Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Công cụ lãi suất của chính sách tài chính và thực trạng điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước việt nam thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.41 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp, nó vừa là công cụ hết sức
quan trọng và nhạy cảm trong việc điều hành chính sách tiền tệ,vừa là giá cả sử dụng
vốn của hoạt động tín dụng. Vì vậy, nó có tác động to lớn đối với việc tăng hay giảm
khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng tạo thuận lợi hay khó khăn
cho hoạt động ngân hàng.Vai trò của lãi suất ngày càng trở nên quan trọng trong giai
đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong giai đoạn đất nước tiến hành công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đối với Việt Nam, lãi suất luôn luôn là một trong
những mối quan tâm hàng đầu của các chuyên gia kinh tế,các nhà quản lý kinh tế và
các tầng lớp dân cư. Dựa trên cơ sở những kiến thức đã học và những tài liệu thu thập
được nhóm em xinh trình bày đề tài: “Công cụ lãi suất của chính sách tài chính và
thực trạng điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thời gian qua”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận bài tiểu luận bao gồm 3 phần
Phần I: Cơ sở lý luận
Phần II: Thực trạng điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam trong thời gian
qua
Phần III: Một số ý kiến bình luận

1


PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm về lãi suất
Trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội luôn tồn tại những hiện
tượng có những tác nhân tạm thời có một số vốn nhàn rỗi bên cạnh những tác nhân
tạm thời thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn này đồng thời để thoả mãn nhu cầu cũng
như đem lại lợi ích cho cả người thừa vốn lẫn người thiếu vốn, quan hệ tín dụng nảy
sinh. Khi đó người thừa vốn sẽ cho người thiếu vốn được quyền sử dụng số vốn tiền tệ
của mình trong một thời gian xác định với điều kiện người sử dụng số vốn đó phải
hoàn trả lại đúng thời hạn và thêm vào đó là khoản tiền dôi dư tính cho quyền sử dụng
số vốn đó. Đó chính là cơ sở xuất hiện của lãi suất.


Khái niệm chung nhất về lãi suất
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là : ”Lãi suất tín dụng là tỷ lệ
phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong một thời kỳ
nhất định”.
Lãi xuất tín dụng

=

Số lợi tức thu được trong kỳ

x

100 %

Số tiền vay phát ra trong kỳ
Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay, hay nói cách khác, đó chính là
phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu được sau một thời
gian nhất định. Lãi suất tín dụng chính là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi tức
cao hay thấp khác nhau.
1.2. Những vấn đề cơ bản về lãi suất
1.2.1. Nguyên tắc xác định lãi suất
Căn cứ vào quan hệ cung - cầu tiền vay: Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền
vay thì lãi suất tăng và ngược lại. Khi cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn
định.
- Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố:
+ Mức thu nhập:sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các khoản
tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lêncủa cung tiền vay qua đó kéo lãi suất hạ
xuống.
+ Mức lạm phát: sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các khoản tiền

giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm,cung tiền giảm ,
đảy lãi suất tăng lên.

2


+ Mức rủi ro của việc cho vay: khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên,làm giảm
bớt việc cho vay,cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao.
- Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay:
+ Mức lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng làm tăng
nhu cầu về vốn đầu tư,cầu tiền vay tăng đẩy lãi lên suất lên cao.
+Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc sử
dụng tiền vay,cầu về tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao.
+Mức bội chi ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước bội chi làm tăng cầu
tiền vay dẫn đến lãi suất tăng. Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng
và ngược lại. Khi cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.
Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Lãi suất tín dụng ngắn hạn
- Lãi suất tín dụng trung hạn – dài hạn
Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương:
- Tỷ lệ lạm phát bình quân
- Lãi suất huy động vốn bình quân
- Lãi suất cho vay bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận bình quân
1.2.2. Các loại lãi suất tín dụng
Lãi suất cơ bản: Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng trung ương công bố
trên cơ sở đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng quy định lãi suất kinh
doanh đảm bảo có lãi.
Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất do Ngân hàng trung
ương quy định để cho vay đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng

dưới hình thức tái chiết khấu, tái cầm cố các thương phiếu và giấy tờ có giá.
Lãi suất trần và lãi suất sàn: Đó là mức lãi suất cao nhất và mức lãi suất thấp
nhất trong một khung lãi suất do Ngân hàng trung ương quy, lãi suất của ngân hàng
thương mại có thể tự do dao động trong khung đó.
Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà người cho vay được
hưởng, không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ.
Lãi suất thực: Lãi suất thực là lãi suất mà người cho vay được hưởng sau khi đã
tính đến sự biến động của tiền tệ như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ.

3


Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng: là lãi suất mua bán vốn giữa các
NHTM do NHTƯ điều hành và ấn định.
Các loại lãi suất tín dụng được hình thành một cách đa dạng trong nền kinh tế
thị trường. Đại bộ phận chúng đều do NHTƯ kiểm soát và khống chế. Xu hướng
chung sẽ tiến tới một lãi suất phổ thông đơn giản.Thời điểm đó, ở các nước chậm phát
triển lãi suất tín dụng còn cao.Còn ở các nước có nền kinh tế phát triển lãi suất thường
hạ.Ngày nay do sự hội nhập kinh tế giữa các quốc gia,cho nên mặt bằng lãi suất có cơ
hội được thiết lập giữa nhiều nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng
- Cung và cầu về tiền vay
- Mức độ rủi ro trong việc hoàn trả vốn: Khi mức độ rủi ro càng cao thì người
ta sẽ tính lãi suất càng cao và ngược lại.do vậy,tuỳ theo điều kiện đảm bảo và mức độ
bảo toàn vốn vay của các khoản tiền vay mà lãi suất có thể cao hay thấp.
- Số lượng vốn vay và thời hạn vay: Thông thường số lượng lớn và thời hạn vay
dài sẽ được tính lãi suất cao hơn số lượng nhỏ và thời hạn ngắn vì mức độ rủi ro
thường cao hơn.
- Mức sinh lời của nền kinh tế: Mức lãi suất cho vay chỉ được chấp nhận khi nó
nhỏ hơn mức sinh lời của nền kinh tế đẻ đảm bảo cho người vay có lãi khi sử dụng vốn

trong quá trình sản suất kinh doanh.Mức sinh lời cao thì lãi suất sẽ cao và ngược lại.
- Thu - chi Ngân sách Nhà nước: Khi ngân sách nhà nước bội chi,chính phủ bù
đắp bội chi bằng cách phát hành và bán tín phiếu,trái phiếu chính phủ,làm tăng nhu
cầu vay tiền và tăng lãi suất. Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ tăng mức cung của
quỹ cho vay làm cho lãi suất giảm.
- Chi phí hoạt động của Ngân hàng: Vì lãi suất cho vay = lãi suất huy động +
chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó chi phí hoạt động ngân hàng cao sẽ đẩy lãi suất
tăng và chi phí hoạt động giảm sẽ làm lãi suất giảm. Như vậy để duy trì mức lãi suất
vừa phải ,thúc đẩy nhu cầu vay vốn thì các ngân hàng cần tích cực giảm chi phí hoạt
động cũng như thu hẹp các bộ phận cán bộ dư thừa hay cán bộ kém năng lực,tiết kiệm
chi phí để giảm lãi suất cho vay.
- Lạm phát: Khi lạm phát cao thì người cho vay sẽ không muốn cho vay,cung
tiền vay giảm xuống trong khi cầu tiền vay tăng lên (do chi phí cho khoản vay giảm
đi) đẩy lãi suất tăng cao.
Lãi suất tín dụng chịu tác động của rất nhiều yếu tố cho nên để xây dựng một
chính sách lãi suất hợp lý,các nhà quản lý,các cơ quan chức năng có liên quan phải có
một cách nhìn nhận tổng hợp sát thực để có những quyết định đúng đắn đem lại lợi ích

