Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài tập lớn môn kinh tế việt nam trình bày quá trình tái cấu trúc ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.33 KB, 22 trang )

Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

Họ và tên: Vũ Thị Thanh Thanh
Mã SV: CQ527343
BÀI TẬP LỚN MÔN: KINH TẾ VIỆT NAM
I/ Bối cảnh Việt Nam, đòi hỏi và căn cứ đối với tái cấu trúc ở Việt Nam hiện nay
1. Những đòi hỏi cần tái cấu trúc ở Việt Nam:
Yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa đất nước – là quá trình chuyển hóa nền
kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế dựa trên công nghiệp hiện đại để cải tạo nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa. Tất cả các nước phát triển ngày nay đều đã trải qua lộ
trình này. Việt Nam đang trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa có nghĩa là phải
thực hiện tái cấu trúc từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hiện
đại. Trong khi đó các nước kinh tế phát triển đang thực hiện cả cấu trúc kinh tế theo
hướng kinh tế tri thức – nền kinh tế được điều hành bằng tri thức của con người và tri
thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà trụ cột của nó là công nghệ thông tin.
Trong bối cảnh đó tái cấu trúc kinh tế ở Việt Nam cần phải lồng ghép giữa công
nghiệp hóa với các nhân tố của nền kinh tế tri thức thời mới có thể tránh tụt hậu bằng
cách “đi tắt đón đầu”.
Chuyển đổi thể chế kinh tế hoặc cải cách kinh tế : Kế thừa, tiếp thu có chọn lọc,
phát triển thành tựu nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn 25 năm đổi mới, Đại hội
lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: "Nền kinh tế thị trường (KTTT) định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa (KTHH) nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường (CCTT) có sự quản lý của Nhà nước, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của KTTT, vừa
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH; trong đó CCTT
được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xóa đói giảm nghèo thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
1




Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,... thực hiện chế
độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác... và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội. Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN bằng pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
các nguồn lực kinh tế"... Đồng nghĩa với sự thay thế độc quyền sở hữu nhà nước (sở
hữu toàn dân) sang đa sở hữu và từ phủ định các quy luật kinh tế khách quan như : quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh sang thừa nhận sự tồn tại tất yếu của
nó. Đồng hành là tái cấu trúc kinh tế một cách có hệ thống từ tái cấu trúc thể chế kinh
tế, cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế kinh tế thị trường…. Phát triển KTTT định hướng
XHCN theo đường lối đổi mới đó, trong 25 năm qua đã góp phần to lớn đưa đất nước
"vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc
khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu... đất nước ra khỏi tình trạng kém
phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình". "Diện mạo
của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân".
Nhưng, "những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế
phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc,... Công tác quy hoạch,
kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư
còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém,
việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng
trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển
sang phát triển theo chiều sâu... tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và

sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế KTTT, chất
lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển".

2


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

Hậu quả của suy thoái hoặc hậu khủng hoảng kinh tế: Sau khủng hoảng tài
chính, kinh tế toàn cầu, thế giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tương quan
sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển toàn cầu thay đổi với sự xuất hiện
những liên kết mới... Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài
chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học công
nghệ (KHCN) và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Mặt khác, khủng hoảng
còn để lại hậu quả nặng nề, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương
mại quốc tế. Kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn, bất
ổn, đặc biệt là nguy cơ tái khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng Euro và giá dầu mỏ
tăng cao; sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là những nước lớn sẽ tác động
đến nước ta. Sự ảnh hưởng của 2 yếu tố trên, luôn đòi hỏi tái lập mặt bằng kinh tế mới
thích ứng với yêu cầu tăng trưởng và phát triển của chu kỳ kinh tế mới.
Ở Việt Nam, sau suy thoái và hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đòi hỏi tái cấu
trúc toàn diện nền kinh tế thuộc mọi lĩnh vực: kinh tế, tài chính, thị trường và cơ cấu
nguồn nhân lực…, vừa theo hướng hoàn thành cơ bản công nghiệp vào năm 2020 và
vừa tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế.
Tác động của quá trình toàn cầu hóa kinh tế: Sau gia nhập WTO, Việt Nam đã
dấn sâu vào hội nhập kinh tế toàn cầu. Để tránh tiếp tục tụt hậu và theo kịp trình độ
quốc tế, không có con đường nào khác là phải tái cấu trúc kinh tế, tham gia vào “sân
chơi” quốc tế bình đẳng, đồng thời tìm kiếm cơ hội tạo dựng mầm móng để hướng tới
nền kinh tế tri thức.
Trước bối cảnh nêu trên, một trong những yêu cầu bức bách đối với nước ta là

phải tái cấu trúc hệ thống tài chính đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi các mục tiêu
phát triển KT-XH và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ trong
thời kỳ chiến lược tới.
2. Những căn cứ xuất phát:
2.1. Mục tiêu và những đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020:
- Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
3


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

- Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ đạt khoảng 85%
trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng
45% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng
giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn
với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30-35% lao động
xã hội.
- Thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, trọng tâm là tại cấu trúc các ngành sản xuất, dịch
vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược
thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm,
doanh nghiệp và của cả nền kinh tế...
2.2. Những đột phá chiến lược:
Nhằm đạt được mục tiêu trên tái cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay
cần tập trung cao vào ba đột phá chiến lược sau:
- Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh
tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
- Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung

vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng KHCN.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
3. Thời cơ và thách thức đối với tái cấu trúc kinh tế Việt Nam
3.1. Thuận lợi:
Kinh tế Việt Nam đang phục hồi và tăng trưởng. Từ cuối năm 2009, kinh tế đi
dần vào con đường hồi phục với các minh chứng sau:
- Kinh tế vĩ mô ổn định về chính sách và thực thể kinh tế, tạo điều kiện tái cấu trúc nền
kinh tế theo mặt bằng của kinh tế toàn cầu.

