Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.18 KB, 37 trang )

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện. Trong cải cách và phát triển
kinh tế- xã hội, bình quân thu nhập đầu người tăng lên, cơ sở hạ tầng được xây
dựng hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc...Việc chuyển
hướng từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước tạo ra những bước phát triển, những cơ hội
mới để Việt Nam nhanh chóng hội nhập khu vực và thế giới, trở thành một nước
công nghiệp phát triển. Tuy nhiên, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng
còn có các mặt hạn chế, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều
tới các vùng, các nhóm dân cư. Vì vậy một bộ phận dân cư do các nguyên nhân
khác nhau chưa bắt nhịp với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống sản
xuất và trở thành người nghèo. Đói nghèo là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà là
vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các châu lục với những mức độ khác
nhau và trở thành một thách thức lớn đối với sự phát triển của từng khu vực, từng
quốc gia, dân tộc và từng địa phương. Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ xã hội và khẳng định nghèo đói ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định
chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường, Đảng và nhà nước ta coi xóa đói giảm
nghèo là một chủ chương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
Vì vậy chúng em xin trình bày về vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với xóa đói giảm nghèo để thấy được sự cần thiết xóa đói giảm nghèo đối với sự
phát triển chung của đất nước.

1


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

A.TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. Tăng trưởng và phát triển kinh tế:


1. Tăng trưởng kinh tế (TTKT):
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập(hay sản lượng) được tính cho
toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Hay nói một cách khác cụ thể hơn, tăng trưởng kinh tế là do tăng thu nhập
quốc dân và thu nhập quốc dân đầu người.
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng
giữa các thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.


- Mức tăng tuyệt đối:
Y = Yn – Y0
Trong đó: Yn là sản lượng của năm n,
Y0 là sản lượng của năm gốc.
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (g)
g = Yn/Yo hay (Yn – Yo)/Yo
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền vững hay
việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng trưởng không
những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của các chỉ tiêu quy mô
và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa quá trình ấy phải được
tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học công nghệ và vốn nhân lực
trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2. Phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh
tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và chất, nó là
sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã
hội ở mỗi quốc gia.

Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình phát
triển. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
2


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế, là điều cần thiết để
nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu
khác của phát triển.
• Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức
phản ánh sự biến đổi về chất của nền kinh tế của một quốc gia. Để phân biệt
các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế của
các quốc gia với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu
ngành kinh tế mà quốc gia đạt được.
• Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng
hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh
dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ
y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân
v.v…
Nếu nền kinh tế chỉ nhìn theo khía cạnh tăng trưởng thì chưa đủ, để nhìn
toàn diện phải nhìn trên phương diện phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là
lượng thì phát triển kinh tế phải là cả lượng và chất. Như vậy, đánh giá về phát
triển kinh tế phải dựa trên đánh giá của các khía cạnh: Đánh giá sự thay đổi về
lượng, đánh giá về sự biến đổi trong cơ cấu của nền kinh tế, đánh giá về sự thay
đổi trong các vấn đề xã hội.


II. Định nghĩa và phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo
1.Định nghĩa về nghèo đói

1.1. Nghèo khổ về thu nhập:
Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện: thu nhập hạn chế
hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó
khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra
quyết định…
Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực châu á - Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (1993) đã đưa ra định nghĩa chung như
sau:
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận
tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Một số khái niệm nghèo đói khác
3


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
a. Nghèo tuyệt đối:
Nghèo ở mức độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại.
Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các
thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng
tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
b. Nghèo tương đối:
Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương
đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và
phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự
sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc
vào cảm nhận của những người trong cuộc.Người ta gọi là nghèo tương đối chủ
quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác
định khách quan.Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu

thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về
văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một
phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
1.2. Nghèo khổ tổng hợp
Nghèo khổ tổng hợp(hay nghèo khổ của con người) là khái niệm đã được Liên
Hợp Quốc (LHQ) đưa ra trong “Báo cáo về phát triển con người” năm 1997. Theo đó,
nghèo khổ của con người là khái niệm biểu thị sự nghèo khổ đa chiều của con người –
là sự thiệt thòi (khốn cùng) theo 3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người.
Chẳng hạn, đối với các nước đang phát triển sự thiệt thòi đó là:
- Thiệt thòi xét trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được xác định
bởi tỷ lệ người dự kiến không sống thọ quá 40 tuổi.
- Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
- Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế, được xác định bởi tỷ lệ người không tiếp cận
được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người”, LHQ đã sử dụng chỉ số nghèo khổ của
con người – HPI hay còn gọi là chỉ số nghèo khổ tổng hợp. Giá trị HPI của một nước
nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần trăm dân số
của nước đó. So sánh các giá trị HDI và HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến
bộ con người. Các nước có giá trị HDI như nhau nhưng giá trị HPI lại khác nhau.

4


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
2. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế
Phương pháp của WB: Phương pháp mà WB sử dụng là dựa vào ngưỡng chi
tiêu (USD/ngày). Năm 2008, WB công bố ngưỡng nghèo 1.25USD/ngày (theo sức
mua tương đương). Đây là ngưỡng chi tiêu có thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng
tối thiểu cần thiết cho con người, mức chuẩn đó là 2100 Kcal/người/ngày. Ngưỡng
nghèo này gọi là ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm. Những người có mức chi tiêu

dưới mức chi cần thiết để đạt 2100 Kcal/ngày gọi là “nghèo về lương thực thực
phẩm”.
3. Chuẩn đói nghèo Việt Nam:
3.1. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Việt Nam:
a. Phương pháp xác định:
- Phương pháp dựa cả vào thu nhập và chi tiêu theo đầu người (phương pháp
của tổng cục thống kê). Phương pháp này đã xác định 2 ngưỡng nghèo:
Ngưỡng nghèo thứ nhất, số tiền cần thiết để mua được một số lương thực hàng
ngày để đảm bảo mức dinh dưỡng. Như vậy, phương pháp tiếp cận này tương tự như
cách tiếp cận của WB (đã nói ở trên).
Ngưỡng nghèo thứ hai - ngưỡng nghèo chung: bao gồm cả chi tiêu cho hàng
hoá là lương thực và phi lương thực.
Ví dụ: Ngưỡng nghèo Việt Nam được tính toán từ cuộc điều tra mức sống dân
cư năm 1993 và 1998 như sau:
Chi tiêu bình quân đầu người/ năm
1993
1998
(tính và thời điểm 1/1993)
(tính vào thời điểm 1/1998)
Ngưỡng nghèo về
750.000 đồng
1.287.000 đồng
lương thực, thực phẩm
Ngưỡng nghèo chung 1.116.000 đồng
1.788.000 đồng
- Phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình (Phương pháp của Bộ Lao
động – thương binh và Xã hội). Phương pháp này đã được sử dụng để xác định chuẩn
nghèo cho chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia (chuẩn nghèo quốc gia).
b. Các mức chuẩn nghèo một số giai đoạn:
*Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2001 – 2005 được xác định dựa trên thu

nhập theo 3 vùng. Cụ thể là:
-Vùng hải đảo và vùng núi nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
80.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.