4


cho người đi vay cũng như đảm bảo quyền lợi của người cho vay, bảo toàn đồng vốn
và đảm bảo cho các NHTM ,tổ chức tín dụng kinh doanh có lãi và cao hơn nữa là ổn
định giá trị đồng tiền,thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.3. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế
thị trường .Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng nói riêng
và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung .tác dụng của lãi
suất được thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô: Tăng hay giảm lãi suất cho

vay, sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống hay tăng lên. Như vậy quyết định đến
việc thu hẹp hay mở rộng sản suất. Tình trạng này sẽ dẫn đến số lượng công việc làm
trong xã hội tăng lên hay giảm xuống. Điều đó có nghĩa rằng, lãi suất tín dụng đã có
ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Mặt khác,
tăng hay giảm lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu sẽ có ảnh hưởng trực
tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước. do đó sẽ ảnh hưởng đén cung cầu ngoại
tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Như
vậy,có thể khẳng định lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
- Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô: Trong nền kinh tế,
thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
do những nguyên nhân không lường trước được. khi xảy ra những hiện tượng như vậy
chính phủ thường sử dụng nhữnh công cụ kinh tế trong đó có lãi suất tín dụng để điều
chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho kinh tế khu vực,ngành hay toàn bộ nền kinh
tế phát triển. Chẳng hạn,trong điều kiện lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất tiền
gửi để rút bớt tiền trong lưu thông về, hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa
các khu vực, để điều hoà lưu thông tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất
và lưu thông hàng hoá phát triển. Là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô, lãi suất tín dụng
phải được xử lý kịp thời và chính xác. Điều đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm
vững thông tin kinh tế, biết xử lý thông tin, để có những quyết định chính xác trong
việc thực hiện chính sách lãi suất.
- Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động
đồng thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi
suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở
rộng phạm vi ảnh hưởng của ngaan hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh thắng
lợi, mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của mình.Chiến lược này
được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các ngân hàng thương mại đều tìm mọi

5



biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Theo lý thuyết
tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản về thu nhập. Thu nhập =
Tiêu dùng + Tiết kiệm. Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính
của các hộ gia đình, các doanh nghiệp mà cả đói với nền tài chính quốc gia. Giả sử,
trong điều kiện của mộy nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là
hợp lý. Để tăng tỷ lệ tiết kiệm,khuyến đầu tư,tức là tăng khả năng tài chính cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân,thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn.
Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét lại các
khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên,có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi
này, để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau đó từ khoản tiết kiệm này,
họ sẽ chọn hướng đầu tư: Gửi vào ngân hàng, vào quĩ bảo hiểm, hay đầu tư vào thị
trường chứng khoán... khi thấy có lợi hơn. Như vậy có thể khẳng định lãi suất là công
cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm. Nhưng nâng lãi
suất huy động vốn đến mức độ nào,thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự
phát triển hài hoà của nền kinh tế quốc dân.

6


PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Một số quan điểm về điều hành lãi suất ở Việt Nam
Quan điểm 1
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nghiệp vụ tái chiết khấu cho nên không có công
cụ là thương phiếu hay các giấy tờ có giá nhưng ở nước ta lại có lãi suất tái cấp vốn
của Ngân hàng Trung ương cho các Ngân hàng Thương mại .Do đó đãcó ý kiến lấy lãi

suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản . Nếu như hiểu được lãi suất cơ bản là lãi suất tái
cấp vốn thì điều này trái với luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng ban
hành năm 1997 trong luật này đã xác định rõ lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn
.Trên thực tế chúng ta thấy bản chất của 2 loại lãi suất này cũng không giống nhau lãi
suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Trung ương công bố là lãi suất làm cơ sở cho các
tổ chức tín dụng Lãi suất và các vấn đề liên quan đến lãi suất 6/7 xác định mức lãi suất
kinh doanh còn lãi suất tái cấp vốn là lãi suất mà Ngân hàng Trung ương quy định đối
với các khoản vay cuối cùng trong các hình thức sau : Ngân hàng Trung ương cho vay
chiết khấu và tái chiết khấu Ngân hàng Trung ương cho vay đối với giá trị hợp đồng
tín dụng chưa đến hạn cuả Ngân hàng Thương mại Ngân hàng Trung ương cho vay
cầm cố bất động sản và thế chấp các chứng từ khác có giá trị của Ngân hàng Thương
mại Bằng các hình thức tái cấp vốn này Ngân hàng Nhà nước sử dụng linh hoạt để thắt
chặt hay lới lỏng tín dụng phương tiện thanh toán trong điều kiện cụ thể có khi lãi suất
tái cấp vốn có thể thấp hơn hay bằng lãi suất cho vay của Ngân hàng Thương mại
nhưng thực tế tình hình lãi suất hiện nay ở Việt Nam chưa thể sử dụng lãi suất tái cấp
vốn để điều hành chính sách tiền tệ được .
Quan điểm 2
Vẫn duy trì trần lãi suất như hiện nay và xem nó là lãi suất cơ bản trong quá
trình xác định lãi suất có thể cộng thêm mức biên độ giao động của lãi suất cơ bản
.Quan điểm này có sự bất hợp lý đó là khi công thêm vào trần lãi suất sẽ làm lãi suất
cao hơn trần lãi suất điều này không phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam
Quan điểm 3
Lãi suất cơ bản là loại lãi suất xác định dựa vào lãi suất đầu vào và công bố giới
hạn tối đa để các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất
kinh doanh với quan điểm này lãi suất cơ bản tạo ra khả năng chủ động giảm lãi suất
của các Ngân hàng Thương mại đạc biệt là lãi suất cho vay .Cũng do đó các Ngân
hàng Thương mại có điều kiện tốt hơn để huy động vốn với lãi suất thấp còn đối với
những vùng khó khăn thì lãi suất cao hơn trong việc huy động vốn .

7



Quan điểm 4 : Nên bãi bỏ lãi suất cơ bản (LSCB)
NHNN nên thay việc công bố LSCB hiện nay bằng việc công bố lãi suất mục
tiêu và sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để bảo vệ mục tiêu đã được công bố. Mục
đích là nhằm hạn chế cho vay nặng lãi của công cụ LSCB, nên được thay bằng lãi suất
cho vay trung bình của các NHTM lớn được NHNN hoặc Hiệp hội ngân hàng công bố
hằng ngày.
Hiện nay với cơ chế trần lãi suất, cho dù LSCB tăng hay giảm thường xuyên thì
cũng là cái áo quá chặt và quá cứng cho thị trường , mà thị trường thì yêu cầu cơ chế
linh hoạt, mềm dẻo, theo quan hệ cung cầu. Vì vậy, khi LSCB không có ý nghĩa kinh
tế, là một lãi suất không có thực, không có tác động mang tính thị trường mà mang
nặng tính hành chính thì nên bỏ và thay vào đó là lãi suất thực, lãi suất mà NHNN sử
dụng thực sự trong mối quan hệ với các TCTD , để thông qua đó điều tiết thị trường,
nhất là trong điều kiện kinh tế VN hiện đã tiến sâu vào cơ chế thị trường, thị trường
tiền tệ đã phát triển, hệ thống TCTD đã phát triển, các công cụ của thị trường cũng đã
phát triển.
2.2. Thực trạng điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua
2.2.1. Giai đoạn 2008 – 2010:
Theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính trong và ngoài nước, của
giới ngân hàng cũng như công luận nói chung, việc điều hành chính sách tiền tệ trong
giai đoạn 2008-2010 đã thực sự thành công. Ngân hàng Nhà nước đã có những quyết
định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong điều hành lãi suất, tỷ giá,… và những liệu
pháp đó đã nhanh chóng có tác động điều tiết rõ rệt đối với thị trường. Có thể điểm lại
một số ví dụ.
- Về lãi suất
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã
được NHNN điều chỉnh tăng lên mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12%
từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09, LSCB đã được đẩy lên mức
đỉnh - 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn

(LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp
dụng trong khoảng thời gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các
Tổ chức tín dụng cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất dự trữ bắt buộc (DTBB)
bị điều chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối
với các NHTM.
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra
một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ
các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh

8


điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn
trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ
còn là 19,89%.
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng
bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng.
LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ 05/11/08) và liên tiếp
được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ
05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% (từ 01/02/09) cho đến hết
năm. Cùng với LSCB, LSTCK, LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được
bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được nới lỏng dần đi kèm với
việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường, làm
tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng
gần ½ mức tăng của năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~
17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn
định kinh tế vĩ mô.
- Hỗ trợ lãi suất
Nhìn lại năm 2009, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã đặt hệ thống ngân
hàng Việt Nam đứng trước một năm đầy khó khăn và thách thức. Trên cơ sở bám sát

chỉ đạo, điều hành của Chính phủ cùng với sự nỗ lực của toàn ngành, hoạt động ngân
hàng năm 2009 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong đó, nổi bật là việc triển khai
kịp thời cơ chế hỗ trợ lãi suất, điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động của các ngân
hàng thương mại (NHTM) trong năm 2009 đã có sự ổn định tương đối so với năm
2008. Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản:
+ Với doanh nghiệp: Giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%.
+ Với dân cư: Trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo
lao động.
+ Về phía Chính Phủ: Tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò
của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát
huy mạnh mẽ. Đến hết tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất (HTLS) của
toàn hệ thống ngân hàng đã đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh
nghiệp nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454 tỷ
đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng.
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ
trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản

9


xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền cho
người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới,… Gói
hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng)
với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”. Phần lớn tiền hỗ trợ
không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách
này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được
nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích
thích được nhu cầu trong nước,…

Trên thực tế, những biến động và căng thẳng trên thị trường tiền tệ vẫn còn tồn
tại, ở một số thời điểm, đã có những ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp
và tâm lý của người dân trong nền kinh tế, đồng thời cũng đặt ra những thách thức đối
với hoạt động của ngành Ngân hàng trong năm 2010. Một trong những vấn đề của năm
2009, mặc dù đã có những giải đáp cụ thể về chính sách điều hành, song, trong những
tháng đầu năm 2010, vẫn nổi lên những vấn đề tranh luận xoay quanh việc điều hành
chính sách lãi suất của NHNN, đặc biệt là việc dỡ bỏ trần lãi suất huy động có được
thực hiện hay không đã gây ảnh hưởng không tích cực đến sự ổn định của hệ thống
ngân hàng.
Thực trạng của nền kinh tế nước ta giai đoạn 2008-2010 đang phải đối mặt với
áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng
trưởng kinh tế quí I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quí I/2009, vốn
đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song
nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ
USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có
xu hướng tăng trở lại.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008
và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện rõ nét
của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa
thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao,
khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM
(mức tăng trưởng tín dụng quí I chỉ đạt 3,34%). Trong quí I/2010, tăng trưởng tín dụng
không cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng lên,
điều đó cho thấy vốn của các NHTM là không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất
huy động mà NHNN đã khuyến cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của
Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm
bảo một mức lãi suất thực hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM
là vẫn đua nhau tăng mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện
tượng này biểu hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn


10


chặn sẽ gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng
ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường giai đoạn 2008-2010, còn có một đặc điểm ảnh hưởng
không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng
mức lãi suất chính sách là không nhỏi. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi
suất trong thời đó, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được
áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng
Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi
ODA khác nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền
kinh tế, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi
suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn
nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng
theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam thời bấy
giờ. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái
chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.
Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh
doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực mà
mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi
suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3
tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy
nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng
của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi
suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần lên. Như vậy có nghĩa là các
NHTM sẽ vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN
dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín
hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.

(Xem Đồ thị 2)

11


Nguồn: NHNN
Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì thời
điểm đó, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối
cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước
lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương
pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2007 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho
thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm
0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ
ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ngoài
lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ
biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng
kinh tế.
(Xem Đồ thị 3)

Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi

12


suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ
giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây
ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng
cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên
như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các

chính sách khác (như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều
chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất
tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này.
2.2.2. Giai đoạn 2011 – nay
Từ 2011 đến nay, với chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách lãi suất của Ngân
hàng Nhà nước đã có những thay đổi theo hướng kiểm soát chặt chẽ hơn, khởi nguồn
bằng chính sách lãi suất trần huy động theo Thông tư 02/2011 ngày 3/3/2011. Từ đó
đến nay, chính sách lãi suất trần huy động vẫn được thực hiện, nhưng có sự điều chỉnh
linh hoạt hơn, chỉ tập trung vào huy động ngắn hạn và điều chỉnh theo tín hiệu thị
trường; và trần lãi suất cho vay ngắn hạn của một số ngành, lĩnh vực trọng điểm. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc Ngân hàng Nhà nước vẫn đánh giá hệ thống tổ chức tín
dụng chưa thực sự hoạt động trở lại bình thường và cần giám sát chặt chẽ để đảm bảo
tính an toàn cao nhất của cả hệ thống.
Theo Thống đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình cho biết: năm 2015 vấn đề lãi
suất vẫn là vấn đề lớn, việc giảm thêm lãi suất và duy trì ổn định lãi suất như năm
2014 là hết sức khó khăn bởi nền kinh tế đang có dấu hiện phục hồi, khiến áp lực tăng
lãi suất là rất lớn. Nhưng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ phối hợp với các bộ, cơ
quan điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô, thúc
đẩy tăng trưởng và hỗ trợ phát triển thị trường tài chính, chứng khoán để tăng khả
năng huy động vốn cho đầu tư phát triển. Điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp diễn biến
kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp gắn với kiểm
soát và nâng cao chất lượng tín dụng.
Năm 2011-2013: Chủ động điều hành lãi suất theo mục tiêu
Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt
thị trường, đồng thời có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh tế
vĩ mô và tiền tệ; mặt bằng lãi suất cho vay và huy động đã giảm mạnh so với cuối năm
2011.
Bước sang năm 2011, NHNN đã thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành
nhằm kiểm soát tốc độ thị trường tự do dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo
hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất


13


xuống 16%. Nhờ đó, đến cuối năm 2011, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều
chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ.
Việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm
trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi suất huy động
và cho vay trong những tháng cuối năm 2013.
Trong đó, lãi suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,51%/năm và dao động ở mức 14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm.
Tình hình kinh tế những tháng cuối năm đã có dấu hiệu cải thiện, GDP năm
2011 tăng 5,89%, lạm phát so cùng kỳ năm trước bắt đầu có dấu hiệu chững lại và
giảm dần từ mức 22% trong tháng 10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và 18,13%
trong tháng 12.
Ngay từ đầu năm 2012, NHNN đã đưa ra mục tiêu giảm lãi suất huy động
xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa ra lộ trình giảm trung bình
mỗi quý 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn
VND đối với 5 lĩnh vực ưu tiên; trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các
lĩnh vực ưu tiên được điều chỉnh giảm từ mức 15%/năm xuống 12%/năm.
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất
cho vay giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007.
Lãi suất cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các
khách hàng tốt chỉ còn 9-11%/năm.
Trên cơ sở kết quả điều hành chính sách tiền tệ đã đạt được, các mục tiêu do
Quốc hội và Chính phủ đề ra trong năm 2013, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và
đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu
thông nhằm đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ.
Đến cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện thanh toán tăng 9,16% so với cuối
năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong năm 2013, thanh khoản của hệ
thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt được điều hành theo hướng

giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm 2013 đã giảm khoảng 2-5%/năm
so với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 35%/năm và đã trở về mức lãi suất của thời kỳ 2005-2006, các tổ chức tín dụng cũng
chủ động giảm lãi suất đối với những khoản cho vay còn tồn đọng.
Năm 2013 , trần lãi suất huy động đã giảm về mức 7%/năm và chỉ áp dụng đối
với kỳ hạn dưới 6 tháng, trần lãi suất cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên là 9%/năm, tỷ
trọng những khoản cho vay có lãi suất đến 13%/năm chiếm khoảng 74,97%. Sau nhiều
tháng tăng chậm, tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 6,45%

14


so với đầu năm, khả năng đạt mục tiêu thị trường tự do 12% trong năm 2013 đang trở
thành hiện thực.
Như vậy, từ năm 2011 đến 2013, tín dụng tuy tăng chậm hơn so với giai đoạn
trước đây, nhưng chất lượng tín dụng đã tăng cao, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
ở mức hợp lý. Việc điều hành lãi suất đã định hướng, dẫn dắt thị trường, đồng thời có
sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền tệ; mặt
bằng lãi suất cho vay và huy động đã giảm mạnh so với cuối năm 2011.
Chính sách lãi suất năm 2014
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện 2 lần cắt giảm lãi suất điều hành như sau:
Lần thứ nhất, thực hiện vào ngày 17-3-2014: lãi suất tái cấp vốn từ 7%/năm
xuống 6,5%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không
kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng giảm từ 1,2%/năm xuống 1%/năm; lãi suất tối đa áp
dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7%/năm xuống
6%/năm. Từ thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước không khống chế lãi suất tiền gửi có
kỳ hạn từ 6 tháng trở lên như trước đó mà các tổ chức tín dụng chủ động ấn định trên
cơ sở cung - cầu vốn thị trường. Lãi suất cho vay ngắn hạn 5 lĩnh vực ưu tiên giảm từ
9%/năm xuống 8%/năm.

Lần thứ hai, thực hiện vào ngày 29-10-2014: Lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND
từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6
tháng; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa các lĩnh vực ưu tiên từ mức 8%/năm
xuống còn 7%/năm; giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD từ mức 1%/năm
xuống 0,75%/năm.
Thay đổi trong điều hành lãi suất năm 2014 của Ngân hàng Nhà nước đã tác
động tích cực đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại. Nguồn
vốn huy động có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên của các ngân hàng thương mại được gia
tăng hơn. Nhiều người lựa chọn gửi kỳ hạn tới 24 và 36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp
tục giảm trong năm 2015. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch kỳ hạn ngắn từ
1,6% - 2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn có của nó.
Xem xét riêng diễn biến lãi suất bình quân của các ngân hàng thương mại nhà
nước và ngân hàng thương mại nhà nước đã cổ phần hóa, khối này chiếm trên 50% thị
phần huy động vốn và cho vay trong năm 2014 thì có thể thấy, lãi suất cho vay đã
giảm tới 3%, lãi suất huy động vốn cả 2 kỳ hạn đều giảm 1%. Còn nhìn dài hạn hơn,
so sánh thời điểm hiện nay thì cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nội tệ của các tổ
chức tín dụng đều giảm về mức thấp hơn mặt bằng lãi suất cách đây 10 năm.

15


Nhìn chung, toàn bộ thị trường đến cuối tháng 12-2014, lãi suất giảm từ 1,5% 2% so với cuối năm 2013, nhưng người dân vẫn gửi tiền vào hệ thống ngân hàng
thương mại. Tính đến hết năm 2014, ước tính tổng phương tiện thanh toán tăng 16%,
huy động vốn tăng 15,5% so với cuối năm 2013; trong đó huy động vốn VND tăng
16,5%, chủ yếu ở khu vực dân cư; vốn huy động ngoại tệ tăng 8,2%. Thanh khoản của
các tổ chức tín dụng được bảo đảm và dư thừa.
Nguyên nhân chủ yếu là do điều hành chính sách tiền tệ bảo đảm cho người gửi
tiền có lãi suất thực dương. Lãi suất tiền gửi nội tệ bình quân lên tới 6% - 8%/năm,
trong đó chỉ số CPI chỉ từ 2,08% - 2,2%, người gửi tiền vẫn có thu nhập thực tế từ lãi
suất khoảng 4% - 5,8%. Đầu tư vào vàng, ngoại tệ, chứng khoán,… đều bị thua lỗ; đầu

tư vào bất động sản có nhiều rủi ro; bỏ vốn ra kinh doanh thì vẫn gặp nhiều khó khăn
do cầu của nền kinh tế yếu. Bên cạnh đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại đã đạt
được những kết quả quan trọng, nên người dân tin tưởng gửi tiền vào hệ thống tổ chức
tín dụng ở Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước cũng ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng
quy mô và linh hoạt điều hành thị trường mở, cho vay tái cấp vốn, trung hòa số tiền
bơm ra để mua ngoại tệ cho quỹ dự trữ ngoại hối,… Kèm theo đó, Ngân hàng Nhà
nước thực hiện quyết liệt đề án tái cơ cấu, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Nếu nhìn vào động thái diễn biến lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà
nước kể từ giữa năm 2013 đến nay, rõ ràng là chính sách tiền tệ đang theo hướng nới
lỏng, song thực tế thì tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của năm 2014 chỉ
tăng theo dự kiến.
Chính sách lãi suất năm 2015
Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước sẽ càng thận trọng. Năm 2015,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối
hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát dưới 5%, đồng thời ổn
định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 6,2%, bảo đảm thanh khoản của
các tổ chức tín dụng và nền kinh tế. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã có kế hoạch giảm
tiếp lãi suất cho vay trung và dài hạn từ 1-1,5 điểm %/năm.
Khó khăn trong duy trì mặt bằng lãi suất hiện tại.
Lạm phát hai tháng đầu năm 2015 liên tiếp giảm ngay trong mùa cao điểm tiêu
dùng là thuận lợi cho mục tiêu kiểm soát lạm phát thấp và đưa tới kỳ vọng có thể tiếp
tục hạ lãi suất. Theo đánh giá thì lãi suất thực ở Việt Nam đang chuyển sang nguỡng
tích cực.
Tiếp tục giảm lãi suất cho vay là mục tiêu, nhưng ngay việc giữ được mặt bằng
hiện có cũng đã là khó khăn vì có thể xuất hiện những yếu tố cản trở, đó là: Khả năng
giá dầu không giảm tiếp mà có thể tăng lên trong năm 2015. Nếu giá dầu lên mức 7090 USD/thùng thì lạm phát có thể tăng lên. Đến nay sau 15 lần giảm liên tiếp, ngày