4


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

- Kinh tế nội lực tăng trưởng toàn diện: tính đến tháng 7/2010 so với cùng kỳ năm
2009 : giá trị sản lượng công nghiệp tăng 13.5%, dịch vụ tăng gần 17%, xuất khẩu tăng
trên 16% và xuất khẩu gạo dự tính đạt đến 6.5 triệu tấn….
- GDP tăng nhanh – TP.HCM và Hà Nội có mức tăng trên 10%.
- Thu ngân sách tăng, nợ công nằm trong vòng kiểm soát (chưa vượt quá 40% GDP…)
- Chỉ số giá CPI tăng chậm (bình quân 0.3% ) so với cùng kỳ năm 2009, sức mua dần
vào thế ổn định.
- Tỷ giá hối đoái chỉ dao động tăng từ 1,8 – 2%.
- Chỉ số chứng khoán đã đạt trên mức 500.
- Lãi suất tín dụng giao động trong mức hợp lý và đi dần vào thế ổn định sau khi ban
hành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi tháng 6/2010.
- Cơ hội việc làm được mở rộng. Riêng TP.HCM trong năm 2010 cần đến gần 300.000
lao động trong mọi lĩnh vực hoạt động với các trình độ khác nhau….
Nhìn chung, kinh tế Việt Nam đang phục hồi tăng trưởng và tạo nhiều điều kiện

thuận lợi cho kinh tế Việt Nam tái cấu trúc nhằm hướng tới mục tiêu hoàn thành cơ
bản công nghiệp hóa vào năm 2020.
3.2. Cơ hội và lợi thế:
Việt Nam đang dấn sâu vào hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt từ sự kiện gia
nhập WTO – Sự kiện này đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi để NN phát triển nhanh, phát
triển đột phá theo mặt bằng của xu thế toàn cầu hóa kinh tế, nếu biết tận dụng đúng
đắn các lợi thế này theo nguyên tắc đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế.
Kinh tế thế giới đang bước vào thời kỳ hồi phục, đang và sẽ mở ra nhiều cơ hội
hơn để Việt Nam hồi phục và gia tăng xuất - nhập khẩu (XNK), cũng như tiếp nhận
đầu tư nước ngoài. Song cũng cần biết đón đầu và chọn lọc để làm thay đổi cơ cấu
kinh tế Việt Nam bằng việc nâng cao các ngành có hàm lượng chất xám cao, giảm các
ngành có trình độ công nghệ thấp và thay thế chúng bằng tiềm lực nội sinh.
Chính trị ổn định là lợi thế kinh tế vô hình của Việt Nam và nếu biết tận dụng
mọi cơ hội thì sẽ là nguồn lực và tiềm năng kinh tế quan trọng hậu thuẫn cho sự phát
triển bền vững.
5


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

3.3. Những thách thức của kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng:
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu dần được phục hồi nhưng chậm và không
đồng đều giữa các quốc gia cũng là trở ngại lớn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam; đặc
biệt là XNK và tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Kim ngạch XNK của Việt Nam chiếm
trên 60% GDP. Trong bối cảnh đó, xuất khẩu của Việt Nam đang tăng chậm, nhập siêu
tăng vượt trội, đầu tư nước ngoài giảm, ảnh hưởng đến lưu lượng ngoại hối, tỷ giá hối
đoái và hoạt động của thị trường tài chính. Điều này cần sớm có những biện pháp khắc
phục và ứng phó hữu hiệu.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam còn mất cân đối, thiếu đồng bộ, thiếu “liều lượng” cần
thiết của các ngành kinh tế mũi nhọn và chủ lực để làm động lực phát triển. Điều này

ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ công nghiệp hóa ở Việt Nam hướng vào mục tiêu hoàn
thành cơ bản vào năm 2020.
Thể chế kinh tế và cơ chế quản lý chưa cho phép khai thác đầy đủ tiềm năng và
thế mạnh của kinh tế tư nhân đầu tư vào các ngành kinh tế chủ lực hoặc tham gia đầu
tư dưới hình thức PPP (đối tác công tư) nhằm tạo những bước phát triển đột phá kinh
tế bằng nội sinh trong điều kiện hội nhập kinh tế.
Công cuộc cải cách hành chính tuy đã làm giảm bớt được một số cản trở của các
thủ tục rườm rà bởi nhiều của nhiều dấu; song vẫn còn tồn tại không ít sự hoành hành
của tệ quan liêu, cơ chế “xin – cho”thiếu công khai minh bạch (thể hiện rõ nét là đến
nay vẫn chưa hình thành được chính quyền điện tử). Điều này làm cho nhiều cơ hội
kinh tế bị bỏ lỡ và gây nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài tìm đến Việt Nam. Sự trì trệ
đó gây tổn hại không ít đối với 1 đất nước đang cần tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá
trình biến ngoại sinh thành nội lực.
Điều hành kinh tế vĩ mô đã có những chuyển biến tích cực, đặc biệt là hậu gia
nhập WTO và sự ứng phó có hiệu quả với cuộc khủng hoảng. toàn cầu. Tuy vậy cũng
còn nhiều hạn chế bởi thể chế kinh tế và cơ chế quản lý trên nhiều phương diện vẫn
chưa thực sự thích ứng với xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Vì thế cần tiếp tục đổi mới
điều hành kinh tế vĩ mô, nhằm bảo đảm cho kinh tế phát triển phù hợp với quy luật

6


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

khách quan; khai thác mọi thế mạnh và tiềm lực nội sinh đồng thời tận dụng mọi thời
cơ để phát triển đột phá theo trào lưu kinh tế quốc tế.
II/ Quá trình tái cấu trúc đầu tư công tại Việt Nam hiện nay:
1. Thực trạng đầu tư công ở Việt Nam trong những năm qua:
Quan niệm khác cho rằng, đầu tư công là đầu tư do khu vực công thực hiện đầu
tư vào chương trình dự án phục vụ phát triển kinh tế. Theo quan niệm này, nếu các dự