5


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
- Vùng đồng bằng nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 100.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
- Và khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 150.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
*Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2006 – 2010 được xác định với hai khu
vực như sau:
- Nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
- Thành thị:những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng
trở xuống là hộ nghèo.
*Chuẩn nghèo áp dụng cho thời kỳ 2011 – 2015 được xác định như sau:
- Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
- Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
- Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng
đến 650.000 đồng/người/tháng.
Riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được áp dụng:
+ Hà Nội:
Ở khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 750.000

đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; mức thu nhập bình quân từ 751.000
đồng/người/tháng đến 1.000.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
Ở khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 550.000
đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo; mức thu nhập bình quân từ 551.000
đồng/người/tháng đến 750.000 đồng/người/tháng là hộ cận nghèo.
+ TPHCM, chuẩn nghèo đã thay đổi từ năm 2009 và sẽ áp dụng cho đến năm
2015, với mức 1 triệu đồng/người/tháng cho cả khu vực nông thôn và thành thị.
3.2. Chỉ số đánh giá
Thước đo được sử dụng phổ biến hiên nay để đánh giá nghèo khổ thu nhập là
đếm số người sống dưới chuẩn nghèo. Gọi là “chỉ số đếm đầu người”(HC). Từ đó xác
định tỷ lệ nghèo (tỷ số đếm đầu - HCR) và khoảng cách nghèo.
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số sống dưới chuẩn nghèo
(ngưỡng nghèo) với tổng dân số. Việc sử dụng chỉ số này là cần thiết để đánh giá tình
6


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu “giảm nghèo” của quốc gia và thế
giới.
Khoảng cách nghèo là khoảng cách chênh lệch giữa chi tiêu của người nghèo
với ngưỡng nghèo, tính bằng phần trăm so với ngưỡng nghèo. Khi so sánh các nhóm
dân cư trong một nước, khoảng cách nghèo cho biết tính chất và mức độ của nghèo
khổ khác nhau giữa các nhóm. Chẳng han, theo kết quả tính toán của tổng cục thống
kê Việt Nam, khoảng cách nghèo ở nông thôn Việt Nam năm 2002 là 8,7% và nhóm
dân tộc thiểu số là 22,1%. Với giả thiết là mức tăng thu nhập là 2%/năm và gần bằng
tốc độ tăng trưởng kinh tế thì sau khoảng 4 năm có thể đưa hộ nghèo trung bình ở
nông thôn thoát nghèo trong khi đó nhóm dân tộc thiểu số phải mất một thập kỷ.
4. Đặc trưng của người nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế:
Người nghèo chủ yếu là những nông dân với trình độ học vấn thấp và khả năng
tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế. Năm 1998, gần 4/5 số

người nghèo làm việc chủ yếu trong ngành nông nghiệp.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang ngày càng phổ
biến, đặc biệt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Các hộ có nhiều con hoặc có ít lao động có tỷ lệ nghèo cao hơn và đặc biệt dễ
bị tổn thương khi phải gánh chịu thêm những chi phí về y tế và giáo dục cao và thất
thường. Các hộ mới tách hộ vượt qua được giai đoạn đầu của nghèo đói, lại bị hạn chế
trong việc sử dụng đất. Các hộ nghèo thường bị rơi vào vòng nợ nần luẩn quẩn.
Tỷ lệ nghèo đói trong các nhóm dân tộc ít người đã giảm đi nhưng không giảm
nhanh bằng người Kinh. Các dân tộc ít người gặp phải nhiều bất lợi đặc biệt. Những
bất lợi này cần phải được giải quyết thông qua Chương trình Phát triển Dân tộc thiểu
số.
Những người dân nhập cư thành thị nghèo, không có hộ khẩu gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp cận tới các dịch vụ công và trở thành người sống tách biệt. Có
thêm nhiều việc làm là cách tốt nhất để giúp đỡ những người này.
Trẻ em chiếm phần lớn trong số dân nghèo. Trẻ em nghèo ít có khẳ năng được
đến trường và bị rơi vào vòng nghèo đói do thế hệ trước để lại và cảm thấy cực kỳ
không an toàn.

7


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
1. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng chưa đủ để XĐGN
Từ những năm 1970 trở lại đây, hầu hết các nước đang phát triển đã có sự
chuyển hướng ưu tiên trong quá trình phát triển từ việc quan tâm đặc biệt tới TTKT
sang các mục tiêu kinh tế - xã hội rộng lớn như: XĐGN, giảm chênh lệch về thu nhập.
Điều này xuất phát từ thực tế là vào những năm 60, các nước đang phát triển có tỷ lệ
tăng trưởng tương đối cao nhưng sự tăng trưởng đó mang lại rất ít lợi ích cho người