16



11/3, giá xăng dầu trong nước đã bắt đầu tăng mạnh. Giá điện tăng 7,5% từ ngày 16/3
tạo ra tâm lý cộng hưởng đối với người tiêu dùng. Kinh tện tăng 7,5% từ ngày 16/3 tạo
ra tâm lý cộng hưởng đối vớiu cầu vốn có thể tăng lên và gây áp lực đối với lãi suất.
Điều này cũng bắt đầu có dấu hiệu xảy ra trong hai tháng đầu năm, khi tăng trưởng tín
dụng tăng gần 1% trong khi những năm trước đều tăng trưởng âm kéo dài. Với những
diễn biến trên, dự báo chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước sẽ càng thận trọng.
Đánh giá tác động chính sách giảm lãi suất cho vay tới một số chỉ tiêu kinh tế
vĩ mô.
Như đã đề cập ở trên, Ngân hàng Nhà nước đã có kế hoạch giảm tiếp lãi suất
cho vay trung và dài hạn từ 1-1,5 điểm %/năm để kích thích tăng trưởng kinh tế. Kết
quả tính toán tác động của chính sách này tới một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô Việt Nam
được nhóm nghiên cứu thuộc Ban Kinh tế thế giới, Trung tâm Thông tin & Dự báo
kinh tế-xã hội quốc gia đưa ra theo Mô hình NIGEM, cụ thể:
Trong kịch bản 1, Ngân hàng nhà nước tiếp tục cắt giảm lãi suất cho vay 1 điểm
% để kích thích sản xuất và tiêu dùng trong nước thì năm 2015 tăng trưởng GDP của
Việt Nam sẽ tăng thêm 0,2 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,79 điểm %, dự trữ ngoại hối
sẽ tăng thêm 363 triệu USD (lên mức 37.496 triệu USD) so với kịch bản cơ sở. Kịch
bản 2, cắt giảm lãi suất cho vay 1,5 điểm %, tăng trưởng kinh tế sẽ tăng thêm 0,32
điểm %, lạm phát tăng thêm 1,28 điểm %, dự trữ ngoại hối tăng thêm 581 triệu USD.
2. Lãi suất trên thị trường Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đầu tháng
3/2015, các ngân hàng đã có một đợt điều chỉnh giảm mạnh và kéo mức lãi suất huy
động kỳ hạn ngắn xuống mức kỷ lục chỉ còn 4%/năm (ở Agribank và Vietcombank),
và phổ biến ở mức 4,5-5%/năm. Tuy nhiên trên thực tế toàn hệ thống gần như vẫn
chưa có điều chỉnh lãi suất cho vay so với mặt bằng đã thiết lập trước Tết.
Cụ thể, lãi suất cho vay vẫn dao động ở mức 7-11%, tùy khoản vay ngắn, trung
hoặc dài hạn. Ở một số chương trình ưu đãi, có một số ngân hàng đã triển khai cho vay
ở mức 6% hoặc dưới 7%. Điển hình như BIDV (cho vay DN, hộ kinh doanh nhỏ và
siêu nhỏ với thời gian vay 5 tháng); OCB (ưu đãi 3 tháng đầu với khoản vay 12 tháng),
Viet Capital Bank (hạn mức gói vay 1000 tỷ đồng); TPBank (6,99%), đặc biệt VIB
còn cho vay lãi suất 0,68% kéo dài 30 tháng đối với khoản vay trên 5 năm. Nhìn chung

các gói vay ưu đãi này đều chỉ tập trung ưu đãi khách vay tiền ngắn hạn, hoặc thời
gian được hưởng ưu đãi rất ngắn. Trong khi đó, một vấn đề đáng quan tâm là tỷ lệ vay
lãi suất cao từ 11%, thậm chí tới 12% vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tín dụng của
toàn hệ thống (khoảng xấp xỉ 30%).
Một số chuyên gia cho rằng để hệ thống điều chỉnh giảm được lãi suất cho vay
thì cần có thời gian, với độ trễ là khoảng 5 - 6 tháng so với khi mặt bằng lãi suất huy

17


động đã được giảm thấp so với lãi suất điều hành, vì khi đó các ngân hàng mới có thể
cân đối lại dòng vốn.
Mặt khác, nếu trên thị trường tỷ giá VND/USD quá tăng thì vẫn sẽ có những tác
động khiến giá hàng hóa nhập khẩu tăng, cán cân thanh toán, cán cân thương mại tăng
và dẫn đến lạm phát tăng. Như vậy để giữ lãi suất thực dương, lãi suất huy động cũng
khó giảm và chi phí vốn của ngân hàng khó giảm, dẫn đến lãi suất cho vay càng khó
giảm.
Do đó, để hỗ trợ doanh nghiệp thì các nhà điều hành cần có động thái mạnh tay đối với
dòng vốn trung và dài hạn để doanh nghiệp có thể có giá vốn rẻ hơn nữa để có sức
cạnh tranh.
Ngoài yếu tố trần lãi suất huy động giảm, để các ngân hàng có động lực giảm
lãi suất vay, NHNN cần giảm lãi suất trên thị trường mở (OMO) và nới lỏng tiền tệ.
Với dự báo lãi suất ngân hàng sẽ chỉ có thể giảm nhẹ với các khoản vay trung và dài
hạn, nếu doanh nghiệp có nhu cầu bổ sung vốn lưu động, tài trợ vốn thanh toán hàng
xuất nhập khẩu… có thể tận dụng ngay chính thời điểm “mùa trũng” của ngân hàng để
vay.
Đồng thời, doanh nghiệp sẽ có cơ hội thương thảo lãi suất phù hợp với khoản vay từ 6
tháng trở lại. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đồng EUR đang giảm về ngang với
đồng USD và nhiều ngân hàng cũng đang tích cực có các chương trình hỗ trợ lãi suất
vay ngoại tệ, điều chỉnh lãi suất ngoại tệ định kì theo tháng, doanh nghiệp cũng có thể

tranh thủ vay để chủ động cơ cấu vốn mà vẫn hạn chế được rủi ro về tỷ giá và có thể
thực thi đa dạng đồng ngoại tệ cần vay. Ở những thành phố lớn, chương trình kết nối
ngân hàng – doanh nghiệp với dự kiến giải ngân tới 60.000 tỷ đồng trong năm nay,
cũng là một cơ hội để doanh nghiệp có thể tận dụng để tiếp cận vốn giá rẻ hơn, thay
cho sự chờ đợi về những biến số vĩ mô khó tiên liệu đầy đủ.
3. Dự báo khả năng giảm lãi suất của ngân hàng thương mại. Theo quan điểm
của chuyên gia, từ tháng 6 trở đi, dự báo kinh tế nước ta sẽ khởi sắc hơn nữa và lạm
phát có thể sẽ nhích tăng. Nhiều dự báo cho rằng hết tháng 4, chỉ số giá tiêu dùng sẽ
không còn tăng trưởng âm. Một tín hiệu cho thấy lạm phát cũng có thể điều chỉnh
tăng là giá dầu đang có dấu hiệu phục hồi trở lại khiến giá xăng trong nước đã điều
chỉnh tăng. Nếu giá xăng tăng thì nhiều nhóm hàng hóa trong rổ tính CPI cũng sẽ tăng.
Chưa kể, vào tháng 6 trở đi, chu kỳ của các nhóm hàng hóa tính CPI như y tế, giáo dục
cũng thường được điều chỉnh, cộng với giá điện cũng đang được EVN tính toán tăng
thêm...
Có thể nói là có khá nhiều yếu tố để điểm rơi cân đối được dòng vốn từ điều
chỉnh lãi suất huy động đến thời điểm tất toán xong các khoản vay có lãi suất cũ và
giảm được chi phí đầu vào thực sự của các NH sẽ rơi vào lúc lạm phát tăng lên hơn so

