Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.8 KB, 19 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ TIÊU CHÍ PHÂN LOẠI
Xuất hiện cách đây khoảng hơn 200 năm, cho đến những năm cuối thế kỷ
20, kinh tế trang trại mà đặc biệt là trang trại gia đình đã trở thành mô hình sản
xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp các nước phát triển, chiếm tỷ trọng lớn
tuyệt đối về đất đai cũng như khối lượng nông sản, đặc biệt ở các nước Anh, Pháp,
Nga- nơi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu tiên của nhân loại.
Trải qua hàng mấy thế kỉ, đến nay, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển ở
những nước tư bản chủ nghĩa lâu đời cũng như các nước đang phát triển, các
nước công nghiệp mới và đi vào những xã hội chủ nghĩa với cơ cấu và quy mô
sản xuất khác nhau.
Tại Việt Nam, kinh tế trang trại phát triển muộn, chỉ từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và đặc biệt
là từ sau khi có nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/98) về đổi mới quản lý kinh tế
nhà nước, kinh tế hộ nông dân mới từng bước phục hồi và phát triển, phần lớn họ
trở thành những chủ thể tự sản xuất. Cùng với các hộ gia đình công nhân viên chức
làm nông nghiệp, lại có tích luỹ về vốn, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản
lý, tiếp cận được với thị trường, thì sản xuất nông nghiệp mới thoát khỏi cái vỏ tự
cấp tự túc và vươn tới nền sản xuất hàng hoá. Kinh tế trang trại ra đời.
Cho đến nay, quan điểm về kinh tế trang trại vẫn được trình bày theo nhiều
khía cạnh khác nhau.
1. Khái niệm về kinh tế trang trại
a. Trang trại
Có thể hiểu trang trại là một đơn vị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp với
quy mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá.
b. Kinh tế trang trại
PGS.PTS Lâm Quang Huyên, Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp cho
rằng: “Kinh tế trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp, hình thành và
phát triển trong nền kinh tế thị trường từ khi phương thức này thay thế phương
thức sản xuất phong kiến. Trang trại được hình thành từ các hộ tiểu nông sau khi


phá bỏ cái vỏ tự cấp tự túc khép kín, vươn lên sản xuất nhiều nông sản hàng hoá
tiếp cận với thị trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh”
(1)
Khái niệm này đã chỉ đúng bản chất sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại
nhưng lại sailầm khi cho rằng nguồn gốc cuả các trang trại chỉ là xây dựng từ kinh
tế của các hộ tiểu nông.
Trong nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại.
Chính phủ ta đã thống nhất nhận thức về kinh tế trang trại như sau: “Kinh tế trang
trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu
dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong
lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế
biến và tiêu thụ nông- lâm- thuỷ sản”.
Khái niệm này khá đầy đủ, nêu ra được cơ sở, chức năng, hình thức sản xuất
của trang trại nhưng chưa hướng đến tính chất hàng hoá hướng ra thị trường của
trang trại.
Theo quan điểm của trường Đại học Kinh tế Quốc dân: “Kinh tế trang trại là
hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông- lâm- ngư nghiệp, có mục đích chủ
yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hay thuộc quyền sử
dụng của một chủ thể độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và
các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách tổ chức quản lý tiến bộ và trình
độ kĩ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.
Đây là một khái niệm đầy đủ về kinh tế trang trại.
c. Tiêu chí xác định một trang trại.
Không phải nhà nước bỏ qua hình thức tổ chức sản xuất này, nhưng vì đến
trước những năm 2000, do chưa có một sự thống nhất về khái niệm cũng như
tiêu chí xác định trang trại nên mang đầy đủ đặc điểm của một đơn vị sản xuất
kinh doanh nhưng chủ trang trại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin
hưởng các chế độ hỗ trợ của nhà nước. Thông thường các nhà thống kê vẫn sử
dụng những chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng mà tính định lượng
không cao, và các chỉ tiêu này không được thống nhất trong cả nước.