nghèo ở nước họ.
Chẳng hạn Mỹ La tinh là khu vực có sự tăng trưởng nhanh từ những năm 1960
và kéo dài cho tới khi có cuộc khủng hoảng về nợ (1982). Khoảng cách thu nhập giữa
20% dân số giàu nhất và 20% người nghèo nhất trong tổng dân số đã giảm từ 23/1
xuống 18/1. Tuy nhiên sự cải thiện này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
Đến những năm 1980, TTKT của khu vực này làm cho khoảng 10% dân số có
thu nhập cao nhất tăng 10% trong khi thu nhập của những người nghèo nhất lại giảm
15%. Trong trường hợp này TTKT chỉ làm tăng phúc lợi cho người giàu, người giàu
được hưởng lợi từ tăng trưởng. Trong khi đó đời sống của phần lớn dân cư lại không
được cải thiện.
Tuy nhiên về lý thuyết cũng như từ quan sát thực tế, các nhà kinh tế đều cho
rằng, nguyên nhân chính của việc TTKT nhanh nhưng không đi đôi với cải thiện đời
sống, nâng cao phúc lợi cho đa số dân chúng - những người nghèo là xuất phát từ
“phân phối thu nhập”. Ví dụ, trong trường hợp 2 nước có cùng mức thu nhập và thu
nhập bình quân đầu người có thể có cơ cấu sản xuất và tiêu dùng hoàn toàn khác
nhau. Điều này tuỳ thuộc vào phân phối thu nhập có công bằng hay không. Nếu mức
thu nhập và thu nhập bình quân thấp, phân phối thu nhập càng bất công thì tổng cầu
của nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng bởi thói quen tiêu dùng của người giàu. Sức mua có
tính chi phối của họ có thể sẽ hướng sản xuất vào những hàng hoá xa xỉ làm cho
đường cầu không phải là tất cả của mọi người tiêu dùng mà chỉ của một số ít người
giàu. Ngược lại, nếu thu nhập được phân phối công bằng hơn, đường cầu sẽ hướng
vào sản xuất những hàng hoá thiết yếu để tạo khẳ năng tăng mức sống cho đại bộ
phận dân cư và giảm nghèo đói ở nông thôn.
Như vây, có thể nói TTKT là điều kiện cần nhưng chưa đủ để làm phúc lợi mọi
người được phân phối rộng rãi hơn - chưa đủ để XĐGN. Vì vậy cần thiết phải quan
tâm trực tiếp tới việc cải thiện đời sống vật chất cho người dân, tức là quan tâm đến
8


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

việc “phân phối thu nhập”. Phải có chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập
sao cho những người nghèo nhất cũng được thừa hưởng những thành quả của TTKT điều này đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách XĐGN.
2. XĐGN là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững.
2.1. XĐGN là một trong những mục tiêu của tăng trưởng.
Thực vậy, như phần trên đã trình bày, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để
nâng cao thu nhập, nhưng chỉ tăng trưởng không thôi thì chưa đủ vì chẳng có gì đảm
bảo chắc chắn rằng người nghèo sẽ được hưởng những thành quả của sự tăng
trưởng.Nhưng thử hỏi nếu không có tăng trưởng thì sao chứ? Lúc đó người nghèo còn
chẳng có một chút cơ hội nào để cải thiện cuộc sống của mình.
Cũng như trong cuộc sống, mỗi người, cả đời làm lụng vất vả thử hỏi vì cái gì?
Tại sao họ lại cứ phải “lao vào làm, lao vào kiếm sống”? Câu trả lời chắc chắn không
gì khác là họ làm vì cuộc sống, vì hy vọng mình sẽ không bị thiếu ăn, cuộc sống của
mình sẽ không bị rơi vào tình trạng nghèo đói. Thế thì đối với mỗi quốc gia cũng vậy,
phải thực hiện tăng trưởng, chỉ có tăng trưởng mới cho quốc gia họ cơ hội thoát khỏi
đói nghèo vươn lên sánh vai cùng với các nước phát triển trên thế giới. Do vậy,
XĐGN đối với mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng chính là mục tiêu của
tăng trưởng kinh tế.
2.2. XĐGN là điều kiện tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Để XĐGN, Chính phủ mỗi nước phải có sự đầu tư: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, tạo cơ hội về sản xuất, giải quyết việc làm... Đến lượt nó, việc làm ổn định lại
tạo thêm nhiều sản phẩm cho xã hội đóng góp một phần giá trị và mức tăng trưởng
chung. Xét trong ngắn hạn khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho
chương trình XĐGN thì nguồn lực dành cho TTKT có thể bị ảnh hưởng, song xét một
cách toàn diện về dài hạn thì kết quả XĐGN lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và
bền vững. Tình hình cũng giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số nước
đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân đã thoát khỏi nghèo
đói và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển mới cho
ngành nông nghiệp.
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: XĐGN được đặt thành một bộ
phận của chiến lược 10 năm, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã

hội.XĐGN khôngchỉlà nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội màtrước hết là bổn phận
của chính người nghèo phải tự vươn lên thoát nghèo.

9


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
B.THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XĐGN TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦAVIỆT NAM (1990 - NAY)
I.THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.
1. Về số lượng:
Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế:
Nền kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng liên tục và với tốc độ cao trong suốt
một thời gian dài sau đổi mới. So với các thời kỳ 1976 – 1985 (đạt khoảng 2%/ năm),
1986- 1990 (đạt xấp xỉ 3,9%/ năm), thì tốc độ tăng trưởng bình quân năm thời 19911995 (8,18%), 1996-2000( 6.95%) và 2001-2006 (7,62%) là rất ấn tượng. Tính bình
quân cho cả giai đoạn 1991- 2006 , tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,59%/ năm. Tốc độ
tăng trưởng giai đoạn 2006-2010 là 6,98%. Đó là tốc độ tăng trưởng thuộc loại cao
nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, chỉ thấp hơn Trung Quốc trong
thời gian tương ứng. Hơn thế thời gian tăng trưởng kinh tế liên tục của Việt Nam đã
đạt 28 năm,vượt kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc, và cũng chỉ thua kỷ lục 30 năm của
Trung Quốc đang nắm giữ đến nay.
2. Về chất lượng:
- Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đủ để đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng tụt hậu so với thế giới và khu vực. Nếu so sánh thu nhập giữa Việt Nam và các
nước trong khu vực , chúng ta sẽ nhận thấy khoảng cách phát triển đang dần được thu
hẹp, đặc biệt là khi tính GDP theo PPP. Nếu như năm 1991, GDP bình quân đầu
người của Việt Nam theo PPP chưa bằng ½ của Phillipin hay Inđônêxia, chỉ đạt
khoảng 1/5 của Thái Lan , hơn 1/10 của Malaixia, thì các con số này đã tăng lên đáng
kể sau 17 năm , lần lượt xấp xỉ các mức ¾, 1/3, và 1/5.
- Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên những nhân tố theo chiều rộng:

+ Năng suất lao động xã hội thấp: năng suất lao động xã hội (được đo bằng
GDP theo giá thực tế chia cho tổng số lao động đang làm việc) của nước ta còn thấp
so với ngay cả những nước trong khu vực : năm 2005 mới đạt khoảng 19,7 triệu đồng/
người/ năm, tương đương 1240 USD/người/ năm, thấp hơn nhiều so với các nước
ASEAN (nếu Việt Nam = 1 thì Indonexia= 1,24, Phillipin= 2,68, Thái Lan = 6,15).
+ Tăng trưởng cao nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế ở cả 3 cấp độ (doanh
nghiêp, sản phẩm, quốc gia) còn yếu.
+ Khai thác cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường.