án được thực hiện bằng vốn ngân sách thì có thể được coi là đầu tư công, nhưng nếu
thực hiện dự án bằng vốn xã hội hóa do tư nhân bỏ vốn, việc xác định đây là khoản đầu
tư công trở nên khó khăn. Chính vì vậy, quan niệm về đầu tư công nên xuất phát từ
tính chất sở hữu của nguồn vốn hơn là mục đích sử dụng khoản đầu tư công. Do đó,
đầu tư công là những khoản đầu tư vốn thuộc sở hữu của Nhà nước, có thể bao gồm
vốn đầu tư từ ngân sách hay từ các doanh nghiệp có vốn thuộc sỡ hữu Nhà nước. Tại
Việt Nam, trong thời kì kế hoạch hóa tập trung, chưa sử dụng thuật ngữ đầu tư công,
mà chỉ coi đầu tư công là đầu tư của Nhà nước. Khi chuyển sang cơ chế thị trường
thuật ngữ đầu tư công hay đầu tư Chính phủ được bao gồm: Đầu tư từ ngân sách; đầu
tư các chương trình mục tiêu; tín dụng Nhà nước; đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
(DNNN).
Với quan niệm về đầu tư công như vậy, tình hình đầu tư công tại Việt Nam
được tác giả tập trung phân tích theo bốn nội dung trên. Trước khi khủng hoảng tài
chính năm 2008 xảy ra, tổng vốn đầu tư trong xã hội đã liên tục tăng, trong đó đầu tư
vốn thuộc khu vực Nhà nước chiếm tỷ lệ nhất và có xu hướng tăng lên qua các năm.
Nếu năm 2002 mới chỉ trên 86 nghìn tỷ đồng, nhưng chỉ sau 5 năm đến năm 2007 tăng
lên trên gần gấp 2 lần. Trong khi đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cố xu hướng
tăng nhanh, nhưng chiếm tỷ lệ thấp hơn, đối với khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ
trọng nhỏ nhất trong tổng đầu tư xã hội (xem hình 1).
Trong giai đoạn này, có thể nhận thấy qui mô đầu tư công có xu hướng tăng và
đóng vai trò chủ đạo trong tổng đầu tư xã hội trong khi đó cơ cấu đầu tư công vốn chủ
yếu vẫn từ ngân sách chiếm 50%, còn lại vốn vay và vốn của DNNN. Bên cạnh đó,
phân bổ đầu tư công còn dàn trải và thiếu tập trung, phân bổ đầu tư công theo ngành
7


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

chưa thể hiện rõ rệt, mang tính cào bằng, phân bổ theo địa phương vẫn tập trung cho
các dự án trung ương, còn lại các dự án ở địa phương chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu

tư công. Chính vì vậy, giai đoạn trước khủng hoảng, đầu tư công tại Việt Nam, với qui
mô tăng nhanh, cơ cấu phân bổ dàn trải là một trong những nguyên nhân gây ra những
bất ổn trong nền kinh tế đầu tư công tăng sẽ khiến mức bội chi ngân sách tăng, kéo
theo tăng khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư, làm giã tăng nợ,...
Hình 1: Vốn đầu tư toàn xã hội

Nhưng ngay sau khi khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ và tiếp sau đó là cuộc
khủng hoảng nợ công tại các nước Châu Âu 2010, đã khiến cho nền kinh tế các nước
trong đó Việt Nam chịu những ảnh hưởng đáng kể đặc biệt là cố sự giảm sút trong tổng
đầu tư xã hội. Mặc dù, Chính phủ Việt Nam vẫn nỗ lực tăng đầu tư công để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội nhưng vẫn có biểu hiện giảm sút đáng kể
về qui mô đầu tư công trong tổng vốn đầu tư của xã hội. Năm 2008 đầu tư công có
biểu hiện giảm hơn so với năm 2007, năm 2009-2010, với những gói kích thích kinh tế
cũng như nhằm mục tiêu thức đẩy tăng trưởng kinh tế sau khủng hoảng, đầu tư công
được coi như tình trạng “tháo khoán”.
Năm 2011, tốc độ giải ngân của đầu tư công trong 6 tháng đầu chỉ đạt 13.000 tỉ
đồng/tháng, không đạt mục tiêu đề ra nên Chính phủ quyết tâm đẩy mạnh giải ngân
trong 6 tháng cuối năm, mỗi tháng khoảng 21.000 tỉ, cao hơn gấp rưỡi so với mức
trung bình của 6 tháng đầu năm. Điều này dẫn đến đầu tư ổ ạt vào tháng cuối năm gây
8


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

ra những bất ổn trong kinh tế với lượng vốn đổ vào quá nhiều trong khỉ hiệu quả dự án
không được theo dõi và giám sát, khiến tình trạng lãng phí và hiệu quả đầu tư không
cao. Đến năm 2012, tình trạng đấu tư công lại được siết chặt, chỉ ưu tiên cho các
chương trình mục tiêu quốc gia, lĩnh vực quốc phòng an ninh, các dự án lớn thuộc lĩnh
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản...
Về cơ cấu đầu tư công, vốn ngân sách chiếm từ 40% đến 65% trong tổng vốn

đầu tư trong khi đó vốn vay chỉ chiếm từ 15% đến 30%, còn đầu tư của các DNNN
chiếm khoảng 20% đến 30%. Cụ thể, tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách có xu hướng
tăng liên tục, nhưng đối với nguồn vốn này hướng vào thực hiện đầu tư các dự án xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội không có khả năng thu hồi vấn hoặc khả năng
thu hồi vến chậm nên nguồn vấn này đống vai trò hỗ trợ cho đầu tư, nhưng lại cố ý
nghĩa kinh tế lớn đối với nền kinh tế.
Đối với khoản đầu tư của DNNN vẫn đang là vấn đề tranh cãi trong khoản đầu
tư công bởi hiện tượng lãng phí, thất thoát các dự án đầu tư của các DNNN, đầu tư ra
ngoài lĩnh vực hoạt động chính khiến cho các khoản nợ tăng lên nhanh chóng, đặc biệt
là tập đoàn kinh tế, tổng công ty chưa tập trung vào lĩnh vực đầu tư chính tạo động lực
cho nền kinh tế, đôi khi đầu tư phân tán khiến hiệu quả đầu tư không cao.
Về phân bổ đầu tư công, sau khủng hoảng đầu tư công chủ yếu được tập trung
vào thức đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đố nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải thiện điều
kiện xã hội. Tuy nhiên, đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế có xu hướng tăng
mạnh, đầu tư công có lĩnh vực quản lý hành chính tăng không đáng kể, còn đầu tư vào
lĩnh vực xã hội liên quan đến phát triển con người như khoa học, giáo dục, y tế,… có
xu hướng giảm. Phân bổ đầu tư công theo cấp ngân sách, đã có sự chuyển biến tích
cực, nếu như trước đây, vốn phân bổ cho ngân sách trung ương chiếm khoảng 60%
trong khi phân bổ cho các địa phương chỉ chiếm 40%, sau khủng khoảng, cơ cấu này
đã có sự chuyển biến đáng kể khoảng 50% vốn phân bổ cho địa phương và tập trung
vào giao thông, thủy lợi, trường học, y tế...
Về hiệu quả đầu tư công, đối với các dự án đầu tư công còn dàn trải, phân tán
khiến đầu tư chậm, thiếu đồng bộ, gây lãng phí và kém hiệu quả. Cụ thể, trong năm
9