18


với hiện nay. Trong trường hợp nếu NHNN không nới lỏng tiền tệ mà chỉ giảm trần lãi
suất huy động thì việc chờ đợi các NH “tự giác” giảm lãi vay so với hiện nay là khó,
bởi lãi suất huy động đã khó có thể giảm hơn nữa.
4. Bán, mua nợ xấu: còn nhiều khó khăn.Kiên quyết giảm nợ xấu của các
ngân hàng thương mại xuống dưới 3%. Ngân hàng Nhà nước vừa có văn bản gửi các
ngân hàng thương mại yêu cầu thực hiện bán lại nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản
các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Nội dung văn bản này cụ thể hóa yêu cầu đặt
ra trong Chỉ thị số 02 của Thống đốc ban hành ngày 27/1/2015 về các giải pháp, lộ
trình xử lý nợ xấu, nhằm thực hiện mục tiêu giảm được về mức dưới 3% đến cuối năm

2015. Theo đó, các ngân hàng thương mại được yêu cầu xây dựng, báo cáo kế hoạch
xử lý nợ xấu trong từng tháng và tổ chức triển khai thực hiện với mốc quan trọng là
đến 30/6/2015 phải bán được tối thiểu 75%, và đến 30/9/2015 phải bán hết 100% tổng
số nợ xấu được ấn định.
Bên cạnh đó, Thông tư 36 có hiệu lực từ ngày 1/2/2015 gia tăng áp lực, buộc
các ngân hàng phải điều chỉnh tỷ lệ nợ xấu về ngưỡng định hướng dưới 3% thông qua
bán nợ cho VAMC khi quy định ngưỡng nợ xấu này là điều kiện để ngân hàng cấp tín
dụng hay mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác. Ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao
cũng sẽ bị hạn chế mở chi nhánh, cấp tín dụng mới.
Như vậy đối với các ngân hàng thương mại, mốc hẹn 30/6/2015 đã gần kề nên
cần phải dồn dập bán lại nợ xấu cho VAMC cho kịp tiến độ. Sau hơn một năm hoạt
động, tính đến hết năm 2014, VAMC đã mua được 137.000 tỉ đồng nợ gốc với giá trị
trái phiếu 108.000 tỷ đồng.
Trước đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có văn bản xác định VAMC được phát
hành thêm 80.000 tỷ đồng trái phiếu đặc biệt để mua lại nợ xấu trong năm 2015.
Xử lý nợ xấu đã mua: còn thiếu cơ chế
Tính đến nay, kết quả xử lý nợ xấu đã mua của VAMC rất hạn chế, mới xử lý
được trên 5.100 tỷ đồng bằng các biện pháp thu hồi nợ, phát mại, đấu giá, bán tài sản,
bán khoản nợ thông qua hình thức xử lý trực tiếp hoặc ủy quyền cho các tổ chức tín
dụng.
Theo các chuyên gia, quan trọng là phải khơi thông được các khoản nợ xấu
bằng cách bán các tài sản bảo đảm, xử lý việc phá sản doanh nghiệp để thúc đẩy dòng
tiền từ con nợ. Ngoài ra, cần khuyến khích một dòng tiền thứ cấp khác chảy vào thị
trường mua bán nợ từ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, có lúc
hàng chục nhà đầu tư ngoại muốn mua nợ của VAMC nhưng vẫn chưa có thương vụ
nào được thực hiện vì chưa có cơ chế và nhà đầu tư chưa thấy lợi ích từ các món hàng
mà VAMC muốn bán.

19



Nhiều chuyên gia cho rằng, nhà đầu tư chỉ có thể tham gia mua bán tài sản
nhưng thủ tục pháp lý rất vướng, nhất là đối với nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân
VAMC cũng chưa có cơ chế bán nợ rõ ràng, bán dưới giá mua vào phải được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
5. Ngân hàng chủ động đối phó với nợ xấu Đến ngày 1/4/2015. Các ngân hàng
thương mại phải chính thức ngừng cơ chế được cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển
nhóm. Áp lực được dự báo là lớn. Ngày 23/4/2012, Ngân hàng Nhà nước có Quyết
định 780, mở ra cơ chế cho phép các tổ chức tín dụng được cơ cấu lại nợ mà không
phải chuyển nhóm. Cơ chế này một mặt góp phần xoa dịu áp lực nợ xấu đang gia tăng,
mặt khác tạo điều kiện để hỗ trợ nhiều doanh nghiệp vay vốn gặp khó khăn.
Tại một số thời điểm, chính sách trên tưởng như dừng lại, nhưng rồi được nối
tiếp. Với Thông tư 09 ban hành ngày 18/3/2014, Ngân hàng Nhà nước nới thêm một
năm nữa; đến 1/4/2015 phải chính thức ngừng.
Theo số liệu công bố trước đây, quy mô nợ được cơ cấu lại mà không phải
chuyển nhóm từng lên tới khoảng 300.000 tỷ đồng. Việc dừng lại theo đó sẽ có áp lực
đáng kể lên nợ xấu.
Để chuẩn bị chothời điểm 1/4/2015, các ngân hàng đang tiến hành trích lập dự
phòng một cách nghiêm túc hơn. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định về an toàn trong
hoạt động, việc các ngân hàng dồn lực trích lập dự phòng được xem là sự chuẩn bị cần
thiết cho việc thực hiện mốc hẹn 1/4/2015 nói trên, cũng như những chiến lược khác
cho năm 2015.
Một số ngân hàng thì chủ động kết thúc sớm việc cơ cấu lại nợ mà không phải
chuyển nhóm, thể hiện ở việc nợ xấu và chi phí trích lập dự phòng tăng đột biến. Một
số ngân hàng khác thì đã xác định rõ thách thức phía trước và chủ động rải bớt áp lực
qua các năm gần đây thông qua việc gia tăng nguồn lực dự phòng bên cạnh mục tiêu
tăng trưởng lợi nhuận.
Về phía Ngân hàng Nhà nước cũng đang có các biện pháp kỹ thuật cần thiết.
Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản gửi tới các ngân hàng thương mại, xác định rõ quy
mô và thời điểm để các thành viên bán lại nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản các tổ

chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Theo đó, dự kiến một lượng lớn nợ xấu của hệ thống sẽ nhanh chóng được đưa
ra ngoại bảng, có thể xem là một sự cân đối trước áp lực nợ xấu gia tăng từ việc thực
hiện thách thức ngày 1/4/2015 nói trên, cũng như từ việc phân loại nợ dựa trên cơ sở
thông tin của Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) từ đầu năm 2015. Việc tập trung bán
lại cho VAMC là cần thiết, khi nợ xấu sẽ khó lẩn khuất với việc ngừng cơ cấu lại nợ
mà không phải chuyển nhóm. Song, áp lực gia tăng chi phí dự phòng cũng cần tính

20


đến. Chi phí trích lập dự phòng sẽ tăng lên, do việc trích lập được thực hiện trên cơ sở
nợ gốc chứ không được trừ đi giá trị tài sản đảm bảo còn lại như trước. Với cơ chế
trích lập đó, sau 5 năm thực hiện trích lập xong khoản nợ đã bán lại cho VAMC, nếu
thu hồi được nợ ngân hàng sẽ được hoàn nhập, hoặc hoàn nhập ở giá trị tài sản đảm
bảo khi xử lý được.
Trong khi đó, còn có một dự báo khác cũng đáng xem xét, rằng áp lực thực hiện
mốc hẹn 1/4/2015 nói trên không hẳn sẽ sớm thể hiện. Các ngân hàng thương mại có
thể sẽ tranh thủ thời hạn cuối để cơ cấu lại các khoản nợ tiềm ẩn, thậm chí chuyển đổi
từ nợ ngắn hạn thành nợ trung dài hạn để giãn bớt áp lực nợ xấu.

