bằng cách
từ quan về quê, vào rừng núi ở ẩn xa cách với sự kéo bè kết cánh của các tập đoàn
phong kiến, bất mãn với thực tại và tìm một thú vui cho riêng mình. Các nhà nho
xuất hiện trong tiểu thuyết truyền kỳ Việt Nam lựa chọn một trong hai cách ấy để
sống và phân ra rõ rệt có hai lớp nhà nho lúc bấy giờ.
Với tiểu thuyết truyền kỳ, có nhiều tập truyện phản ánh sự xuống dốc của
tầng lớp nho sĩ, đây là vấn đề đã có và manh nha từ các thế kỷ trước khi mà các
triều đình phong kiến không còn đủ sáng suốt để trị vì thiên hạ, các nho sĩ bất mãn
với thời cuộc nên một số rơi vào các cuộc tình ma mị với người, yêu quái, thần tiên
đầy dục vọng. Sự chán nản, không màn đến danh lợi, chức tước danh tiếng gia đình
dòng họ của một số nhà nho lúc bấy giờ. Nhân vật là nhà nho xuất hiện khá nhiều
trong các tác phẩm truyền kỳ, với những số phận cuộc đời và xuất thân khác nhau.
Có những người xuất thân từ tầng lớp quan lại, lại có người xuất thân từ tầng lớp
thường dân nghèo khổ dùi mài kinh sử để mong được tiến thân làm quan. Nhưng
trong số họ không ít người bị danh lợi làm mờ mắt làm theo sự sai khiến của những
người có quyền cao chức trọng, còn không được mấy người giữ được cốt cách
thanh cao của một nhà nho chân chính. Truyện Phạm Tử Hư du Thiên tào lục (trích
Truyền kỳ mạn lục) Phạm Tử Hư là một nhà nho có nghĩa khi thầy chết để tang 3
năm mới trở về quê tiếp tục dùi mài kinh sử, là một người văn chương đương thời

25



×