ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
===================
PHẠM THỊ HIỀN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA TRONG LĨNH VỰC
LAO ĐỘNG (QUA THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
===================
PHẠM THỊ HIỀN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA
TRONG LĨNH VỰCLAO ĐỘNG
(QUA THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH)
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Giảng viên hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Hoàng Anh
Hà Nội, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Hiền
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THANH TRA ................................................................................................... 7
TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG ................................................................ 7
1.1. Thanh tra và pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động ............. 7
1.1.1. Thanh tra ................................................................................................ 7
1.1.2. Thanh tra trong lĩnh vực lao động (Thanh tra Lao động – TB&XH)18
1.1.3. Pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động.................................. 25
1.2. Thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động ................ 29
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động29
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động 30
1.2.3. Hình thức, nội dung của thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động.................................................................................................... 34
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THANH TRA TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG (QUA THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH) .................................................................................. 46
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh tỉnh Quảng
Ninh ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao
động................................................................................................................. 46
2.1.1. Điều kiện tự nhiên................................................................................ 46
4
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng ................................... 48
2.2. Thực trạng tình hình thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực
lao động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ...................................................... 49
2.2.1. Thực trạng chủ thể thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực
lao động........................................................................................................... 49
2.2.2. Đối tượng thanh tra việc thực hiện PLLĐ tại các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh ............................................................................... 55
2.2.3. Các hoạt động thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao
động tại Quảng Ninh...................................................................................... 56
2.2.4. Hình thức thanh tra ............................................................................. 73
2.2.5. Nội dung thực hiện pháp luật thanh tra trong lĩnh vực lao động ..... 74
2.3. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực
lao động tại Quảng Ninh ............................................................................... 83
2.3.1. Những ưu điểm và nguyên nhân......................................................... 83
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân: ........................................................ 84
2.3.3. Bài học kinh nghiệm từ thực tế thanh tra việc thực hiện pháp luật lao
động trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .............................................................. 92
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 96
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG ...... 97
3.1. Yêu cầu thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................... 97
3.1.1. Thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động đáp ứng
yêu cầu cấp bách của phát triển kinh tế - quản lý xã hội ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................... 97
3.1.2. Thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động xuất phát
từ yêu cầu tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế .................................. 98
5
3.1.3. Thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động xuất phát
từ yêu cầu khắc phục những bất cập về thanh tra trong lĩnh vực lao động98
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 99
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện về nội dung và hình thức của pháp luật về
thanh tra trong lĩnh vực lao động ................................................................. 99
3.2.2. Giải pháp tăng cường cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thanh tra về lao
động................................................................................................................ 100
3.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra ............. 105
3.2.4. Các giải pháp khác ............................................................................. 106
Kết luận Chƣơng 3 ...................................................................................... 108
KẾT LUẬN .................................................................................................. 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................... 110
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ :
AT-VSLĐ
An toàn – Vệ sinh lao động
BLLĐ
Bộ luật lao động
HĐLĐ
Hợp đồng lao động
KTXH
Kinh tế xã hội
NLĐ
Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
Lao động – TB&XH
Lao động –Thương binh và Xã hội
UBND
Uỷ ban nhân dân
TNLĐ
Tai nạn lao động
PLLĐ
QLNN
Pháp luật lao động
Quản lý nhà nước
7
Phần I
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của cải
vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng
và hiệu quả là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy,
không một quốc gia nào trên thế giới từ bỏ quyền quản lý lao động của mình.
Thanh tra việc thực hiện pháp luật về lao động cũng làm một trong các hình
thức quản lý lao động của nhà nước.
Trong mối quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ, thế yếu thường
thuộc về NLĐ. Người sử dụng lao động vì lợi ích kinh tế, luôn có xu hướng
vi phạm PLLĐ, xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người lao động
được pháp luật bảo vệ. Một thực tế đáng lo ngại là tình hình vi phạm PLLĐ
ngày càng phức tạp; TNLĐ, bệnh nghề nghiệp tiếp tục tăng, có xu hướng mở
rộng đối tượng, thậm chí có nhiều vụ TNLĐ nghiêm trọng, làm chết nhiều
người. Vì vậy, thanh tra lao động phải đóng vai trò chủ chốt trong việc xây
dựng ý thức về công bằng và gắn kết xã hội, đảm bảo PLLĐ được thực thi
nghiêm túc
Quảng Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, là tỉnh
công nghiệp – dịch vụ, du lịch và có tỷ lệ lao động tăng hàng năm cao so với
dân số (lực lượng lao động chiếm tới 54% dân số). Cùng với sự phát triển
kinh tế xã hội, số lượng doanh nghiệp phát triển và tăng nhanh, nhất là những
năm gần đây, mỗi năm có từ 350 đến 400 doanh nghiệp mới được thành lập,
thu hút từ 1,7 vạn – 1,9 vạn lao động vào làm việc.