10


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Rõ ràng tăng trưởng cao chỉ là một điều kiện “cần”, nhưng chưa là điều kiện
“đủ”, vì vậy Việt Nam cần phải đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế.
II. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XĐGN Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng và nguyên nhân của đói nghèo.
1.1.
Thực trạng đói nghèo
Nhận thức sâu sắc việc xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa kinh tế - xã hội, chính trị
và nhân văn, Chính phủ Việt Nam luôn cam kết coi việc nâng cao hiệu quả kinh tế xã
hội, hướng tới người nghèo và đẩy lùi nghèo đói là một trong những ưu tiên hàng
đầu,vì vậy, XĐGN là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 tới nay.
a. Tỷ lệ hộ nghèo ở nước ta đã giảm nhanh trong đó thành thị giảm nhanh hơn nông
thôn
Tỷ lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm giảm đáng kể, từ 58,1% nghèo
chung năm 1993, xuống còn 16% năm 2006. Tỷ lệ nghèo thực phẩm từ 24,9%
năm 1993, xuống còn 4,9% năm 2006.


Tỷ lệ nghèo của VN giai đoạn (1993-2006)

Thành thị

199
3

1998

200
2

2004

200
6

2008

25,1

9,2

6,6

3,6

3,9


3,3

Nông thôn
66,4 45,5 35,6 25,0 20,4 18,7
Tỷ lệ nghèo chung ở Việt Nam phân theo khu vực thành thị và nông thôn
11


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

12


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Năm Năm Năm
Năm
Tỉnh / thành phố
200 200 200
2006
3
4
5
11.8
8.0
7.2
Toàn quốc
4.55
9.51
6.47
6

2
2
10.5
10.9
Đồng bằng Sông Hồng
8.84
3.93
5
9
18.4 14.0
26.6
Đông bắc
6.27
1
3
5
22.7
27.2
Bắc trung bộ
17.52
9.28
5
2
18.9
18.8
Duyên Hải Nam trung bộ
13.12
7.59
9
3

17.9
24.3
Tây nguyên
19.17
6.39
5
5
2.0
Đông nam bộ
6.08
7.35
6.63
5
13.4 10.3
14.9
Đồng bằng sông cửu long
5.67
4
3
4
Tỉ lệ nghèo qua các năm ở các khu vực
Năm
2001

Năm
2002

Năm
2007


Năm
2008

Năm
2009

7.67

6.88

4.8
7
9.46

22.13 19.41 16.52
23.67
16.15

14.2
8

20.0
5

15.79 12.45

5.96

3.62


4.84

12.43 9.77

8.91

12.88

Tuy nhiên,số hộ nghèo vẫn còn nhiều và phần lớn ở vùng nông thôn, số hộ ở
cận kề chuẩn nghèo còn đông
Kết quả tổng điều tra hộ nghèo và cận nghèo năm 2010
Hộ nghèo
STT

Tỉnh/Thành phố

3.055.56
6
Miền núi Đông Bắc 581.560
Miền núi Tây Bắc 236.365
Đồng bằng Sông
409.823
Hồng
Khu IV cũ
578.007
Thanh Hóa
217.191
Cả nước

I

II
III
IV

Tổng số

Hộ cận nghèo
Tỷ

Tỷ lệ

Tổng số

14,20

1.612.381

7,53

24,62
39,16

227.496
80.118

9,68
13,27

8,30


261.586

5,30

22,68
24,86

343.370
120.887

13,47
13,84

lệ

13


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Nghệ An
167.499
23,35
Duyên hải miền
V
333.250
17,27
Trung
VI
Tây nguyên
262.879

22,48
VII Đông Nam Bộ
77.802
2,11
VII
ĐB sông Cửu Long 575.880
13,48
I
Theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và Xã hội

92.395

12,88

208.833

10,82

87.860
81.213

7,51
2,20

321.905

7,53

- Tính đến tháng 12-2004, trên địa bàn cả nước có 2 tỉnh và thành phố cơ bản
không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn; có 18 tỉnh tỷ lệ nghèo chiếm 3-5%; 24 tỉnh có

tỷ lệ nghèo chiếm 5-10%...
- Theo chuẩn nghèo của chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu năm 2000
có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả nước, chủ yếu tập
trung vào các vùng nông thôn. Các vùng nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỷ lệ nghèo cao hơn con số trung bình này nhiều.
Có tới 64% số người nghèo tập trung ở vùng núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây
Nguyên và Duyên hải miền trung. Cũng theo chuẩn nghèo quốc gia năm 2002 còn
12,9% hộ nghèo và tỷ lệ nghèo lương thực ước lượng 10.87%.
-Theo Tổng cục Thống kê, với mức chuẩn được áp dụng giai đoạn 2011- 2015, dự
kiến số hộ nghèo của cả nước sẽ tăng từ 2 triệu (10%) năm 2010 lên 3,3 triệu
(15%) vào năm 2011.
b.Mức chênh lệch nghèo:
Mức chênh lệch nghèo, số liệu chênh lệnh nghèo cho thấy mức độ trầm trọng của đói
nghèo của Việt Nam đang giảm nhưng với tốc độ chậm dần, từ 18,5% năm
1993xuống 9,5% năm 1998 và 6,9% năm 2002.
Khoảng cách chênh lệch nghèo thời kỳ 1993 – 2002 (%)
1993
1998
Cả nước
18,5
9,5
Thành thị
6,4
1,7
Nông thôn
21,5
11,8
Nguồn: Báo cáo phát triển, 2003 và tổng cục thống kê, 2005
c. Chi tiêu thực tế của hộ gia đình