6. Diễn biến tỷ giá USD/VND tháng 3/2015 Trong những tuần giữa tháng 3, tỷ
giá USD liên tục “nhảy múa” đã buộc các ngân hàng thương mại (NHTM) liên tục
phải điều chỉnh tăng trên biểu giá niêm yết. Đáng lưu ý, ngày 16/3, một số NHTM đã
điều chỉnh tăng hơn 100 đồng/USD, ấn định tỷ giá cao nhất ở mức 21.580 đồng/USD –
mức kỷ lục trong vòng 2 năm qua. Trong ngày 17/3, tỷ giá USD đã được các NHTM
điều chỉnh giảm ở mức 20 - 80 đồng/USD sau khi nhiều ngân hàng thiết lập giá USD ở
mức cao hơn 21.550 đồng/USD trong ngày hôm trước.
Những ngày sau đó, thị trường ngoại tệ liên tục có những đợt sóng nhẹ. Tuy
nhiên, mặc dù giá giao dịch USD tăng nhưng vẫn nằm trong trần quy định của Ngân

hàng Nhà nước (NHNN). Đặc biệt, mức biến động này cũng rất ít so với biến động tỷ
giá giữa đồng USD so với các đồng tiền khác trên thế giới. Việc USD lên giá mạnh so
với các đồng tiền khác là điều đã được nhiều chuyên gia dự đoán trước đó.
Kể từ khi chính thức rơi vào suy thoái (năm 2008) đến nay, nhờ việc áp dụng các gói
QE nhằm hỗ trợ nền kinh tế và thị trường nhà ở của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED),
kinh tế Mỹ đã có những bước phục hồi mạnh mẽ. Đầu tháng 11 năm ngoái, FED đã
chính thức tuyên bố chấm dứt gói QE3 và phát đi tín hiệu có khả năng sẽ nâng lãi suất
trong năm 2015 này. Trong khi đó, tại châu Âu, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 11,2%,
mức cao nhất trong lịch sử ở châu Âu. Đặc biệt mới đây, ECB đã quyết định giảm lãi
suất đồng EUR xuống còn gần mức 0% khiến cho đồng EUR suy yếu mạnh.
Tại các khu vực khác trên thế giới như Nga và một số nước Đông Âu, đang chịu ảnh
hưởng nặng nề bởi cuộc chiến Ukraine và các chính sách cấm vận đối với Nga. Trong
hơn 1 năm qua, đồng rúp của Nga đã mất giá hơn 60% so với đồng USD. Ngay cả với
các đồng tiền như đô la Ôxtrâylia và Canađa cũng đang trong cuộc đua xem ai mất giá
mạnh so với đồng USD. Hiện nhiều chuyên gia cho rằng với bối cảnh kinh tế các nước
hiện nay, đồng USD sẽ còn tiếp tục mạnh lên so với các đồng tiền khác.
Bên cạnh nguyên nhân khiến cho tỷ giá USD biến động trong những ngày qua là do
bản thân USD tăng giá so với một số đồng tiền khác, đặc biệt so với đồng EUR, còn

21


do một số nguyên nhân khác như kinh tế nội địa phục hồi, xuất khẩu của doanh nghiệp
nội địa tăng nên phải nhập nguyên liệu khiến nhập siêu 2 tháng đầu năm hơn 1,2 tỉ
USD và hơn thế nữa là do yếu tố tâm lý.
Trong bối cảnh hàng chục quốc gia như Nhật Bản, Anh, Trung Quốc… chủ
động phá giá đồng nội tệ đang tác động lớn đến xuất nhập khẩu của Việt Nam, hiện đã
có nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc có nên hay không nên điều chỉnh tỷ giá. Lẽ dĩ
nhiên, NHNN và những người ủng hộ chủ trương không phá giá có thể đưa ra lý do là
ổn định tỷ giá sẽ ổn định niềm tin vào VND và điều đó đồng nghĩa với ổn định được

lạm phát và kinh tế vĩ mô. Trong khi đó, với những người ủng hộ điều chỉnh tỷ giá lại
cho rằng, việc tiếp tục neo tiền đồng vào USD sẽ đẩy xuất khẩu Việt Nam vào tình thế
khó khăn.
Tuy nhiên, theo nhận định của một chuyên gia kinh tế nổi tiếng, ổn định tỷ giá
VND trong bối cảnh các nước đang thi nhau phá giá bản tệ (mà theo kinh tế học gọi là
hành vi xuất khẩu thất nghiệp sang các nước khác) sẽ tác động tiêu cực trực tiếp lên
xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời lại khuyến khích nhập khẩu, đè chết doanh
nghiệp/hàng hóa nội địa. Một loạt hậu quả nguy hại sẽ nảy sinh, bao gồm tăng trưởng
GDP chậm lại, thất nghiệp, thâm hụt thương mại gia tăng gây áp lực phá giá lên ngay
chính VND… Và như vậy, liệu pháp điều trị căn bản cho nền kinh tế trong tình huống
này chủ yếu vẫn chỉ là phải chấp nhận phá giá VND, theo cuộc chơi của các đối thủ để
lấy lại những gì đối thủ đã lấy từ phía mình. Nói cách khác, trong bối cảnh các nước
khác đang phá giá bản tệ thì sự ổn định tỷ giá nói riêng và ổn định tỷ giá vĩ mô nói
chung ở Việt Nam, nếu có, chỉ là một hiện tượng mang tính tạm thời, chắc chắn sẽ
sớm mất đi.
Có thể thấy, tại thời điểm này, việc điều chỉnh hay giữ ổn định tỷ giá đều có
mặt lợi và bất lợi. Việc điều chỉnh tỷ giá theo tín hiệu thị trường cũng khiến cho các
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do phải liên tục điều chỉnh lại phương án sản xuất,
kinh doanh, dẫn đến tình trạng tồn kho hoặc khan hiếm hàng hóa quá mức, làm suy
giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Trong vài năm trở lại đây, với nỗ
lực của NHNN trong việc chấn chỉnh thị trường ngoại tệ và đưa ra mục tiêu tỷ giá
hàng năm đã nhanh chóng ổn định được tỷ giá và cung - cầu ngoại tệ, các doanh
nghiệp không còn phải lo lắng về biến động tỷ giá hay thiếu ngoại tệ khi cần thiết. Tuy
nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng tận dụng được những lợi thế bắt nguồn từ tỷ
giá ổn định và chính sách ngoại tệ của NHNN.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn hoạt động gia công đơn thuần, chủ
yếu dựa trên nguồn nguyên liệu nhập khẩu với mức giá nhìn chung ở mức cao và khó
được điều chỉnh giảm do giá cả thường được thỏa thuận khi ký kết hợp đồng mua bán
trước đó. Nói ngắn gọn, nhóm doanh nghiệp này chỉ chủ yếu trông cậy vào sự lên


