Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Lí thuyết học tập trải nghiệm: Lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.49 KB, 11 trang )

LÝ THUYẾT HỌC TẬP DỰA VÀO TRẢI NGHIỆM: LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
Experiential Learning Theory: Theory Research and Education Facts
ThS. Nguyễn Văn Hạnh, ThS. Lê Thị Thu Thủy
Khoa Sư phạm Kỹ thuật, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Department of Technical Pedagogy, Hung Yen University of Technology and
Education
Địa chỉ: Dân Tiến – Khoái Châu – Hưng Yên
Email: , sđt: 0975.300.198
Tóm tắt: Lý thuyết học tập dựa vào trải nghiệm không còn quá xa lạ với
chúng ta, tuy nhiên, để hiểu thật sâu sắc tư tưởng, lý thuyết học tập đó trong
cá công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục và kết nối chúng lại với nhau
là vấn đề đáng được quan tâm. Vì vậy, trong bài báo này, chúng tôi sẽ tập
trung phân tích về các tư tưởng, lí thuyết của học tập dựa vào trải nghiệm
trong các nghiên cứu của một số nhà giáo dục trên và bàn đến các giải pháp
sáng tạo nhằm đưa các tư tưởng, lí thuyết đó vào trong thực tiễn giáo dục.
Abstract: Experiential Learning Theory (ELT) is no stranger to us, however,
to understand the profound truth that learning theory in the study of the
education and connect them together is a matter for concern. So in this
article, we will focus our analysis on the ELT in the study of some educators
on and discuss innovative solutions to bring ELT into education facts.
Từ khóa: Học tập dựa vào trải nghiệm, Lý thuyết học tập dựa vào trải
nghiệm, Mô hình học tập dựa vào trải nghiệm
Keywords: Experiential Learning, Experiential Learning Theory, Model of
Experiential Learning

1. Bối cảnh và vấn đề
Học tập dựa vào trải nghiệm (Experiential Learning - EL) là một tư tưởng,
lí thuyết giáo dục hiện đại, nổi bật trong thế kỉ 20 được đặt nền móng bằng các
nhà khoa học giáo dục hàng đầu trên thế giới như Lev Vygotsky, John Dewey,
Kurt Lewin, Jean Piaget, David A Kolb, và những nhà giáo dục khác. Học tập


dựa vào trải nghiệm đóng một vai trò trung tâm trong lí thuyết về học tập và phát
triển con người, nó cung cấp các mô hình về quá trình học tập từ kinh nghiệm, trở
thành xu hướng, nền tảng giáo dục trong thế kỉ 21. Tuy nhiên, để hiểu thật sâu sắc
tư tưởng, lý thuyết học tập dựa vào trải nghiệm (Experiential Learning Theory –
ELT) trong các công trình nghiên cứu của các nhà giáo dục và kết nối chúng lại
với nhau là vấn đề đáng được quan tâm. Vì vậy, trong bài báo này, chúng tôi sẽ
tập trung phân tích về các tư tưởng, lí thuyết của EL trong các nghiên cứu của
một số nhà giáo dục trên và bàn đến các giải pháp sáng tạo nhằm đưa các tư
tưởng, lí thuyết đó vào trong thực tiễn giáo dục.
1


2. Nội dung
2.1. Những nghiên cứu lý luận về ELT
2.1.1. Nhóm năng động và nghiên cứu hành động của Kurt Lewin
Kurt Lewin (1890 – 1947) là một nhà tâm lí học, được biết đến như là
người tiên phong trong lĩnh vực tâm lý xã hội, tâm lí tổ chức và ủng hộ tâm lí học
Gestalt (cho rằng con người nhận thức các đối tượng trong toàn bộ của nó trước
khi nhận thức các bộ phận riêng lẻ, cho thấy toàn bộ là lớn hơn tổng của các bộ
phận của nó). Lewin được đánh giá cao với các ấn phẩm viết về EL, nhóm năng
động (group dynamics), và nghiên cứu hành động (action research) [3]. Trong
giáo dục, có thể rút ra một số nội dung: 1/ Nghiên cứu hành động làm tăng sự
hiểu biết của nhà giáo về dạy học và học tập; 2/ Môi trường lớp học là sự hợp tác
của các cá nhân tạo nên ý thức cộng đồng và kiến tạo tri thức. 3/ T-group là
phương pháp hữu hiệu cho việc huy động sự tham gia của người học vào quá
trình nghiên cứu môn học bắt đầu từ kinh nghiệm trước đây của họ với sự giúp đỡ
của giáo viên.
2.1.2. Giáo dục dựa vào trải nghiệm của Dewey
Chúng ta tìm thấy trong nhiều ấn phẩm của Dewey như: Kinh nghiệm và
giáo dục, Dân chủ và giáo dục, Cách ta nghĩ, Dewey về giáo dục, v.v… những tư