Năm 2010 toàn tỉnh Quảng Ninh có 3.477 doanh nghiệp, trong đó có
doanh nghiệp nhà nước chiếm 2,68%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1
chiếm 2,47%, doanh nghiệp tư nhân chiếm 94,85%. Đến tháng 6 năm 2015,
tổng số doanh nghiệp đăng ký trong tỉnh là 10.809 đơn vị, số doanh nghiệp
đang hoạt động là 7.210 đơn vị; trong đó, doanh nghiệp nhà nước chiếm
1,01%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 0,96%, ngoài ra còn có
hàng ngàn cơ sở, tổ chức ngoài công lập (tư nhân, hộ gia đình …) có thuê
mướn, sử dụng lao động.
Bên cạnh các doanh nghiệp đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của
PLLĐ vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa thực hiện đúng, thậm chí cố tình
vi phạm PLLĐ: không ký HĐLĐ, ký HĐLĐ không đúng loại; trả lương
không đúng quy định; vi phạm các quy định về ATLĐ, VSLĐ…...
Với đặc thù là tỉnh công nghiệp, nhiều doanh nghiệp khai thác khoáng
sản nên tình hình TNLĐ có nhiều diễn biến phức tạp. Năm 2012, Quảng Ninh
có 454 vụ tai nạn lao động với 515 người bị nạn; 33 vụ tai nạn lao động làm
chết 39 người; 273 người bị thương nặng. So với năm 2011, tuy có giảm 30
vụ tai nạn lao động nhưng lại tăng 11 vụ tai nạn chết người, tăng số người
chết là 14 người. Năm 2012, Quảng Ninh là tỉnh thứ hai trên toàn quốc (sau
TP Hồ Chí Ninh ) về số vụ tai nạn lao động làm chết người. Năm 2013, Quảng
Ninh xảy ra 528 vụ tai nạn lao động; trong đó có 32 vụ tai nạn lao động làm chết
36 người. So với năm 2012, tổng số vụ tai nạn lao động tăng 74 vụ; tổng số nạn
nhân tăng 22 người; số vụ tai nạn lao động chết người giảm 01 vụ; số người chết
giảm 3 người; số người bị thương nặng tăng 25 người.
Trong những năm vừa qua, Thanh tra ngành Lao động – TB&XH nói
chung và Thanh tra Sở Lao động – TB&XH tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều cố
gắng trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động.
Hằng năm, Thanh tra Sở đã tiến hành thanh tra thường xuyên, thanh tra đột
xuất, đặc biệt quan tâm đến việc thanh tra các doanh nghiệp có nguy cơ mất
ATLĐ như khai thác, chế biến, kinh doanh than, sản suất vật liệu xây dựng.
2
Tuy nhiên, kết quả hoạt động thực tiễn cho thấy hoạt động thanh tra việc thực
hiện pháp luật trong lĩnh vực lao động chưa phát huy hết hiệu lực và hiệu quả,
mục đích đạt được còn hạn chế.
Trước đòi hỏi ngày càng cao của nhu cầu quản lý nhà nước và sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trước đòi hỏi của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế, trước yêu cầu nâng cao hiệu quả thanh tra lao động
nói riêng và thanh tra nói chung; trong đó, hoàn thiện pháp luật về thanh tra trong
lĩnh vực lao động là vấn đề đặt ra cấp thiết. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài:
“Thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động (qua thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh)” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
công trình nghiên cứu, đề tài khoa học và bài viết liên quan đến thanh tra
ngành Lao động –TB&XH. Các luận văn, công trình nghiên cứu trên tập
trung nghiên cứu vào các quy định của pháp luật về thanh tra lao động TB&XH ; tổ chức bộ máy của ngành lao động – TB&XH ; các nội dung đã
nghiên cứu mang tính vĩ mô, tổng thể, khái quát. Tiêu biểu: Luận văn thạc sĩ
Luật học “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao động – TB&XH - Thực
trạng và giải pháp” của Nguyễn Thị Hồng Điệp năm 2009; Luận văn thạc sĩ
Luật học “Thanh tra lao động theo pháp luật Việt Nam” của Đỗ Thị Thu Hiền
năm 2010; Luận án tiến sĩ Luật học “Quản lý Nhà nước về lao động trong các
doanh nghiệp ở Việt Nam” của Vũ Minh Tiến năm 2011.Có một số bài viết
trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến thực hiện thanh tra PLLĐ: bài
viết “Vai trò của thanh tra lao động trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp” của Tiến sĩ Bùi Sỹ Lợi đăng trên Tạp chí Lao động và Xã
hội năm 2006. Ngoài ra còn có nhiều bài viết trên các báo, tạp chí và trang
website của ngành Lao động – TB&XH cũng phản ánh về vấn đề này.