22


xuống của tỷ giá hối đoái. Với mô hình hoạt động như vậy, nhóm doanh nghiệp này
thường chỉ thu được mức lợi nhuận ít ỏi và kém bền vững, không thể tận dụng được
lợi thế về mặt bằng giá cả thấp và một số ưu đãi khác trên thị trường trong nước.
Nhược điểm của các doanh nghiệp Việt Nam là vấn đề tồn tại từ lâu, một mặt do yếu
kém nội tại của chính doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là do những bất cập trong chính
sách phát triển doanh nghiệp.
Về lý luận và thực tiễn, các biện pháp chính sách thường có tác dụng thay thế
và bù trừ lẫn nhau. Trong phạm vi ngành ngân hàng, việc điều chỉnh giảm lãi suất và
mở rộng đối tượng được vay ngoại tệ cũng như một số biện pháp nới lỏng tiền tệ khác
thường mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế mà không cần phải điều chỉnh tỷ giá
vào thời điểm này.
Thực tế minh chứng, việc giữ ổn định tỷ giá trong thời gian dài là thành công
của NHNN trong điều hành chính sách. Tính từ quý IV/2011, tỷ giá dần đi vào ổn
định. Tỷ giá không thay đổi trong suốt năm 2012 và chỉ điều chỉnh nhẹ vào giữa năm
2013. Trong cả năm 2014, tỷ giá cũng chỉ được điều chỉnh 1% và đến đầu tháng
01/2015, NHNN công bố điều chỉnh giảm tỷ giá thêm 1% nữa.
Theo người đứng đầu NHNN, điều hành ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối
nhằm bảo đảm giá trị đồng Việt Nam là một trong những nhiệm vụ và lĩnh vực trọng
tâm của ngành ngân hàng trong năm 2015. Khoảng biến động tỷ giá 2% trong năm
2015 cũng là định hướng như một cam kết mà nhà điều hành đưa ra.
Nhận định về việc giữ ổn định tỷ giá theo mục tiêu NHNN đề ra, một số chuyên
gia kinh tế cho rằng, năm nay, trong bối cảnh giá USD trên thị trường thế giới tăng
lên, tỷ giá cũng sẽ tăng nhưng không có đột biến và không gây ra các cú sốc. Trong
trường hợp đồng USD tăng giá mạnh, NHNN sẽ có biện pháp can thiệp ngay hoặc có
biện pháp điều hành linh hoạt để đảm bảo mục tiêu đã đặt ra từ đầu năm. Tuy nhiên,
việc giữ ổn định tỷ giá theo mục tiêu của NHNN năm nay sẽ khó hơn so với các năm
trước. Đầu năm, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá thêm 1%, do đó chỉ còn dung lượng

1% cho giai đoạn từ nay tới cuối năm 2015./.

23


PHẦN III: MỘT SỐ Ý KIẾN BÌNH LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
Trong gia đoạn khủng hoảng tài chính 2008, 2009 chính phủ Việt Nam đã đưa
ra hàng loạt các gói kích cầu thể hiện Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách
hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công cụ chính sách tiền
tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ. Đối với suy thoái Gói hỗ trợ của Chính
Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất
sáng tạo, rất linh hoạt. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ
gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng
mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá
thành sản phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích được nhu cầu trong nước,…
Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ
rằng can thiệp như vậy sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực
chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá” qua lãi
suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công bằng mà nói,
chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi
cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hàng
trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang vay bằng VND,…); tạo sức ép cho tỷ
giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng minh
chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ có
quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh
nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai,
nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”, các NHTM không huy
động được và cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng

cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín
dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng và vẫn đảm bảo các
NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được khuyếch đại lên
nhiều lần (~ 32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dùng xã hội.
Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 đã
xác định mục tiêu tổng quát của năm 2010 là “nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng
trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao
chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an
sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ
vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an
ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2006 - 2010”. Trong đó, vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)

24


góp phần thực hiện thành công các mục tiêu trên là không nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh
sức ép gia tăng lạm phát trong giai đoạn đó.
Đối với gian đoạn 4 năm trở lại đây. Một câu hỏi được đặt ra là bao giờ NHNN
dỡ bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay 5 đối tượng ưu tiên, hay
thực hiện tự do hóa lãi suất?
Nhìn vào bảng lãi suất niêm yết công khai của các NHTM, có thể thấy vẫn có
sự chênh lệch đáng kể cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay nội tệ giữa các nhóm
NHTM khác nhau. Điều đó cho thấy sự đánh giá khách quan về niềm tin, về độ rủi
ro… của người gửi tiền, của thị trường vào các NHTM. Trên thực tế, tiến trình tái cơ
cấu NHTM Việt Nam mới đạt kết quả bước đầu, tỷ lệ nợ xấu đã giảm, một số NHTM
yếu kém đã được thu gọn… nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm trên cả góc độ quản lý
nhà nước, điều hành chính sách và quản trị kinh doanh ngân hàng. Một số NHTMCP
nợ xấu vẫn còn cao, năng lực tài chính hạn chế, nếu hạch toán và trích lập dự phòng
rủi ro đầy đủ thì có thể thua lỗ.

Thị trường liên ngân hàng chưa thực sự có niềm tin đối với một số NHTMCP
đang tiếp tục phải cơ cấu lại bởi trong giai đoạn khủng hoảng thanh khoản 2010 –
2011, một số NHTMCP đã không trả được các khoản vay liên ngân hàng đúng hạn cho
ngân hàng đối tác cho vay. Môi trường cạnh tranh hoạt động ngân hàng hiện nay vẫn
chưa thật sự lành mạnh, chưa thực sự bình đẳng nên cần có công cụ quản lý, điều hành
để đảm bảo sự ổn định vĩ mô, đảm bảo quyền lợi người gửi và vay vốn…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Trung Quốc là nền kinh tế mở cửa và hội nhập
sớm hơn Việt Nam nhưng đến nay Ngân hàng Trung ương nước này vẫn quy định trần
lãi suất tiền gửi và sàn lãi suất cho vay. Điều này giúp Trung Quốc thực hiện mục tiêu
quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Trong khi đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam
vẫn đang trong tiến trình hội nhập với khu vực và quốc tế, các điều kiện chưa chín
muồi cho tự do hóa lãi suất. Tuy nhiên, trong đợt điều chỉnh lãi suất lần này, NHNN
không quy định trần lãi suất tiền gửi cho kỳ hạn dưới 12 tháng như trước đây, mà lùi
về cho kỳ hạn dưới 6 tháng. Đường cong lãi suất trên thị trường đang được tái lập rất
rõ, cụ thể là thời hạn càng dài, lãi suất càng cao.
Thay đổi trong điều hành lãi suất nói trên của NHNN đang tác động tích cực
đến cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn tại các NHTM. Nguồn vốn huy động có kỳ hạn từ 12
tháng của các NHTM được gia tăng hơn. Nhiều người lựa chọn gửi kỳ hạn tới 24 và
36 tháng vì dự báo lãi suất sẽ tiếp tục giảm. Lãi suất huy động kỳ hạn dài chênh lệch
kỳ hạn ngắn từ 1,6%-2,6%/năm, đường cong lãi suất trở về đúng với bản chất vốn có
của nó.
Ngân hàng Trung ương các nền kinh tế phát triển, như: FED, BOE, BOJ,
BOT… vẫn công bố lãi suất chủ đạo của mình, làm định hướng cho thị trường tiền tệ.

25


×