tưởng về một nền giáo dục tiến bộ (giáo dục phải dựa trên nền tảng kinh nghiệm
cá nhân của người học) đối lập với nền giáo dục cổ truyền (quan niệm coi giáo
dục là sự đào tạo từ bên ngoài; truyền dạy những nội dung gồm kiến thức, kĩ
năng, chuẩn mực và nguyên tắc ứng xử đã được phát triển trong quá khứ cho thế
hệ mới) [2]. Trong nền giáo dục tiến bộ đó, giá trị của tự do được đề cao, học
thông qua tự trải nghiệm, học tập phải gắn liền với lợi ích của cuộc sống, học là
để thích ứng với môi trường cuộc sống luôn thay đổi. Vì vậy, kinh nghiệm của
người học trở thành yếu tố trung tâm của nền giáo dục hiện đại, giáo dục phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất để người học phát triển kinh nghiệm cá nhân. Kinh
nghiệm của người học trở thành yếu tố trung tâm của nền giáo dục hiện đại, giáo
dục phải tạo điều kiện thuận lợi nhất để người học phát triển kinh nghiệm cá nhân
qua hoạt động trải nghiệm. Theo Dewey, kinh nghiệm phát triển dựa trên 2
2


nguyên lý: 1/ Nguyên lý liên tục (principle of continuity); 2/ Nguyên lý tương tác
(principle of interaction). Nguyên lý liên tục và nguyên lý tương tác là không tách
rời nhau, chúng cản trở nhau và kết hợp với nhau giống như chiều dọc và chiều
ngang của kinh nghiệm; tri thức và kỹ năng đã học được tại một tình huống sẽ trở
thành một công cụ, vật liệu nhận thức và giải quyết có hiệu quả những tình huống
xảy ra sau đó.
Như vậy, tư tưởng trong giáo dục của Dewey phản ánh niềm tin rằng,
người học sẽ học tập hiệu quả nhất trong một môi trường cho phép họ trải nghiệm
và tương tác với môi trường học tập và tất cả người học phải có cơ hội tham gia
vào việc học của mình. Những tư tưởng về giáo dục dựa trên kinh nghiệm của
ông là cơ sở rất quan trọng cho việc phát triển một lý thuyết học tập từ kinh
nghiệm trong các lĩnh vực cụ thể.
2.1.3. Lý thuyết phát triển nhận thức của J. Piaget
Jean Piaget (1896 – 1980) là người Thụy Sỹ, một nhà tâm lý học phát triển
và nhà triết học nổi tiếng theo chủ nghĩa duy lý. Piaget dành mối quan tâm lớn,