2002
6,9
1,3
8,7

14


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Chi tiêu thực tế của hộ gia đình thời kỳ 2003-2004 tăng 12,1%; cao hơn mức
7,4%/năm thời kỳ 1993-1998 và 4% thời kỳ 1998-2002.
Tuy tiêu dùng của người dân nói chung và của người nghèo nói riêng đều tăng
lên, nhưng chênh lệch về thu nhập và phân hoá giàu - nghèo trong dân cư thời kỳ
2003-2004 cũng tiếp tục gia tăng so với các năm trước. So sánh 20% số hộ có mức
thu nhập cao nhất với 20% số hộ có thu nhập thấp nhất thì hệ số chênh lệch năm 1996
là 4,3 lần, năm 2002 là 8,14 lần.
Tỷ trọng mức chi tiêu của nhóm 20% dân số nghèo nhất so với quốc gia.
Năm
1993
1998
2002
Tỷ trọng mức chi tiêu của nhóm
20% dân số nghèo nhất so với quốc 8,4
8,2
7,8
gia (%)
Nguồn: Báo cáo phát triển, 2003 và tổng cục thống kê, 2005
Bảng 4 cho thấy, tỷ trọng về mức chi tiêu của nhóm 20% dân số nghèo nhất so
với quốc gia không những chưa được cải thiện mà còn đang giảm dần. Nếu trong 5
năm từ 1993 đến 1998, tỷ trọng này chỉ giảm 0,2 điểm phần trăm thì 4 năm tiếp theo

tỷ trọng này tiếp tục giảm 0,4 điểm phần trăm.
Tuy vậy, những thành tựu về XĐGN vẫn chưa vững chắc, Việt Nam vẫn là
nước nghèo. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người nằm ngay cận trên của
chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bi tổn thương của những hộ này đối với những
đột biến bất lợi (bệnh tật, mất mùa, đầu tư thua lỗ, giá nông sản chính sụt giảm, thiên
tai, việc làm không ổn định) còn lớn, khẳ năng tái nghèo còn cao. Ước tính khoảng 510% dân số Việt Nam vẫn nằm trong diện dễ bị rơi vào vòng đói nghèo.
d.Sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực, giữa các vùng kinh tế và giữa các đơn vị
hành chính:
Tỷ lệ nghèo chung ở Việt Nam phân theo một số tiêu chí(*): (%)

Toàn quốc

199
3

1998

200
2

2004

200
6

2008

58,1

34,7


28,9

19,5

16,0

14,5

64,5

47,9

38,3

32,3

31,6

Trung du và miền núi phía Bắc
Đông Bắc

86,1
15


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Tây Bắc

81,0


Đồng bắng sông Hồng

62,7

Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung

30,7

21,5

11,8

8,9

8,0

42,5

35,7

25,9

22,3

18,4

Bắc Trung Bộ


74,5

Duyên hải Nam Trung Bộ

47,2

Tây Nguyên

70,0

52,4

51,8

33,1

28,6

24,1

Đông Nam Bộ

37,0

7,6

8,2

3,6


3,8

2,3

Đồng bằng sông Cửu Long

47,1

36,9

23,4

15,9

10,3

12,3

(*) tỷ lệ nghèo ở đây được tính theo mức chi tiêu bình quân 1 người 1 tháng,
sử dụng chuẩn nghèo chung của Tổng cục thống kê và Ngân hàng Thế giới
( tỷ lệ dân số sống dưới ngưỡng 1USD/ ngày) cho các năm như sau: 1998:
149.000 VND, 2002: 160.000 VND, 2004: 173.000 VND, 2006: 213.000
VND. (Nguồn Tổng cục Thống kê (2004, 2006, 2008, 2009)
Nhận xét: + Giữa các vùng: tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp
từ 1,7 đến 2 lần tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước.
+Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả
nước có chiều hướng tăng từ 21% năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập
trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh
mún, sơ khai.

+ Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hóa và
nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn và phải chấp
nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia
tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các
vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh
nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.

16


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
2. Nguyên nhân đói nghèo
Đánh giá kết quả chương trình XĐGN trước hết cần khái quát những vấn đề
kinh tế xã hội có liên quan tác động đến vấn đề nghèo đói. Việt Nam cũng như các
nước trên thế giới nghèo đói xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng có thể quy tụ
thành 3 nhóm nguyên nhân chính đó là:
2.1. Nhóm nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội
Thiên nhiên khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, đặc biệt là bảo, lũ, hạn
hán, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Trung bình 10 cơn
bão, lụt một năm, hạn hán và tình trạng thiếu nước thường xuyên xảy ra ở nhiều vùng
đã là nguyên nhân cơ bản làm khoảng 1- 2 triệu người thiếu đói hàng năm (theo Hôi
thảo “ Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi từ 1991 đến nay-Kinh nghiệm của các nước ASEAN” - Tháng 8/2000). Tình trạng
cắt cứ do địa hình phức tạp (vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, hải đảo), cơ sơ hạ tầng
(giao thông, điện, nước, trạm y tế,... ), thị trường (lao động, vốn, hàng hoá) kém phát
triển; nhiều khu vực dân cư bị tách biệt là những nhân tố khách quan tác động đến vấn
đề đói nghèo.
2.2. Nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan của người nghèo.
Nhìn chung nước ta vẫn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người
thấp. Trình độ dân chí thấp, phong tục tập quán lạc hậu, vấn đề sức khoẻ cộng đồng

chưa đảm bảo tốt, tình trạng di dân tự do là những nguyên nhân tác đông đến cả một
cộng đồng dân cư. Đông con, thiếu lao động, thiếu đất, thiếu vốn, không có kiến thức
làm ăn đã và đang là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nghèo đói đối với nhiều hộ
gia đình.
2.3. Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách.
Việc xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ thị trương là đúng đắn và cần thiết,
nhưng nhiều nơi đầu tư cung cấp phúc lợi giảm sút; không đảm bảo đầy đủ các dịch
vụ xã hội cơ bản mà đặc biệt là các xã vùng sâu, cùng xa, miền núi gây khó khăn cho
dân cư tiếp cận các dịch vụ như: Khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, giao thông, thuỷ
lợi khoa học công nghệ, thông tin, văn hoá xã hội... làm hạn chế sự phát triển chung
của cộng đồng, những hạn chế này đang dần được quan tâm giải quyết, tuy vậy đánh
giá hiện tại đang là một trong những nguyên nhân gây nghèo đói khu vực. Việc đầu tư
dàn trải, chưa chú ý đến các vùng chưa phát triển hoặc chậm phát triển. Cơ cấu kinh tế
cũng chậm được chuyển đổi, nhất là trong nông thôn, ngành nghề không vào được,
ruộng đất bình quân đầu người lại thấp, do đó quỹ lao động dôi ra rất lớn (khoảng
17


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
35%). Người nghèo đã ít ruộng đất lại không có nghề phụ nên không có cơ hội thoát
ra khỏi cảnh đói, nghèo.
3. Những tiến bộ về xã hội và XĐGN.
3.1. Tỷ lệ hộ nghèo giảm:
Theo chuẩn nghèo quốc gia đến cuối năm 2004, cả nước có 1,4 triệu hộ nghèo
và tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn khoảng 8,3% (năm 2003 có 1,7 triệu hộ nghèo và tỷ
lệ gần 11%), bình quân mỗi năm giảm trên 2%.
Cả nước có 36 tỉnh có tỷ lệ nghèo dưới 10%, trong đó có 12 tỉnh tỷ lệ nghèo
dưới 5% (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Tây
Ninh, Cần Thơ, Long An, An Giang, Hưng Yên, Quảng Ninh); có 4 tỉnh có tỷ lệ hộ
nghèo trên 20% (Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Sóc Trăng).