*Tiêu chí định tính:
Có thể dùng tiêu chí này để nhận dạng thế nào là một trang trại, tức là căn cứ
vào mức độ sản xuất nông sản hàng hoá của trang trại để phân biệt kinh tế trang
trại với kinh tế hộ gia đình.
*Tiêu chí định lượng:
(1)
(1)
Báo cáo chuyên đề: “Chính sách phát triển trang trại v tác à động của nó đến việc l m v thu nhà à ập của lao
động nông thôn”, Viện Quy hoạch v Thià ết kế Nông nghiệp, 2002.
Dùng để phân biệt rõ ràng trang trại và không phải trang trại, và để phân loại
các trang trại khác nhau. Ngày 23/6/2000, Liên bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn- Tổng cục Thống kê đã ra thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK hướng dẫn
tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Cụ thể như sau:
I.Các đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là kinh tế trang
trại
Hộ nông dân, hộ công nhân viên nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ
hưu, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính, có kiêm nhiệm
các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
II.Tiêu chí định lượng để xác định là kinh tế trang trại:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định
là trang trại phải đạt được cả hai tiêu chí định lượng sau đây:
1.Giá trị sản lượng hàng hoá và dịchvụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở
lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2.Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và với từng vùng kinh tế.
a.Đối với trang trại trồng trọt:
(1)Trang trại trồng cây hàng năm:

- Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
(2)Trang trại trồng cây lâu năm:
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung
- Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên
- Trang trại trồng hồ tiêu từ 0,5 ha trở lên.
(3)Trang trại lâm nghiệp:
- Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b.Đối với trang trại chăn nuôi:
(1)Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên
- Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên
(2)Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
- Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với
dê, cừu từ 100 con trở lên
- Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3)Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ 2000
con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c.Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
- Diện tích mặt nước có để nuôi trồng thuỷ sản từ 2 ha trở lên (riêng đối
với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d.Đối với các loại sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản có tính
chất đặc thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản
và thuỷ đặc sản, thì tiêu chí xác định là sản lượng hàng hoá.
2. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Hầu hết các ý kiến đều thống nhất về đặc trưng của kinh tế trang trại ở 3
điểm sau đây:
2.1.Mục đích sản xuất của kinh tế trang trại là sản xuất nông- lâm- thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn

Knh tế trang trại là kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hóa, khác với kinh tế
tiểu nông tự cấp tự túc. K.Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông như
sau:
- Chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra
- Người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít
càng tốt.
Đây là điểm khác biệt lớn nhất của kinh tế trang trại so với kinh tế cá thể
sản xuất nông nghiệp trước đây. Sản xuất hàng hoá đòi hỏi các trang trại phải có
quy mô lớn để giảm chi phí đầu vào, tạo ra sản phẩm hàng hoá với giá thành
cạnh tranh, chất lượng cao. Đến lượt nó, sản xuất quy mô lớn lại càng đòi hỏi
phải làm ra sản phẩm hàng hoá để trao đổi trên thị trường vì rõ ràng ngươì chủ
trang trại không thể tiêu dùng hết được.
Quy mô của trang trại lớn gấp nhiều lần quy mô của hộ gia đình hay kiểu
tiểu nông. Nó được đánh giá bằng diện tích đất đai sử dụng, hay bằng giá trị sản
lượng làm ra trong một năm hoặc đo bằng tỉ suất hàng hoá của trang trại.
2.2.Quá trình tích tụ ruộng đất và vốn đầu tư dẫn đến chuyên môn hoá và hình
thành các vùng chuyên canh
Bất kì một hình thức sản xuất nông nghiệp nào cũng cần có sự tập trung
đất đai và vốn ở mức độ nhất định. Do tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn,
quá trình phát triển kinh tế trang trại sẽ dần tạo ra những vùng, tiểu vùng sản
xuất nông nghiệp với cơ cấu sản xuất khác nhau:
- Cơ cấu sản xuất độc canh: là mức phát triển thấp của kinh tế trang trại.
Trang trại chỉ sản xuất kinh doanh một loại cây (con) nhất định, tính
chuyên nghiệp, chuyên môn và tính chất hàng hoá chưa cao.
- Cơ cấu sản xuất đa dạng: trang trại kết hợp nhiều loại cây trồng vật nuôi
để tận dụng mọi năng lực sản xuất của mình.
- Cơ cấu sản xuất chuyên môn hoá: đây là giai đoạn trang trại đã tích luỹ
đủ về đất đai, vốn, năng lực và kinh nghiệm quản lý để tham gia vào hệ
thống phân công lao động xã hội. Khác với cơ cấu độc canh, sản xuất
chuyên môn hoá đòi hỏi ứng dụng rộng rãi những tiến bộ khoa học kĩ