tầm quan trọng lớn đối với giáo dục phổ thông. Lí thuyết nhận thức của Piaget là
một lý thuyết toàn diện về bản chất và phát triển của trí tuệ con người, nội dung
của nó đề cập đến bản chất của bản thân kiến thức và cách thức con người dần
dần tiếp cận, kiến tạo và sử dụng nó. Ông cho rằng, bản thân mỗi người khi sinh
ra đều có một vốn kinh nghiệm nhất định nào đó để nhận thức thế giới, ví dụ như
việc bú, nắm,… của đứa trẻ khi mới sinh ra giúp nó sinh tồn trong thế giới. Có thể
nêu khái quát về các luận điểm chính trong lý thuyết phát triển nhận thức của J.
Piaget như sau:
Thứ nhất, học tập là quá trình kiến tạo các tri thức cho bản thân, trong đó
cá nhân tìm tòi, khám phá thế giới bên ngoài và kiến tạo lại chúng dưới dạng các
sơ đồ nhận thức. Sự phát triển nhận thức của cá nhân là sự phát triển hệ thống các
sơ đồ cấu trúc nhận thức trải qua 4 giai đoạn phát triển bao gồm: 1/ Cảm giác vận
động (Sensorimotor: từ 0 – 2 tuổi); 2/ Tiền thao tác (Pre-Operational: từ 2 – 7
tuổi); 3/ Thao tác cụ thể (Concrete Operational: từ 7 – 11,12 tuổi); và 4/ Thao tác
chính thức (Formal Operations: từ 12 tuổi trở lên). Sơ đồ là một cấu trúc nhận
3


thức bao gồm một lớp các thao tác (Operations – hành động bên trong) giống
nhau theo một trật tự nhất định và được xây dựng lên bằng hành động (Action –
tương tác giữa chủ thể và khách thể) có đối tượng bên ngoài.
Thứ hai, các cấu trúc nhận thức được kiến tạo và phát triển theo cơ chế
đồng hóa (Assimilation) và điều ứng (accommodation). Đồng hóa dẫn đến tăng
trưởng các cấu trúc đã có (mở rộng sơ đồ cấu trúc đã có), còn điều ứng tạo ra cấu
trúc mới (phát triển sơ đồ cấu trúc mới). Hai cơ chế tạo nên sự thích ứng của cá
thể với các kích thích của môi trường. Như vậy, cá nhân xây dựng sự hiểu biết về
thế giới xung quanh, sau đó trải nghiệm sự khác biệt giữa những gì chúng đã biết
và những gì chúng khám phá trong môi trường xunh quanh.
Tóm lại, quá trình phát triển nhận thức phụ thuộc vào sự tăng trưởng của
các chức năng sinh học, tâm lý; vào kinh nghiệm thu được thông qua trải nghiệm

với đối tượng; vào sự tương tác giữa chủ thể với môi trường thông qua hành động
cá nhân. Tuy nhiên, lý thuyết phát triển nhận thức của J. Piaget chỉ tập trung làm
sáng tỏ bản chất về tâm lý, sinh học mà bỏ qua các yếu tố về xã hội.
2.1.4. Lý thuyết về Vùng cận phát triển của Lev Vygotsky
Vygotsky (1896-1934) là một nhà tâm lý học Liên Xô, người sáng lập lý
thuyết về văn hóa con người và phát triển xã hội (thường gọi là thuyết văn hóa –
lịch sử) để giải thích về sự phát triển các chức năng tâm lý cấp cao (chức năng
nhận thức cấp cao) của con người. Vygotsky cho rằng, xã hội và văn hóa là hai
yếu tố rất quan trọng để phát triển nhận thức, trong đó, chức năng tâm lý cấp cao
được đặc trưng bởi quan hệ gián tiếp giữa giữa chủ thế và đối tượng nhận thức
thông qua công cụ kí hiệu (gồm: ngôn ngữ, kí hiệu đại số, sơ đồ, bản vẽ, quy ước,
…) nhằm lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội. Nguồn gốc của chức năng tâm lý cấp
cao bên trong là từ hoạt động lúc đầu ở bên ngoài (hoạt động thực tiễn và giao
tiếp xã hội).
Vygotsky đề xướng khái niệm “Vùng cận phát triển - ZPD” nhằm giải
thích hoạt động nhận thức của con người. ZPD được định nghĩa là sự khác biệt
giữa trình độ phát triển hiện tại (đặc trưng bằng năng lực giải quyết nhiệm vụ độc
lập, không có bất kỳ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài) và trình độ phát triển có thể đạt
4