Tỷ lệ giảm nghèo giảm nhanh trong cả nước, trong đó các vùng có tỷ lệ hộ
nghèo cao có xu hướng giảm nhanh hơn các vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp.
Trên 230 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở, trên 10 nghìn hộ nghèo dân tộc
thiểu số được hỗ trợ về đất sản xuất, tỷ lệ hộ nghèo được sử dụng nước sạch, sử dụng
điện được nâng cao, hàng vạn hộ di dân được trợ giúp ổn định cuộc sống, tình trạng di
dân phá rừng làm nương rẫy giảm đi trong mấy năm gần đây
3.2. Đời sống dân cư tiếp tục được cải thiện
+ Mức tiêu dùng bình quân tăng từ 2,6 triệu đồng/người/năm (1995) lên4,3 triệu
đồng/người/năm (2001).
+ Thu nhập bình quân đầu người nước ta từ 220USD/người/năm trong đầu những
năm 90 của thế kỷ XX đã tăng lên 400USD/người/năm (2000), tăng 1,8 lần,
483USD/người/năm (2003) và 580 USD/người/năm (2004). - Theo đánh giá của
WB thì tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giữa những năm 80 là 51% giảm xuống 37%
cuối những năm 90 của thế kỷ XX, được xếp vào nước có tỷ lệ đói nghèo giảm
nhanh. Còn theo chuẩn của Việt Nam thì tỷ lệ hộ nghèo đói ở nước ta từ 30,1%
năm 1992 xuống 11% năm 2000 và theo chuẩn mới thì năm 2002 còn 17,2%, đến
năm 2004 giảm xuống còn 8,3%
3.3. Về giáo dục - đào tạo và y tế.
Về giáo dục - đào tạo:
Việt Nam được công nhận là nước đạt chuẩn xóa mù chữ, phổ cập tiểu học.
Đầu tư cho giáo dục trong tổng đầu tư ngân sách năm 2000 là 15% và năm 2003 là
trên 16%. Tính đến hết năm 2003, có tới 19 tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập
trung học cơ sở.
18


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Quy mô giáo dục giáo dục phổ thông tiếp tục tăng, giáo dục bậc tiểu học đi vào
phát triển ổn định.
Đã có nhiều cồ gắng tìm tòi cải thiện chất lượng và hiệu quả giáo dục.

Về cơ cấu ngành đào tạo, nhóm ngành công nghệ - kỹ thuật đang tăng, đặc biệt
là công nghệ thông tin đang tăng với tốc độ nhanh, nhóm ngành sư phạm có xu hướng
giảm. Tuy nhiên tỷ trọng đào tạo trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ trên dưới
10%, cần đẩy manh hơn nữa.
Giáo dục đã đạt được những thành tựu nổi bật, cơ bản đạt chuẩn xoá mù chữ và
đạt chuẩn phổ cập tiểu học; đã hình thành hệ thống giáo dục từ mần non đến trung học
cơ sở tại các xã, trung tâm cụm xã, tỷ lệ trẻ em đến trường tử 90 – 95%, tỷ lệ lên lớp
tốt nghiệp đã đạt gần mức tương đương cả nước.
Về y tế:
Hiện nay nước ta có 97,5% số xã có trạm y tế, trên 40% cơ sở y tế xã có bác sỹ,
có 80% số thôn, bản có nhân viên y tế cộng đồng, 95% trẻ dưới 5 tuổi được tiêm
chủng mở rộng.
Bảng 3: Một số chỉ tiêu về hệ thống y tế tại Việt Nam, 1995- 2008
1995

2000

2008

2009

Số cơ sở khám chữa bệnh công lập

12,970

13,117

13,460

13,450


Số giường bệnh tính trên 1 vạn dân

26,7

24,7

25,5

27,1

Số bác sĩ tính bình quân trên 1 vạn dân 4,3
5,0
6,6
7,1
+ Giảm nhanh tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (đến nay còn 25%) (năm 1995
là 38%).
+ Năm 1996, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ dưới 5 tuổi ngang với Thái Lan là
nước có GDP cao hơn nước ta nhiều lần.
+ Tuổi thọ trung bình tăng từ 66 tuổi (1989) lên 68 tuổi (1999) và 69 tuổi (2003),
năm 2005 đạt 71,3 tuổi.
+Tỷ lệ tăng dân số từ 2% đầu thập niên 90 của thế kỷ trước giảm xuống 1,32%
năm 2002.
Hệ thống y tế đã được phát triển đa dạng với nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo
cơ hội cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phủ hợp. Các dịch vụ khám chữa
bệnh tại cơ sở y tế công lập như trạm y tế, phòng khám đa khoa khu vực, các trung

19



Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
tâm y tế huyện đã được củng cố nâng cao khẳ năng tiếp cận của người dân đối với cơ
sở y tế.
Số lượng đối tượng được hưởng thụ dịch vụ khám chữa bệnh tăng lên rõ rệt, tỷ
lệ đối tượng thụ hưởng do với dân số cao nhất tại Tây nguyên, Miền Núi phía Bắc và
một số tỉnh khác.
Kinh phí chữa bệnh cho người nghèo được cải thiện. Năm 2003, quy khám
chữa bệnh người nghèo trong cả nước là 520 tỷ đồng trong đó có 125 tỷ đồng dành
cho các tỉnh miền núi phía Bắc, 114 tỷ đồng dành cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long, 79 tỷ đông dành cho các tỉnh Bẳc trung Bộ và 73 tỷ đồng dành cho các tỉnh Tây
Nguyên.
3.4. Về lao động - việc làm
Từ năm 1996 đến nay, có hàng nghìn tỉ đồng của Nhà nước và nhân dân tham
gia nhằm giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 9% - 10% (1990) xuống 6,5%
(2000). Trong 3 năm 2001 - 2003, đã giải quyết việc làm cho 4,3 triệu người, trong
đó, nông nghiệp 2,6 triệu, công nghiệp 90 vạn và dịch vụ khoảng 76 vạn.Năm 2004,
đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu lao động, đạt 103% kế hoạch đề ra, riêng Quỹ
quốc gia hỗ trợ việc làm đã giải quyết cho 35 vạn lao động.
3.5. Đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội các vùng đồng bào dân tộcthiểu số.
Chỉ riêng ngân sách nhà nước chi cho các chương trình quốc gia liên quan đến
mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã chiếm trên 21 tỉ đồng. Nguồn quỹ tín dụng giúp hộ
nghèo vay vốn lãi suất thấp được mở rộng. Ngân hàng phục vụ người nghèo đến cuối
năm 1999 đã huy động được 4.078 tỉ đồng. Tổng dư nợ đạt 3.503 tỉ đồng, đã cho
2.170.000 hộ vay, bình quân mỗi hộ vay 1,56 triệu đồng.
+ Có hàng trăm chương trình, dự án với hơn 40 tỉ đồng giúp hộ nghèo, huyện
nghèo, xã nghèo. Theo đánh giá của Liên hợp quốc thì Việt Nam đã giảm được 1/2 tỷ
lệ đói nghèo trong thập niên vừa qua.
+ Tình hình phát triển kinh tế - xã hội các xã vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số đã có nhiều tiến bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở nhiều
vùng đồng bào dân tộc được cải thiện, công tác XĐGN đạt được nhiều kết quả to lớn.