thuật và đạt đến trình độ, tính chất sản xuất hàng hoá cao. Dần dần, nhiều
trang trại cùng chuyên môn hoá một loại cây trồng, vật nuôi có thể hình
thành nên những vùng chuyên canh rộng lớn.
2.3.Tổ chức và quản lý sản xuất theo phương thức tiến bộ
Dựa trên cơ sở thâm canh, chuyên môn hoá sản xuất, các trang trại phải có
cơ chế tổ chức và quản lý sản xuất như là các đơn vị kinh doanh khác, tức là phải
hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận với thị trường, khác
với lối sản xuất “làm tới đâu thì tới” của kinh tế tiểu nông. Ở đây hiệu quả kinh tế
được đặt lên hàng đầu nên tất cả các hoạt động sản xuất đều phải tính toán lợi ích-
chi phí bỏ ra.
Lao động trong trang trại có hai bộ phận: lao động quản lý (thường là chủ
trang trại) và lao động trực tiếp (lao động gia đình và lao động làm thuê). Số lượng
lao động thuê mướn thay đổi tuỳ loại hình trang trại và quy mô trang trại khác
nhau.
Chủ trang trại là người có kiến thức và kinh nghiệm, trực tiếp điều hành sản
xuất, biết áp dụng khoa học công nghệ. Thu nhập của trang trại vượt trội so với
kinh tế hộ.
3. Phân loại kinh tế trang trại
3.1. Theo quy mô đất sử dụng, có thể chia 4 loại:
- Trang trại nhỏ: dưới 2 ha
- Trang trại vừa: 2-5 ha
- Trang trại khá lớn: 5-10 ha
- Trang trại lớn: trên 10 ha
3.2. Phân loại theo cơ cấu sản xuất, chia thành:
* Trang trại trồng trọt:
- Trang trại trồng rừng: thường có quy mô lớn và được phát triển ở các
vùng núi phía Bắc. Loại hình trang trại này không chỉ đòi hỏi lượng vốn
lớn mà thời gian thu hồi vốn lại dài (5-10 năm hoặc hơn) cho nên để
người kinh doanh trang trại có điều kiện nhận thì phải có cơ chế chính
sách hỗ trợ về lâu dài.

- Trang trại trồng cây ăn quả: Đây là loại hình trang trại phổ biến không
chỉ ở miền núi mà còn rất thích hợp với vùng đồng bằng, đặc biệt là
Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng Nam Bộ. Tuỳ điều kiện đất đai, khí hậu
và ý tưởng kinh doanh mà chủ trang trại có thể lựa chọn trồng một hay
nhiều loại cây ăn quả khác nhau.
- Trang trại trồng cây công nghiệp: Loại hình này thường chỉ phù hợp với
những vùng đất có tính chất đặc thù. Có lẽ đây là loại hình trang trại ra
đời ở Việt Nam sớm nhất, bắt đầu từ những đồn điền cao sư của các ông
chủ người Pháp. Đến nay, cây công nghiệp được trang trại lựa chọn rất đa
dạng, bao gồm cả cây công nghiệp dài ngày (cà phê, tiêu, điều...) và cây
công nghịp ngắn ngày (đay...)
- Trang trại trồng cây lương thực, thực phẩm: quy mô đất nhỏ. Rất phù hợp
với điều kiện đất đai và khí hậu vùng đồng bằng. Trong nhóm này, cây
lúa chiếm một vị trí đáng kể.
- Trang trại kinh doanh đặc thù: đó là các trang trại trồng hoa cảnh, cây
cảnh, hoặc nuôi vật cảnh, cung cấp giống cho nông dân... Loại này không
đòi hỏi diện tích đất đai lớn, vốn lớn nhỏ tuỳ loại sản phẩm nhưng phải
có trình độ khoa học kĩ thuật. Rất phù hợp với các vùng đồng bằng vốn
đất đai hạn chế.
*Trang trại chăn nuôi:
Loại hình trang trại này cũng rất đa dạng. Nếu là vùng núi trung du rộng lớn,
thường chăn nuôi các loại đại gia súc (bò, dê...) còn ở vùng đồng bằng là các loại
gia súc nhỏ (lợn, đà điểu,...) và gia cầm.
*Trang trại thuỷ sản: loại hình trang trại này rất đặc thù, nhất thiết phải có mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản với một diện tích nhất định. Ven biển Đồng bằng Sông
Hồng có rất nhiều yếu tố để phát triển ngành này. Tuy nhiên, các trang trại thủy sản
cũng rất thường xuyên phải đối mặt với những rủi ro về khí hậu do những đặc
trưng riêng của ngành.
*Trang trại kinh doanh tổng hợp: chủ trang trại có thể kết hợp trồng trọt với chăn
nuôi, trồng trọt với nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất với dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp

hoặc thậm chí tất cả các hình thức miễn sao có lợi.
3.3. Phân loại trang trại theo chủ thể kinh doanh
Chủ trang trại có thể sở hữu hoặc đi thuê tư liệu sản xuất. Trường hợp phổ
biến là chủ trang trại sở hữu quyền sử dụng đất nhưng phải đi thuê máy móc, thiết
bị, chuồng trại, kho tàng. ở Việt Nam, người chủ trang trại chỉ có quyền sử dụng
đất (tư liệu sản xuất chủ yếu) chứ không có quyền sở hữu nên tốt nhất không phân
loại theo loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất.
Theo chủ thể kinh doanh, có thể chia kinh tế trang trại thành:
-Trang trại nhà nước: như nông trường quốc doanh, công ty nông nghiệp nhà
nước, thường có quy mô lớn nên hình thành nên nhiều cấp trung gian. Các nông
trường các công ty này lại khoán cho gia đình công nhân lập trang trại gia đình.
-Các hợp tác xã nông nghiệp: sau khi luật hợp tác xã ra đời, nhiều hợp tác xã
nông nghiệp chuyển thành hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra cho các hộ gia đình
nông dân. Hợp tác xã nông nghiệp cũng có thể hình thành nhờ sự hợp tác sản xuất
của các xã viên. Hình thức này ngày nay rất ít tồn tại.
-Trang trại của công ty hợp doanh: Là loại hình kinh doanh nông nghiệp quy
mô lớn theo hướng sản xuất hàng hoá của các công ty hợp doanh. Họ có thể trực
tiếp sản xuất hoặcgiao cho các hộ gia đình hay một đơn vị kinh tế khác làm, hùn
vốn hay góp phần lớn vốn góp.
-Trang trại gia đình: Đây là loại hình phổ biến nhất của kinh tế trang trại trên
thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Loại hình này thực chất là các hộ nông
dân từ kinh tế tiểu nông sản xuất tự túc, tiến lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá
với các mức độ khác nhau. Trang trại gia đình rất đa dạng về quy mô, về sở hữu và
sử dụng ruộng đất, về chủng loại và số lượng lao động với số lượng khác nhau, về
nguồn vốn và khoa học công nghệ, về ngành nghề, mặt hàng sản xuất.Trong hình
thức này, mỗi gia đình là một chủ thể kinh tế, họ bỏ vốn và sức lao động để sản
xuất, tự lo cả đầu vào và đầu ra cho sản phẩm.
-Trang trại tư nhân kinh doanh nông nghiệp: là loại trang trại của cá nhân
các nhà tư bản, công thương gia, hoặc công ty cổ phần , hoặc thuê đất đai, thuê lao
động sản xuất kinh doanh nông nghiệp nghĩa là họ hoàn toàn sử dụng lao động

×