được (đặc trưng bằng khả năng giải quyết vấn đề khi có sự giúp đỡ, hướng dẫn
hoặc hợp tác của người khác mà bản thân không thể thực hiện được). Khái niệm
“Nâng đỡ vừa sức” dùng để giải thích sự giúp đỡ, hướng dẫn hoặc hợp tác trong
ZPD. Nâng đỡ vừa sức là quá trình, trong đó giáo viên hoặc một bạn học có khả
năng tốt hơn hỗ trợ người học trong vùng cận phát triển khi cần và ngừng hỗ trợ
khi không cần thiết, giống như một giàn giáo được dỡ bỏ dần khỏi toàn nhà trong
quá trình xây dựng.
Tóm lại, ZPD cho thấy rằng, mỗi cá nhân đều có kinh nghiệm làm nền
tảng, ở dạng tiềm năng có được thông qua hoạt động học tập, sự trải nghiệm và có

cả yếu tố di truyền. Học tập là quá trình đưa kinh nghiệm cá nhân vào tương tác
với môi trường học tập, từ đó tiềm năng kinh nghiệm được huy động ra để xây
dựng tri thức cho bản thân thông qua hoạt động trải nghiệm của chính họ. Sự chia
sẻ, thử trách trong khi tương tác với môi trường học tập giúp cá nhân phát triển
nên trình độ mới, cao hơn. Qua đó, người học phản ánh với kinh nghiệm hiện tại
của họ, và điều chỉnh, làm phong phú kinh nghiệm nền tảng để kiến tạo tri thức
tiếp theo. Như vậy, học tập sẽ làm thay đổi ZPD của mỗi cá nhân sau mỗi quá
trình kiến tạo tri thức.
2.1.4. ELT của David A Kolb
Nguồn gốc, tư tưởng về EL của Kolb được tìm thấy trong các tác phẩm của
Lewin, Piaget, Dewey về nguồn gốc và sự phát triển của trí tuệ. Kolb đã hợp nhất
tư tưởng triết học chủ nghĩa thực dụng của Dewey, tâm lý học xã hội của Lewin,
và lý thuyết phát triển nhận thức dựa của Piaget ở các quan điểm tương đồng về
kinh nghiệm để đưa quan điểm độc đáo về quá trình học tập và phát triển dựa vào
trải nghiệm [5]. ELT của Kolb định nghĩa: “học tập là một quá trình, trong đó
các kiến thức được tạo ra thông qua sự chuyển đổi của kinh nghiệm. Kiến thức là
kết quả từ sự kết hợp của nhận thức và chuyển đổi kinh nghiệm” [3, tr 41]. Quan
điểm của Kolb nhấn mạnh kinh nghiệm đóng vai trò trung tâm trong quá trình
học tập.
Kolb đã phát triển một mô hình toàn diện về quá trình học tập năng động từ
trải nghiệm (Kolb’s Model of Experiential Learning). Lý thuyết học tập mô tả
5


một chu trình học tập bằng việc giải quyết hai phép biện chứng gồm: Thử
nghiệm/Phản ánh và Kinh nghiệm cụ thể/Khái niệm hóa trừu tượng để giúp con
người thích nghi toàn diện với môi trường. Mô hình của Kolb miêu tả một quá
trình học tập gồm 4 giai đoạn: người học bắt đầu với kinsh nghiệm cụ thể, sau
đó thực hiện quan sát - phản ánh để đưa ra các quan điểm cá nhân trước các vấn
đề cần giải quyết, từ đó tham gia vào quá trình kiến tạo khái niệm hóa trừu