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

2010 có 25.000 nghìn dự án với 180 nghìn tỉ đồng, nhưng trung bình mỗi dự án chỉ
khoảng 7 tỷ và kéo dài khoảng 3 năm, hơn nữa nhiều dự án sau khi hoàn thành không

đi vào sử dụng. Qua đó, có thể nhận thấy hiệu quả đầu tư công còn thấp; hệ số ICOR
của khu vực kinh tế Nhà nước thường cao hơn gấp 2-3 lần so với các thành phần kinh
tế khác. Hệ số suất đầu tư ICOR (Incremental Capital Output Ratio). Theo số liệu
thống kê, hệ số ICOR thời kỳ 2001-2005 trung bình khoảng 4,39 (nghĩa là để tăng một
đồng GDP cần bỏ ra 4,39 đồng vốn). Trong khi đó, hệ số ICOR của Singapore, Nhật
Bản, Hàn Quốc chỉ khoảng từ 1-2; Từ 2006 đến nay, ICOR tăng khá nhanh, trung bình
khoảng 7,34 (xem Bảng 2).

Nguyên nhân của đầu tư công kém hiệu quả trong thời gian qua xuất phát từ sự
yếu kém trong quản lý đầu tư, đó là cơ chế “xin cho”. Các dự án không dựa theo tiêu
chí hiệu quả, phân bổ vốn không đồng đều khiến sai lệch phá vỡ qui hoạch đầu tư…
2. Quá trình tái cấu trúc đầu tư công:
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, với mục tiêu đảm bảo tăng trưởng kinh tế
trong khi việc kích thích đầu tư và tiêu dùng đang gặp nhiều khó khăn do có sự yếu
kém trong hệ thống ngân hàng khiến việc tăng trưởng tín dụng thấp, lãi suất thị trường
cao. Kích thích đầu tư công tại thời điểm hiện nay là một trong những giải pháp khả
thi. Tuy nhiên, với nguồn vốn có hạn, kích thích đầu tư công không có nghĩa đơn giản
tăng về qui mô đầu tư công mà đòi hỏi phải tái cơ cấu đầu tư công với mục tiêu trọng
tâm là tập trung phân bổ vốn đầu tư cho các ngành nghề, lĩnh vực trọng điểm, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công tránh tình trạng thất thoát lãng phí và tham nhũng
trong đầu tư công. Để đạt được mục tiêu này trong thời gian tới cần tập trung một số
vấn đề sau:
10


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

Thứ nhất, cần hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư công, trong đó làm rõ phạm
vi xác định các khoản đầu tư công, đảm bảo tính toán các khoản đầu tư công phù hợp,
việc đầu tư công không nhất thiết thực hiện đầu tư vốn trực tiếp cho các DNNN (đặc

biệt đối với DNNN làm ăn không hiệu quả), mà hỗ trợ dưới hình thức gián tiếp thông
qua tín dụng ưu đãi, miễm giảm thuế, đào tạo nhân lực... Có thể chuyển giao cho khu
vực tư nhân một số lĩnh vực mà Nhà nước chưa đạt hiệu quả để đầu tư công cần tập
trung vào những ngành hoặc lĩnh vực mà các khu vực khác không thể làm được. Ngoài
ra, sớm ban hành Luật đầu tư công để đảm bảo qui định pháp lý về đầu tư công với
tầm nhìn dài hạn.
Thứ hai, thay đổi định hướng đầu tư công, chuyển hướng tăng đầu tư nhiều cho
lĩnh vực xã hội hơn đầu tư kinh tế, trong đó tập trung vào phúc lợi xã hội đặc biệt là y
tế, giáo dục, an sinh xã hội. Tuy nhiên, cần phải có quan niệm đúng đắn về xã “hội
hóa” các dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế để nhiều thành phần có thể tham gia cung
cấp hàng hóa này nhằm nâng cao chất lượng nhưng phải đảm bảo vai trò nòng cốt của
ngân sách trong đầu tư công cho các dịch vụ thiết yếu như khám chữa bệnh, hỗ trợ
người nghèo..Đầu tư công cần lấy tiêu thức hiệu quả để lựa chọn dự án đầu tư, biết sấp
xếp và lựa chọn đầu tư đối với các dự án cần ưu tiên, đồng thời tăng cường năng lực
thẩm định dự án đầu tư.
Thứ ba, phân bổ vốn đầu tư công đảm bảo nguyên tắc và qui trình đặc biệt
nhằm cân đối ngân sách và an ninh tài chính quốc gia. Phân bổ vốn đầu tư công cần
giảm bớt đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh vì hoạt động này khu vực tư nhân
có thể làm tốt, do đố giảm bớt chức năng kỉnh doanh của các DNNN. Đầu tư công cần
tập trung chủ yếu vào cho xây dựng các công trình công ích. Đồng thời phân bổ vốn
cho những dự án đã hoàn thành và hạn chế khởi công các dự án mới trong khi nhiều dự
án cũ chưa được hoàn thành, đảm bảo cho các dự án đúng tiến độ.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Trước hết, cần xây dựng và ban hành hệ
thống tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội, tác động của dự án công đối với nền
11