Mặt bằng dân trí đã được nâng lên. Văn hoá phát triển phong phú hơn, văn hoá truyền
thống các dân tộc được tôn trọng giữ gìn và phát huy.
Tuy nhiên đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ
tầng ở các vùng sâu, cùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người còn yếu kém, việc tiếp
cận với các dịch vụ cơ bản như y tế, giáo dục, văn hoá... cũng như các tiến bộ kỹ
thuật và thông tin phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân còn hạn chế.
20


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Trình độ dân trí của người dân vùng dân tộc thiểu số còn thấp, tập quán sản xuất lạc
hậu vì vậy đã cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các vùng này.
3.6. Trợ cấp xã hội:
Nước ta đã xây dựng được quỹ trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất. Hàng
năm, có từ 1 triệu đến 1,5 triệu người (gồm người già neo đơn, trẻ mồ côi, người tàn
tật, trẻ lang thang hoặc các gia đình bị thiên tai) được cứu tế. Riêng năm 1999 và 2000
nhờ quỹ trợ cấp đột xuất, hàng triệu hộ được cứu trợ do bị lũ lụt ở miền Trung và
Nam Bộ.
3.7. Công tác văn hoá, thông tin
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hệ thống thông tin cũng ngày càng được
phát triển theo hướng hiện đại và đa dạng, nhờ vậy người dân có nhiều cơ hội tiếp cận
với các thông tin, đặc biệt là các thông tin liên quan trực tiếp tới lơi ích của họ; các
thông tin về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước
hơn; cách làm ăn, cách phát triển kinh tế từ đó biết cách mà thoát nghèo, tham gia tích
cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
4. Những thách thức cần phải giải quyết
- Một là nền kinh tế nước ta đã có tốc độ tăng trưởng khá cao trong thời gian
qua, song chất lượng tăng trưởng chưa cao, chưa khai thác hết tiềm năng khai thác hết
tiềm năng kinh tế của đất nước.
- Hai là, việc làm thất nghiệp, chất lượng lao động luôn là vấn đề nan giải của

quốc gia, nhất là đối với các nước có xuất phát điểm thấp như nước
- Ba là, mâu thuẫn về thu nhập là mâu thuẫn cố hữu của nền kinh tế hàng hóa.
Bởi vì người chủ sở hữu tư liệu sản xuất thường có thu nhập ngày càng cao, thu nhập
của người lao động thì ít thay đổi làm cho khoảng cách giữa giới chủ và người lao
động ngày càng lớn.
- Bốn là, giáo dục và chăm sóc y tế không dược nhà nước bao cấp hoàn toàn
như cơ chế cũ , nên người nghèo không đủ tiền chữa bệnh, con em người nghèo phải
bỏ học vì không có tiền đóng học phí. Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng năng lực của
người lao động không có trình độ văn hóa chuyên môn nghiệp vụ sức khỏe kém sẽ
không đáp ứng nhu cầu của phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và từng bước chuyển sang nền kinh tế tri thức.
- Năm là, sự chênh lệch về mức sống vật chất và tinh thần giữa các vùng nông
thôn , thành thị, vùng dồng bằng, miền núi và giữa các tầng lớp dân cư sẽ ngày một
lớn hơn, sự bất bình đẳng sẽ cao hơn.
21


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
III. ẢNH HƯỞNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐẾN XĐGN.
Theo nhận xét của WB, các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao đã thành công
trong việc giảm tỷ lệ nghèo đói. Trong thế kỷ qua, thu nhập thực tế bình quân đầu
người của các nước Tây Âu đã tăng lên gấp 10 lần, ở Trung Quốc là 4 lần, Nam Á là
3 lần. Do đó người nghèo (sống dưới mức 1USD/ngày ) gần như là không có tại các
nước Tây Âu. Ở Trung Quốc, số người nghèo cao hơn( chiếm 20% dân số), còn ở
Nam Á, con số này lớn gấp 2 lần. Châu Phi, nơi có GDP bình quân đầu người không
tăng lên từ thập kỉ 1960 đến nay đã có tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo đói
tuyệt đối là cao nhất so với tất cả các khu vực khác trên thế giới.
Từ năm 2001 đến 2005, Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã
đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Nhờ tăng trưỏng
GDP toàn nền kinh tế cao (bình quân 5 năm đạt 7,5%), tăng dần qua các năm và

trong tất cả các nhóm ngành kinh tế cơ bản nên tốc độ giảm nghèo trong giai đoạn
2001 - 2005 là khá nhanh. Theo kết quả các đợt điều tra mức sống dân cư toàn
quốc, theo tiêu chuẩn quốc tế, nếu năm 1998 tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam vẫn
còn ở mức 37% và năm 2000 giảm còn 32%, thì năm 2002 còn 28,9% và năm
2004 còn 24,1%. Như vậy, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở
Việt Nam đã được thể hiện rõ nét trong những năm vừa qua.
Tính theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ nghèo chung cả nước trong 5 năm 2001 2005 đã giảm được hơn một nửa. Nếu so với mục tiêu giảm 20% đã được ghi trong
văn bản Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo cho giai đoạn 2001 2005, thì chúng ta đã đạt được kết quả hơn gấp đôi. Đó là một thành tựu lớn. Vùng
giảm nghèo đói mạnh nhất là Đông Nam Bộ, từ 8,88% xuống 1,7 %, tức là giảm
tới 5,2 lần; các vùng còn lại giảm tương đối đồng đều từ 50% đến 60%. Vùng còn
có tỷ lệ nghèo trên 10% là Tây Bắc (12%), Tây Nguyên (11%) và Bắc Trung Bộ
(10,5%).
1. Tăng trưởng kinh tế tăng thu nhập, nâng cao mức sống của đại bộ phận
dân cư, tăng số lượng người giàu, giảm số lượng người nghèo.
Nhờ có thành quả của tăng trưởng kinh tế, đời sống vật chất tinh thần của đại
bộ phận nhân dân được nâng lên đáng kể. Cho đên nay không còn cảnh thiếu ăn, trẻ
em không được đến trường ốm đau được chăm sóc sức khoẻ. Bộ mặt kinh tế xã hội
nông thôn, miền núi đổi thay, tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh. Tốc độ nghèo đói giảm do
Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách ưu tiên cho các vùng nghèo.
22