tượng, qua đó sử dụng những kiến thức khái quát này để thử nghiệm hoạt động
nhằm kiểm tra những gì đã học [4]. ELT của Kolb nhận được nhiều sự ủng hộ và
được áp dụng rộng rãi, không chỉ trong giáo dục chính quy mà còn trong tất cả
thách thức của cuộc sống.
2.2. Những nghiên cứu thực tiễn về ELT trong giáo dục
Linda H. Lewis, Carol J. Williams đã giới thiệu về các ứng dụng hiện tại
của ELT trong giáo dục đại học bao gồm: EL trên thực tế (hiện trường) trong giáo
dục đại học (đã xuất hiện ở Mỹ từ những năm 1930 như thực tập, bài tập trong
bối cảnh xã hội); sự tích lũy (bằng, chứng chỉ) cho việc học tập trước đó (đó là sự
công nhận các kết quả học tập trước đó, và được đánh giá thông qua Hội đồng
giáo dục Mỹ - ACE đã được phát triển từ năm 1970); ứng dụng EL cho phát triển
cá nhân và học tập trong môi trường lớp học (từ những năm 1980, các nhà cải
cách giáo dục xem EL như là liều thuốc cho giáo dục truyền thống chỉ quan tâm
đến việc đồng hóa kiến thức từ giáo viên sang học sinh chuyển sang mô hình mà
ở đó học sinh học tập chủ động) [5]. Trong xu thế đó, mô hình EL của Kolb được
các giáo viên, học sinh rất ủng hộ, được xem như là giải pháp hướng dẫn thiết kế
cho học tập trong lớp học ở đại học.
Mary Breunig ủng hộ quan điểm cho rằng, lý thuyết giáo dục là lý thuyết
rất phong phú nhưng kinh nghiệm kém (Eisner, 2002), thiếu thông tin thực tế về
các chiến lược dạy học (Gore, 1993) [6]. Lý thuyết mang tính trừu tượng, đại diện
trong kiến thức trong khi thực hành là sự áp dụng các kiến thức đó; thực hành và
kinh nghiệm là một, và giống nhau về ý nghĩa, có nguồn gốc từ thực tiễn; thiếu sự
tương đồng giữa lý thuyết và thực hành. Giảng viên phải đối mặt đồng thời với
giáo dục dựa trên kinh nghiệm (Experiential Education) và phương pháp sư phạm
6


chủ động (Critical Pedagogy) để tìm kiếm sự thống nhất giữa lý thuyết và thực
hành (Estes, 2004; Keesing-Styles, 2003). Mary Breunig đề xuất EL của Kolb là
lý thuyết trung tâm trong giáo dục dựa trên kinh nghiệm. Phương pháp sư phạm

chủ động được hiểu như một lý thuyết sư phạm chứ không phải là biện pháp kĩ
thuật thực tế, nguyên tắc phối hợp với công việc của giáo viên (Osborne, 1990).
Lý thuyết sư phạm chủ động quan tâm đến việc trình bày những thiếu sót của việc
học hơn là cung cấp mô hình hướng đến mà các trường vẫn mong muốn (Eisner,
2002). Mary Breunig cho rằng có thể phát triển thói quen dạy học (kinh nghiệm)
của giáo viên dựa trên các lý thuyết nền tảng của giáo dục dựa trên kinh nghiệm
và phương pháp sư phạm chủ động.
Maisarah Mohamed Saat đề xuất ý tưởng và giải pháp sử dụng EL trong
dạy học đạo đức kinh doanh của ngành kế toán. Nghiên cứu chỉ ra rằng, EL của
Kolb rất hiệu quả trong việc phát triển, dạy học đạo đức kinh doanh thông qua các
hoạt động học tập gồm: âm nhạc và lời bài hát; nghiên cứu trường hợp; đóng vai,
sinh viên trình diễn, đánh giá bài báo và tạp chí; nhật ký học tập [7]. Kết quả cũng
cho thấy, không có một phương pháp dạy học nào được lựa chọn có thể giúp
người học đi qua tất cả các giai đoạn của chu trình EL của Kolb [7]. Điểm mới
trong nghiên cứu này là việc âm nhạc và lời bài hát được sử dụng để nâng cao và
phát triển độ nhạy đạo đức và khả năng ra phán xét của người học trong dạy học
đạo đức nghề nghiệp.
Catherine A. Broom, Ph.D. & Heesoon Bai, Ph.D. cho rằng: “Thế giới
chúng ta đang đối mặt với nhiều vấn đề, bao gồm suy giá trị môi trường và chủ
nghĩa cá nhân (Beck và Beck-Gernsheim, 2006), đó là sản phẩm của hành vi con
người” [1, tr 46]. Nghiên cứu này tiếp cận EL của Dewey như là một phương
pháp hiệu quả để nuôi dưỡng ý thức của học sinh về ý thức cộng đồng. Dewey
cho rằng, trải nghiệm và học tập dựa trên dự án sẽ định hình (hình thành) những
cá nhân có đóng góp tích cực vào phát triển liên tục xã hội dân chủ (Dewey,
2007). Dịch vụ học tập đã trở thành một chủ trương rộng rãi phương pháp cho
phát triển công dân có phẩm giá (Speck và Hoppe, 2004). Nghiên cứu đã tiến
hành phỏng vấn giáo viên và sinh viên đã tham gia vào các dịch vụ quốc tế ở
7