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

kinh tế, cần tuân theo cơ chế đấu thầu công khai, minh bạch đối với dự án công. Đồng

thời, tổ chức lại bộ máy cơ quan chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với hoạt động
đầu tư công theo hướng nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm. Bên cạnh đó, đẩy mạnh
cải cách khu vực DNNN vì nhiều DNNN hiện nay đang làm ăn chưa cố hiệu quả làm
giảm tính hiệu quả đầu tư công.
III/ Quá trình tái cấu trúc Ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng hệ thống Ngân hàng trong những năm qua:
Một trong những yếu kém đáng chú ý nhất của hệ thống ngân hàng thương mại
ở Việt Nam là sự tăng trưởng một cách không cân đối trong nhiều năm. Sự mất cânđối
này cần được nhìn nhận cả trên phương diện vĩ mô và vi mô. Sự tăng trưởng nhanh về
quy mô và vốn trong khi các thiết chế quản lý chưa theo kịp là các vấn đề nội tại của
khu vực này. Sự mất cân đối này thể hiện ở nhiều yếu tố.
Yếu tố đầu tiên phải kể đến là tăng trưởng tín dụng nóng. Kinh tế Việt Nam vẫn
được coi là nền kinh tế tăng trưởng dựa nhiều vào vốn; chỉ số ICOR tăng cao trong
nhiều năm qua cho thấy rõ đặc điểm này. Tính chất này cũng được phản ánh vào sự
tăng trưởng tín dụng cao ở khu vực ngân hàng trong nhiều năm qua. Tăng trưởng tín
dụng bình quân mấy năm qua của Việt Nam đạt gần 30%/năm, trong khi các nghiên
cứu chỉ ra rằng, tăng trưởng tín dụng gấp khoảng 3 lần tăng tưởng kinh tế (GDP) hàng
năm là phù hợp. Cuối quý III năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 28%, và
như vậy cả năm 2009 có thể trên 30% (trong khi dự báo tăng trưởng kinh tế là 5,2%).
Yếu tố mất cân đối thứ hai là mở rộng quy mô quá mức. Thống kê cho thấy,
những năm 1990, tín dụng cho nền kinh tế bằng khoảng 18% GDP, tuy nhiên đến nay
(năm 2009) quy mô tín dụng đã đạt gần 100% GDP. Tốc độ tiền tệ hóa nền kinh tế
(M2/GDP) đến nay ước khoảng 110%, trong khi tỷ lệ này vào năm 1990 chỉ khoảng
19% GDP. Sự tăng trưởng quy mô của từng ngân hàng và toàn thị trường như vậy là
khá nhanh. Thế nhưng trình độ quản trị, cơ sở hạ tầng, thể chế thị trường lại chưa thực
12


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam


sự theo kịp. Các NHTM vẫn hoạt động theo mô hình cũ từ những năm 1990, Luật
NHNN và Luật các tổ chức tín dụng đã bộc lộ những điểm lạc hậu cần sửa đổi.
Yếu tố tiếp theo là quản lý thanh khoản bất cập. Năm 2008 là năm thách thức về
năng lực quản lý thanh khoản của các NHTM. Một số ngân hàng đã rơi vào tình trạng
thiếu thanh khoản và biểu hiện của nó là trào lưu “siêu lãi suất” hồi đầu năm 2008, và
các NHTM đã từng đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên tới mức 45%/năm.
Sự tăng trưởng tín dụng như trên cùng với khả năng quản lý thanh khoản hạn chế đã
tạo ra mất cân đối về kỳ hạn và làm cho hệ thống rất dễ bị tổn thương trước các cú sốc.
Các ước tính cho thấy, cơ cấu nguồn vốn trong hệ thống ngân hàng có tới 80% tổng
nguồn vốn là có kỳ hạn dưới 1 năm; chỉ có 20% tổng nguồn vốn là có kỳ hạn trên 1
năm (trong đó kỳ hạn trên 2 năm chưa tới 10%). Trong khi đó cơ cấu cho vay phổ biến
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam là gần 60% tổng dư nợ cho vay với thời hạn
cho vay trên 1 năm.
Yếu tố cuối cùng cần phải đề cập tới là tình trạng “vốn mới - quản trị cũ” tại các
ngân hàng thương mại cổ phần. Đến nay, nhìn chung các ngân hàng này vẫn hoạt động
theo mô hình quản trị công ty đã cũ (nhất là các NHTM cổ phần nông thôn vừa được
nâng cấp). Các NHTM quốc doanh vừa mới cổ phần hóa và niêm yết trên sở giao dịch
chứng khoán nhưng mô hình quản trị vẫn giữ nguyên như ngân hàng thương mại quốc
doanh ngày xưa do mức độ cổ phần hóa quá ít.
2. Quá trình tái cấu trúc ngân hàng thương mại:
2.1. Trong ngắn hạn:
Việc xác định chính xác và xử lý nợ xấu được coi là ưu tiên hàng đầu cho các
biện pháp ngắn hạn để tái cấu trúc NHTM hiện nay, tiếp theo là tăng vốn tự có và cải
thiện lòng tin của dân chúng đối với hệ thống NHTM. Rõ ràng, một trong những quan
ngại lớn nhất của giới chuyên gia và lãnh đạo NHTM vẫn là việc xác định chính xác tỷ

13


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam


lệ nợ xấu và xử lý nợ xấu, để có thể bắt đúng bệnh và đưa ra liều thuốc chữa bệnh phù
hợp.
Tuy nhiên, có chuyên gia cho rằng, việc tăng vốn tự có sẽ tạo ra một áp lực
buộc các NH nhỏ tìm mọi cách chỉ để đáp ứng yêu cầu về vốn tự có tối thiểu, trong khi
năng lực quản trị điều hành của họ chưa kịp thay đổi với quy mô tổng tài sản tăng lên
gấp 20 lần với mỗi đồng vốn tự có tăng lên (1 NH tăng vốn tự có từ 2.000 tỷ đồng lên
3.000 tỷ đồng, có nghĩa là có khả năng tăng tổng tài sản lên 20.000 tỷ đồng). Điều này
đã đặt các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng cổ phần nông thôn và ngân hàng quy mô
nhỏ, phải chạy đua với nhau để tăng quy mô vốn một cách rất gấp gáp trong khi năng
lực quản trị cần có cho một ngân hàng quy mô lớn hơn nhiều đã không theo kịp. Vẫn
bộ máy quản trị ngân hàng cũ và những con người cũ nhưng quản trị một ngân hàng có
quy mô lớn lại hoạt động trong môi trường cạnh tranh hơn. Hệ quả là khi nền kinh tế
rơi vào bất ổn thì các yếu kém bắt đầu lộ ra mà hậu quả là những gì mà công cuộc tái
cấu trúc cần phải giải quyết. Do vậy, thay vì quy định vốn tự có tối thiểu, cơ quan quản
lý, giám sát NH có thể đưa ra quy định về CAR tối thiểu, và có cơ chế giám sát cụ thể
vừa đảm bảo khả năng an toàn hoạt động cho NHTM, vừa tạo điều kiện để các NHTM
chủ động trong việc tăng hay giảm quy mô phù hợp với năng lực quản trị của
mình.Hầu hết các giải pháp đã được đề xuất trong đề án đều theo thông lệ quốc tế, tuy
nhiên, một trong những vấn đề chưa được đề cập đến trong đề án là nguồn lực, cả về
tài chính và nhân lực, cả trên giác độ nhà nước, dân chúng, và chính bản thân các ngân
hàng. Do vậy, các giải pháp đang được thực hiện, phần nhiều có thiên hướng hành
chính, tận dụng ưu thế quản lý điều hành của NHNN để khuyến khích các NH lớn đưa
ra các giải pháp hỗ trợ cho các NH yếu kém hoặc dùng nguồn lực của nhà nước, vốn
đã khan hiếm để cứu các NH yếu kém.
2.2. Trong dài hạn:

14



Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

Ưu tiên hàng đầu được dành cho giải pháp nhằm tăng cường năng lực thanh tra
giám sát của NHNN và năng lực quản trị điều hành (corporate governance) của các
NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp với những yếu kém của hệ thống NHTM hiện
nay. Bên cạnh đó, cần cải thiện năng lực quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN. Điều này cũng không ngạc nhiên khi một trong những lý do khiến rất nhiều
NHTM gặp khó khăn về thanh khoản hay tín dụng, ngoài những nguyên nhân chủ
quan, còn có nguyên nhân khách quan từ sự điều hành mang tính tình thế, chính sách
đi sau thực tế của NHNN. Năng lực quản trị điều hành của các NHTM là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến đổ vỡ của các NHTM Mỹ trong giai đoạn
khủng hoảng 2007-2008. Như vậy, rõ ràng, về dài hạn, việc nâng cao năng lực quản trị
điều hành sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch thông tin trong hoạt động của hệ thống
NHTM.
Về dài hạn cần xây dựng hệ thống pháp lý để Bảo hiểm tiền gửi có đủ năng lực
tài chính và kỹ thuật để xử lý các NH đổ vỡ và xây dựng hệ thống pháp lý cho phép
các NH phá sản.
Hai nhóm giải pháp này có quan hệ chặt chẽ với nhau, vì chỉ khi nào pháp luật
cho phép các NH phá sản, và Bảo hiểm tiền gửi đủ mạnh thì việc phá sản NH, xử lý
các NH đổ vỡ sẽ diễn ra theo quy luật thị trường. Hai nhóm giải pháp này cũng hoàn
toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, tuy nhiên, chưa được đề cập đến trong đề án tái cấu
trúc hiện nay. Thêm vào đó, về dài hạn, cần thiết lập mạng an toàn tài chính quốc gia.
Theo Fred Carns (2011) và Hiroyuki Obata (2011), mạng an toàn tài chính là hệ thống
các cơ quan có trách nhiệm giám sát, duy trì ổn định hệ thống tài chính, ngăn ngừa
khủng hoảng tại các nước và các cơ chế, công cụ được các cơ quan thực hiện nhằm đạt
được mục tiêu trên. Theo thông lệ quốc tế, mạng an toàn tài chính của các nước thường
bao gồm: Bộ Tài chính, Ngân hàng Trung ương, Cơ quan giám sát tài chính, tổ chức
BHTG và một số cơ quan khác. Trong mạng an toàn tài chính, Bảo hiểm tiền gửi có

15



Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

chức năng đảm bảo duy trì niềm tin của người gửi tiền với vai trò giám sát, cảnh báo
sớm, xử lý ngân hàng đổ vỡ góp phần đảm bảo an toàn hệ thống, qua đó đóng góp tích
cực và chủ động vào việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng. Như vậy, tổ chức BHTG
có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền (vi mô) và ổn định hệ thống tài
chính (vĩ mô). Có thể thấy, xu hướng trên thế giới hiện nay, vai trò của tổ chức BHTG
đang tiếp tục được củng cố thông qua việc áp dụng hạn mức cao hơn, củng cố nguồn
vốn, quỹ BHTG, chi trả nhanh hơn, và cơ chế xử lý minh bạch trong đó có sự tham gia
của tổ chức BHTG.
Như vậy, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi rất mờ nhạt, không tỏ rõ được vai trò và
trách nhiệm của BHTG khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, bảo vệ quyền lợi cho người gửi
tiền. Điều này hoàn toàn không phù hợp với thông lệ quốc tế, khi khủng hoảng NH xảy
ra, chính BHTG là tổ chức đứng ra xử lý khủng hoảng và là cơ quan đầu mối tham gia
thực hiện tái cấu trúc (kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc, Đài Loan). Do vậy, với
nguồn lực tái cấu trúc không rõ ràng, với sự tham gia mờ nhạt của tổ chức BHTG, có
thể nói, sự thành công của quá trình tái cấu trúc hoàn
toàn phụ thuộc vào “tài tình” của NHNN, cơ quan duy nhất là đầu mối thưc hiện tái
cấu trúc hệ thống NH ở Việt Nam hiện nay.
IV/ Quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước:
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) trong những năm qua:
Được hình thành trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, DNNN là nền
tảng đáp ứng những nhu cầu của xã hội. Trong công cuộc đổi mới, hệ thống DNNN
16