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Nhưng nhìn tổng thể việc giảm có nguyên nhân xuất phát từ những thành quả phát
triển và tăng trưởng kinh tế.
Trong thời gian qua, nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách có hiệu quả, công
cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 10 năm 1991-2000 khá cao, tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng bình quân 7,5%, trong đó giai đoạn giữa hai cuộc điều tra
mức sống dân cư (năm 1992-1993 và năm 1997-1998) tăng trưởng bình quân

8,4%. Nhờ tăng trưởng kinh tế nhanh, công cuộc xóa đói giảm nghèo đã đạt nhiều
kết quả to lớn. Sau 10 năm, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia đã giảm 2/3 so với
năm 1990, tính theo chuẩn quốc tế (1) tỷ lệ hộ nghèo giảm một nửa. Do vậy Việt
Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói
nghèo tốt nhất.
Ví dụ: Tỷ lệ hộ nghèo đói ở Việt Nam giai đoạn 1992-2004

Nguồn: Vụ BTXH, Bộ Lao Động Thương Binh & Xã hội tháng 12 hàng năm
2. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm tăng mức độ nghèo tương đối của nhóm
người nghèo và gia tăng bất bình đẳng.
Nếu tính chung các chỉ số về phân hoá giàu nghèo như chỉ số GINI, chỉ số 40%
thì đều cho kết quả là tăng về mức độ bất bình đẳng trong thu nhập. Chỉ số GINI tăng
từ 0,34 thời kỳ 1992-1993 lên 0,37 năm 2002.
Như vậy, sự bất bình đẳng ở nước ta mặc dù còn ở mức thấp, mức an toàn cho
phép. Nhưng về số tuyệt đối đang có xu hướng gia tăng cùng với tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Chỉ số này cho thấy có khía cạnh liên quan giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề
bình đẳng, phân hoá giàu nghèo.

23


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Xét theo tỷ trọng tiêu chuẩn 40% của Việt Nam cũng cho kết quả có xu hướng
giảm, tất nhiên vẫn ở mức độ cho phép là 12%. Tỷ trọng này ở nước ta năm 1994 là
20%; năm 1995 là 21,1%; năm 1996 là 20,1%; năm 1999 là 18,7%; năm 2001-2002 là
19%. Theo tiêu chuẩn này ở nước ta phân bố thu nhập của dân cư là tương đối bình
đẳng nhưng đang có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên hiện tại vẫn đảm bảo mức độ cho
phép, mức độ an toàn để tiếp tục tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3. Thực hiện đầu tư giải quyết vấn đề XĐGN là giải pháp đầu tư cho tăng
trưởng và phát triển.

Thực hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã;
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với XĐGN coi việc một bộ phận dân cư giàu
trước là cần thiết cho sự phát triển. Thực hiện đồng bộ các chính sách và giải pháp trợ
giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn về cơ sở hạ tâng, tín dụng, đất
sản xuất, khuyến nông - lâm - ngư, y tế giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, phát triển
ngành nghề, nhà ở ...XĐGN được thực hiện theo phương châm xã hội hoá cao từ đó
phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, lôi cuốn được các tổ chức chính trị
- xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện, các doanh nghiệp các tầng lớp dân cư,
các nhà hảo tâm và chính hộ nghèo, xã nghèo tham gia. Nhà nước đã hình thành được
chương trình quốc gia về XĐGN với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp Uỷ đảng, Chính
quyền ưu tiên tập trung nguồn lực cho vùng khó khăn nhất (vùng núi cao, vùng sâu,
vùng Biên giới, Hải đảo), đối tượng khó khăn nhất (hộ nghèo chính sách, hộ nghèo
dân tộc thiểu số...) Chính vì vậy mà bộ mặt các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo được
cải thiện đáng kể; được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao và coi là một điểm sáng về
XĐGN trong thập kỷ vừa qua. Chính nhờ thành tựu của đổi mới và XĐGN mà nước
ta tạo lập được vị thế mới trên trường quốc tế và thu hút được các nhà tài trợ đẩy
mạnh hợp tác và ủng hộ.
C. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO.
I. Phương hướng cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm
nghèo
1. Quan niệm của Đảng về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Theo “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI”, mục tiêu chiến lược,
mục tiêu tổng quát: phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận;
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền,
24


Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

thống nhất và toàn diện lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai
đoạn sau.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI có nêu rõ: Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới
mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo
chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng,
hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững,nâng cao tính độc
lập, tự chủ của nền kinh tế; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng
bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung
giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức
khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên
tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Đảng ta có quan niệm là giải phóng sức lao động toàn xã hội, khuyến khích mọi
thành viên xã hội năng động, sáng tạo sản xuất ra nhiều của cải, thúc đẩy tăng trưởng
và sử dụng nhiều hình thức phân phối, song phân phối theo lao động vẫn là chủ yếu.
Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích vấn
đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất
công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh phúc và
cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công
xã hội.Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm
nghèo, có chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên và phấn đấu trở thành
khá giả.
Thực hiện chủ trương và quan điểm nói trên của Ðảng, Quốc hội và Chính phủ
đã thể chế hóa thành hệ thống chính sách, luật pháp, các chương trình, dự án, kế

hoạch cụ thể để đưa vào cuộc sống và đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Tuy nhiên về mặt xã hội cũng đã bộc lộ những hạn chế của quá trình
phát triển. Những năm gần đây tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tình trạng
tái nghèo còn nhiều, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng thường bị thiên tai, dịch bệnh, và trong mấy năm gần đây lại chịu tác động
25


×