nước ngoài (Nicaragua: 13 học sinh; Kenya: 7 sinh viên, đều là các nước nghèo
đói) [1]. Các cuộc phỏng vấn sinh viên tập trung vào sự hiểu biết, quan điểm của
sinh viên trong các chuyến đi; phỏng vấn của giáo viên về mục đích của phương
pháp, cách lập kế hoạch và tổ chức chuyến đi của họ. Kết quả thấy rằng: kinh
nghiệm thực tế, hoặc dịch vụ, dự án học tập thực tế có thể nuôi dưỡng ý thức của
sinh viên về kết nối và chăm sóc cho những người khác, phát triển mở rộng của
quyền công dân; giáo dục dựa vào trải nghiệm cần cung cấp cho sinh viên khả
năng phát triển thông qua phản ánh cá nhân [1].
Svinick, M. D., & Dixon, N. M. (1987) đã thay đổi mô hình EL của Kolb
đối với từng hoạt động trong lớp học để đưa ra một mô hình mô tả mức độ tham
gia trực tiếp của sinh viên trong các phương pháp dạy học khác nhau để giải
quyết những khó khăn mà giảng viên và sinh viên gặp phải khi áp dụng ELT của
Kolb như một quan điểm thiết kế dạy học [8]. Theo đó, họ cung cấp một mô hình
thiết kế dạy học cho giảng viên tương ứng với các hoạt động học tập của sinh
viên để dẫn dắt sinh viên đi qua đầy đủ bốn giai đoạn của việc học theo mô hình
của Kolb.
Thomas Olsson, Katarina Mårtensson, Torgny Roxå đã lấy tư tưởng từ mô
hình EL của Kolb (Kolb, 1984) để phát triển một mô hình nhằm tích hợp lý
thuyết và thực hành sư phạm vào một quá trình học tập để phát triển các kỹ năng
dạy học và năng lực sư phạm cho sinh viên sư phạm đã được triển khai hiệu quả
tại trường đại học Lund [9].
Clark, R. W., Threeton, M. D., & Ewing, J. C đã xem xét EL dưới hai quan
điểm là: 1/ Trung học nghề nghiệp và quan điểm giáo dục GVKT; 2/ Trung học
nghề nghiệp và quan điểm giáo dục kỹ thuật” [10]. Có thể khái quát nghiên cứu
này qua một số nét chính sau: Thứ nhất, “EL là một khái niệm rộng, thường được
sử dụng bởi các nhà giáo dục để mô tả một loạt các hoạt động thực tế được sắp
xếp trong một cách nào đó để nâng cao kinh nghiệm giáo dục cho học sinh” [10,
tr 47]. Các nhà giáo dục nhìn nhận EL trong hai bối cảnh là: 1/ EL là “kiểu (loại)
của học tập được thực hiện bởi sinh viên đang có cơ hội để tiếp thu và áp dụng
kiến thức, kỹ năng và cảm xúc trong một khung cảnh (thiết lập) trực tiếp và có