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam


vừa được mở rộng, phát triển, vừa được đổi mới, sắp xếp, từng bước chuyển sang hoạt
động theo cơ chế thị trường. Nhìn tổng thể, vai trò của DNNN nói chung, các Tập đoàn
kinh tế, Tổng công ty Nhà nước nói riêng trong thời gian qua là hết sức quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các DNNN, mà trọng tâm là các Tập
đoàn kinh tế (TĐKT), Tổng công ty (TCT) đã bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản
phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các TĐKT, TCT nhà nước vẫn duy trì được hoạt
động và có đóng góp quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Tuy vậy, DNNN, các TĐKT, TCT nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập:
Một là, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của DNNN còn hạn chế:
Không kể các DN thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô, chính trị - xã hội, thì hiệu
quả và sức cạnh tranh của khu vực DNNN còn thấp mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn
lực. DNNN phải sử dụng tới 2,2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng doanh thu năm 2009, trong
khi đó DN ngoài quốc doanh chỉ cần 1,2 đồng vốn và DN FDI là 1,3 đồng (mức trung
bình của toàn bộ DN Việt Nam là 1,5 đồng); năm 2010, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu các TĐKT, TCT mới đạt 16,5%. Một số TĐKT, TCT nhà nước có nhiều lợi thế
kinh doanh, đạt tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao. Nhưng trong 10 năm qua, tỷ
suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào vượt quá 6%,
trong khi các DN FDI luôn duy trì ở mức trên dưới 10%.
Hai là, thực trạng tài chính tại một số TĐKT, TCT, DNNN rất yếu kém, thua lỗ kéo
dài, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính. Việc thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô
của Nhà nước đối với kinh tế của các TĐKT, TCT nhà nước còn hạn chế. Nhiều
TĐKT, TCT nhà nước chưa bắt kịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường;
năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản trị DN còn yếu kém, bất cập. Các công ty nông
nghiệp, lâm nghiệp (nông, lâm trường quốc doanh) còn chậm được sắp xếp, đổi mới;
và hoạt động của một bộ phận DNNN đã góp phần dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô.
Về khách quan, sự yếu kém của DNNN là do sự chậm chạp trong nhận thức về đổi
mới; những hạn chế về lựa chọn, xây dựng, chiến lược, mô hình, cơ chế chính sách cho
17



Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

phát triển DN nói chung và DNNN nói riêng. Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế
toàn cầu đã gây ra những khó khăn lớn đến hệ thống DNNN trong bối cảnh nước ta đã
hội nhập ngày càng sâu, rộng vào hệ thống kinh tế thế giới.
Vê chủ quan, bắt nguồn từ mô hình phát triển kinh tế chung, DNNN nhất là các
TĐKT, TCT nhà nước đã quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư, chưa chú trọng phát
triển theo chiều sâu nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp. Chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực , sản phẩm và của từng TĐKT, TCT,
DNNN còn bất cập và yếu kém. Việc thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa DNNN còn chậm
so với phương án được duyệt. Một nguyên nhân nữa là tình trạng nhiều TĐKT, TCT
nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ thuộc nhiều vào
vốn vay hoặc chiếm dụng; tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường trong một
số lĩnh vực làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa theo kịp với thực tiễn hoạt
động của các TĐKT, TCT; sự hạn chế trong phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong quản
lý, giám sát DNNN nhất là TĐKT, TCT nhà nước; sự bất cập về mô hình, thể chế quản
trị, đội ngũ cán bộ quản lý DN và quản lý nhà nước cũng là những nguyên nhân chủ
quan gây ra sự yếu kém của khu vực DNNN.
2. Những khó khăn thách thức và thuận lợi đối với tái cấu trúc DNNN:
Trong tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu trúc khu vực DNNN được xác
định là khó khăn nhất cho dù đó là DN ngân hàng hay phi ngân hàng. Nhất là, bối cảnh
kinh tế thế giới và trong nước hiện đang có những khó khăn bất ổn, hệ thống tài chính
quốc gia còn chưa đủ mạnh để hỗ trợ hữu hiệu cho việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh
nghiệp. Việc nhận thức đầy đủ và thống nhất hành động của cả của hệ thống chính trị
đối với tái cấu trúc nền kinh tế không phải là điều dễ dàng; vấn đề giải quyết, sắp xếp
việc làm và lao động dôi dư cũng là một thách thức không nhỏ. Về mặt kinh tế, chi phí
tái cấu trúc DNNN (các khoản nợ phải thu khó đòi, khoản lỗ, chi giải quyết việc làm

người lao động, cấp vốn cho các định chế tài chính trung gian tham gia tái cấu trúc) có
thể phát sinh lớn (ước tính sơ bộ hàng chục tỷ đồng) sẽ là gánh nặng đối với nền kinh
tế, nhiều khả năng làm tăng thêm nợ công nếu không có phương án xử lý tốt….
18


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

Bên cạnh những khó khăn thách thức, tái cấu trúc DNNN cũng có những thuận
lợi căn bản. Tái cấu trúc DNNN là một trong những mục tiêu, chiến lược quan trọng,
đã chín muồi, đã được soi sáng bằng kết quả của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về
Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011 -2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2011 -2015 vừa được Quốc hội thông qua; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên còn
rất tiềm năng; hệ thống các hạ tầng thông tin, hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, tài chính cũng
như môi trường về thể chế về cơ bản đã được hình thành và đang dần được hoàn thiện;
nhiều công cụ tài chính mới như mua bán nợ, công cụ về tín dụng, mua – bán sáp nhập
DN, các công cụ về thuế, hải quan giúp cho xử lý những vấn đề tài chính trong tái cấu
trúc, nguồn Quỹ Hỗ trợ sắp xếp DN góp phần nhất định giảm bớt những khó khăn cho
tiến trình tái cấu trúc;những kinh nghiệm lớn về đổi mới và quản lý trong quá khứ,
nguồn lực trí tuệ Việt Nam rất dồi dào.

3. Quan điểm, mục tiêu, định hướng tái cấu trúc DNNN:
3.1. Quan điểm:
Xuyên suốt quá trình cải cách, đổi mới DNNN từ trước đến nay và nhiệm vụ tái
cấu trúc DNNN mà trọng tâm là các TĐKT, TCT nhà nước phải quán triệt các quan
điểm chính sau:
- Thứ nhất: Chức năng của Nhà nước là điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua sử dụng
các công cụ điều tiết, trong đó công cụ quan trọng là DNNN (xu hướng lâu dài là nhà
nước giảm điều hành quá trình kinh tế cụ thể, tập trung thực hiện chức năng ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm dịch vụ công);

- Thứ hai: Tái cấu trúc không phải là hạn chế, làm giảm vai trò mà phải làm cho
DNNN mạnh hơn, thực sự trở thành nòng cốt của kinh tế nhà nước, góp phần để kinh
tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; quá trình tái cấu trúc phải quán triệt thực hiện các quan điểm, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả DNNN đã được xác định trong các
nghị quyết của Đảng;
19