8


liên quan” (Smith, 2001, tr 1), nó liên quan đến một cuộc gặp gỡ dựa trên kinh
nghiệm trực tiếp (kiến thức, kỹ năng, cảm xúc) với các sự kiện học tập chứ không
phải chỉ đơn giản là một quá trình suy nghĩ liên quan đến việc học tập nhờ sự
tham gia tích cực của sinh viên (Borzak, 1981); 2/ EL là “nền giáo dục, nó diễn ra
như là một sự tham gia trực tiếp vào các sự kiện của cuộc sống” (Houle 1980, tr
221), có thể đạt được thông qua sự phản ánh trên kinh nghiệm hàng ngày và là
cách mà hầu hết chúng ta làm việc học tập, nó không diễn ra trong cơ sở giáo dục
chính quy [10]. Thứ hai, EL của Kolb được đánh giá có tiềm năng lớn nhất trong
nghề nghiệp và môi trường giáo dục kỹ thuật (vì nó chứa đựng các cuộc gặp gỡ
giáo dục trực tiếp với sự kiện thực), và tăng cường quá trình giáo dục giáo viên
(vì nó tham gia trực tiếp vào các sự kiện thực) [10]. Bốn phương thức học tập
trong mô hình của Kolb được giáo viên sử dụng để đánh giá chuyên môn của học
sinh để có cơ sở xác định phương án thúc đẩy học sinh học tập tốt nhất. Thứ ba,
việc chuyển giao EL cho các cá nhân nhằm giúp học thích ứng với môi trường,
cuộc sống thực tế, học tập suốt đời là rất quan trọng; EL là một quá trình chứ
không phải là là việc cung cấp cho học sinh cơ hội tham gia vào các hoạt động
[10].
3. Kết luận
3.1. Tư tưởng triết học chủ nghĩa thực dụng của Dewey, tâm lý học xã hội
của Lewin, và lý thuyết phát triển nhận thức của Piaget chính là cơ sở để Kolb
phát triển ELT của mình. Từ đó, Kolb đã đề xuất nên mô hình EL được nhiều nhà
giáo dục ủng hộ và áp dụng trong nhiều lĩnh vực trên thế giới.
3.2. ELT là một lý thuyết giáo dục hiện đại, giáo dục hướng vào người học,
phát triển người học. ELT đã và đang trở thành xu thế giáo dục của thế kỷ 21,
đang được áp dụng vào nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau và đã cho thấy hiệu
quả của chúng trong giáo dục.
4. Tài liệu tham khảo

[1]. Catherine A. Broom, Ph.D. & Heesoon Bai, Ph.D. (2011), Exploring
Deweyian Experiential Learning Pedagogy as Citizenship Development,
Journal of Global Citizenship & Equity Education, Volume 1 Number 1.
9


[2]. Reginald D. Chambault biên tập (1974), John Dewey về giáo dục (John
Dewey on Education), bản dịch của Phạm Anh Tuấn, NXB Trẻ năm 2012, tp.
Hồ Chính Minh.
[3]. Smith, M. K. (2001), ‘Kurt Lewin, groups, experiential learning and action
research’, the encyclopedia of informal education, />[4]. Kolb, D.A. (1984), Experiential learning: experience as the source of
learning and Development, Englewood Cliffs, New Jersey: Prentice-Hall.
[5]. Linda H. Lewis & Carol J. Williams (1994), Experiential Learning: Past and
Present, New Directions for Adult and Continuing Education, Volume
1994, Issue 62, pages 5–16, Summer 1994.
[6]. Mary Breunig (2005), Turning Experiential Education and Critical
Pedagogy Theory into Praxis, Journal of Experiential Education, Volume 28,
No.2, pp.106-122.
[7]. Maisarah Mohamed Saat (2014), Using Experiential Learning In Teaching
Business Ethics Course, The Clute Institute International Academic
Conference, Munich, Germany.
[8]. Svinick, M. D., & Dixon, N. M. (1987), “The Kolb Model modified for
classroom activities”, College Teaching, Vol. 35, No. 4, pp. 141-146.
[9]. Thomas Olsson, Katarina Mårtensson, Torgny Roxå (2010), Pedagogical
Competence – A Development Perspective from Lund University, A Swedish
perspective on Pedagogical competence, p 121-132, Swedish.
[10]. Clark, R. W., Threeton, M. D., & Ewing, J. C. (2010), The potential of
experiential learning models and practices in career and technical education
& career and technical teacher education, Journal of Career and Technical
Education, Vol. 25, No. 2, Page 46-62, Winter.

Nguồn: Nguyễn Văn Hạnh, Lê Thi Thu Thủy (2015), Lý thuyết học tập dựa vào
trải nghiêm: Lý luận và thực tiễn, tạp chí Giáo dục và Xã hội của Hiệp hội các

10


trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam số 53 (114) tháng 8 năm 2015, tr. 5450.

11



×