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

- Thứ ba: Tái cấu trúc DNNN phải thực hiện trên cả phương diện vĩ mô (điều chỉnh lại
chính sách, khung pháp lý, phân bổ lại nguồn lực, cơ cấu sở hữu, quản lý của khu vực
DNNN) và cả phương diện vi mô (điều chỉnh lại sở hữu, mô hình, cơ chế hoạt động,
quản trị, bố trí lại nguồn lực ở từng TĐKT, TCT nhà nước), đồng thời phải gắn với tái
cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020;
- Thứ tư: Vừa thực hiện tái cấu trúc hệ thống DNNN (trên 5 phương diện chủ yếu:
ngành nghề; tài chính; quản trị DN; quản lý nhà nước; hệ thống pháp luật) vừa thực
hiện tái cấu trúc theo thực thể (tại mỗi TĐKT, TCT nhà nước). Kiên quyết thực hiện
tái cấu trúc DNNN theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp, cơ quản quản
lý, theo nguyên tắc giảm về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động;
- Thứ năm: Đổi mới triệt để hệ thống nông, lâm trường quốc doanh gắn với giải quyết
các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và hiệu quả quản lý, sử dụng đất và các
mục tiêu quản lý khai thác rừng của Nhà nước;
- Thứ sáu: Kiên định về mục tiêu và nguyên tắc, mềm dẻo trong hình thức và phương
thức tổ chức thực hiện; không tuyệt đối hóa, duy ý chí, không sử dụng mệnh lệnh hành
chính trong quá trình tái cấu trúc trong bán, giải thể, sáp nhập, phá sản và thành lập
mới DNNN.
3.2. Mục tiêu:

Trên cơ sở các mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn
2011 -2020 và Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011 -2015, tái cấu trúc DNNN
nhằm đạt các mục tiêu sau đây:
1. Nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của khu
vực DNNN và từng DNNN tương xứng với nguồn lực được giao;
2. Lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính, đảm bảo cơ cấu tài chính hợp lý cho
sự phát triển lành mạnh và bền vững của DNNN, nhất là TĐKT, TCT nhà nước;
3. Đảm bảo cho TĐKT, TCT nhà nước làm tốt vai trò công cụ điều tiết vĩ mô, là đầu
tàu định hướng sự phát triển, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy các DN thuộc thành
phần khác cùng phát triển;
20


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

4. Đặt DNNN đặc biệt là TĐKT, TCT nhà nước trong môi trường cạnh tranh bình đẳng
với các DN khác; nhất quán và kiên trì thực hiện nguyên tắc thị trường trong hoạt động
của DNNN;
5. Xây dựng các DNNN có quy mô lớn, hầu hết đa sở hữu; đến năm 2020 hình thành
một số TĐKT nhà nước lớn nằm trong số những TĐKT trong khu vực, ở tầm quốc tế
và 10 – 15 TĐKT, TCT hàng đầu có vai trò đầu tàu, dẫn dắt, điều tiết kinh tế trong
phạm vi quốc gia.
3.3. Định hướng:
Để tái cấu trúc khu vực DNNN, những định hướng cơ bản để xác định các giải pháp,
nhóm giải pháp là:
1. Tập trung phát triển DNNN trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý nghĩa then
chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật liên
quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo cân đối lớn (tiền tệ, điện, lương
thực, giao thông, vận tải hàng không, đường sắt, viễn thông, dầu khí, xăng dầu, khai
thác tài nguyên khoáng sản, xây lắp); ngành độc quyền tự nhiên...; dịch vụ công; ổn

định kinh tế vĩ mô và quốc phòng, an ninh và trên một số địa bàn quan trọng. Hoạt
động kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ công ích thực hiện thông qua đấu thầu, đặt
hàng, giao kế hoạch;
2. Thực hiện triệt để hơn phân định và tăng cường chức năng quản lý nhà nước và chức
năng thực hiện quyền chủ sở hữu trên cơ sở hoàn thiện cơ chế phân cấp thực hiện
quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc phải có một cơ quan đầu
mối chịu trách nhiệm chính theo dõi việc sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích,
đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNNN, kể cả TĐKT, TCT nhà nước đặc biệt.
3. Đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với TĐKT, TCT nhà nước
và cơ chế đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại DN; tách biệt thực hiện quyền chủ sở hữu
đối với quyền chủ động sản xuất kinh doanh của DN;
4. Đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, chú trọng vào các TĐKT, TCT theo hướng giảm số
lượng DNNN và giảm vốn nhà nước tại DN; thực hiện đa dạng hoá sở hữu trong các

21


Trình bày quá trình tái cấu trúc ở Việt Nam

DNNN, thu hút các nhà đầu tư chiến lược tư nhân lớn có năng lực tài chính, quản trị
trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào DNNN;
5. Đổi mới quản trị và cơ chế hoạt động của DNNN theo hướng chuyển sang tổ chức
và hoạt động theo mô hình công ty CP, hạn chế hoạt động theo hình thức công ty
TNHH; tuân thủ quy định của Luật DN, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường;
6. Thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của DNNN, đặc biệt là TĐKT, TCT Nhà
nước trong những lĩnh vực, ngành nghề độc quyền tự nhiên;
7. Chuyển đổi các doanh nghiệp, ban quản lý rừng hoặc giải thể các nông, lâm trường,
phù hợp với các chính sách về quản lý đất đai, về rừng đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi
trường, đảm bảo quốc phòng an ninh và phát triển kinh tế.
4. Lộ trình và tổ chức thực hiện:

Một số mốc chính trong lộ trình tái cấu trúc DNNN là xây dựng xong Đề án tái
cấu trúc DNNN (Đề án khung) trong năm 2011. Tiếp theo là tổ chức triển khai tái cấu
trúc với nhiều công việc phải được thực hiện có trình tự, nhịp nhàng, đồng bộ bắt đầu
từ 2012. Đến 2015, cơ bản hoàn thành các kế hoạch lớn như cổ phần hóa, hoàn thiện
hệ thống thể chế quản lý, giám sát, quản trị doanh nghiệp; đào tạo được đội ngũ con
người phục vụ cho hoạt động của DNNN.
Giai đoạn 2016 – 2020 tiếp tục hoàn thiện các thể chế, sắp xếp lại, cổ phần hóa
các TĐKT, TCT nhà nước và các DNNN thuộc các Bộ, Ngành, địa phương (2015 –
2020).

22



×