3
Đó là những thành quả nghiên cứu lý luận chung đóng góp ở mức độ
khác nhau vào QLNN về lao động nói chung và thực hiện pháp luật về thanh
tra trong lĩnh vực lao động nói riêng. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động tại
Quảng Ninh – địa bàn nổi bật về công nghiệp, dịch vụ. Đây là đề tài đầu tiên
nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về vấn đề này trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát là tổng hợp các quy định của pháp luật về thanh tra,
thanh tra PLLĐ; phân tích, đánh giá được thực trạng việc thực hiện pháp luật
về thanh tra trong lĩnh vực lao động tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn hiện
nay; đề xuất một số giải pháp để thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động tốt hơn.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động;
- Phân tích, đánh giá thực trạng; xác định ưu, nhược điểm và những vấn
đề đặt ra trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động –
qua thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
- Đưa ra những giải pháp để bảo đảm thực hiện và tiếp tục nâng cao
chất lượng việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động nói
chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các văn bản luật về thanh tra, thanh
tra PLLĐ của Việt Nam; thực trạng việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong
lĩnh vực lao động của Thanh tra Sở Lao động – TB&XH tỉnh Quảng Ninh.
4
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn về không gian được giới hạn trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, giới hạn thời gian là từ 2012 - 2014.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
thanh tra. Cùng với các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với
lĩnh vực lao động.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng một cách linh hoạt và hợp lý các
phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp
khảo sát thực tế; Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp; Phương pháp phân
tích, đối chiếu; Phương pháp so sánh; Phương pháp tọa đàm trao đổi.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về công tác thanh tra trong lĩnh vực lao
động đầy đủ, khoa học; tính phổ biến, đặc thù của pháp luật về thanh tra trong
lĩnh vực lao động.
Tiến hành nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động của Sở Lao động – TB&XH tỉnh Quảng Ninh. Tập trung vào
đánh giá kết quả thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động; kết
hợp rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra
trong lĩnh vực lao động nhằm loại bỏ các văn bản hết hiệu lực, kiến nghị ban
hành các văn bản điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thanh
tra việc thực hiện pháp luật lao động của tỉnh Quảng Ninh.
Nghiên cứu, dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp mới nhằm nâng
cao chất lượng thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động của
địa phương trong thời gian tới.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả các các bộ,
công chức trong ngành lao động – thương binh và xã hội hoặc bất kỳ ai quan
5
tâm đến công tác thanh tra. Tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo nghiên
cứu về luật học, về thanh tra, về quản lý lao động – xã hội…….
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh
vực lao động.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực
lao động (qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh).
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
thanh tra trong lĩnh vực lao động.
6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA
TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG
1.1. Thanh tra và pháp luật về thanh tra trong lĩnh vực lao động
1.1.1. Thanh tra
1.1.1.1 Khái niệm
Thanh tra (tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ nguồn gốc La tinh
(Inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ
bên ngoài đối với hoạt động của một số đối tượng nhất định. Theo từ điển
pháp luật Anh - Việt, thanh tra là “sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị
thanh tra”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006:
“thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
nghiệp”. Với nghĩa này, thanh tra bao hàm kiểm tra nhằm “xem xét và phát
hiện ngăn chặn những gì trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm với một
chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh tra” và “đặt trong phạm vi
quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Các cơ quan Thanh tra không phải chỉ mới được thành lập và hoạt động
từ khi có Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 mà khái niệm về thanh tra và tổ chức
hoạt động thanh tra đã được hình thành trong lịch sử. Đó là sự phản ánh về
mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước, về sự kiểm soát đối với hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nước:
Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được sử dụng, nhưng đã
có các chức quan làm công việc giống như thanh tra. Ngày 23 tháng 11 năm
1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập, Hồ Chủ tịch
ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ:
7
“Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám
sát tất cả các công việc và các nhân viên của UBND và các cơ quan của Chính
phủ”. Từ đây thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể,
quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ”[25]
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành. Trong
đó quy định quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho Ban Thường
vụ của Nghị viện: “Khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền kiểm
soát, phê bình Chính phủ”, thực chất đây là quyền giám sát của cơ quan dân
cử (cũng như quyền giám sát của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối
với Chính phủ).
Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi
hành các quyết định quản lý nhà nước: “Hội đồng Chính phủ ra những thông
tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các Thông tư và Chỉ thị ấy” và “Uỷ ban
hành chính các cấp quản lý công tác hành chính... ra Quyết định, Chỉ thị và
kiểm tra việc thi hành Quyết định, Chỉ thị ấy”. Như vậy, thanh tra, kiểm tra ở
đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính hay
Chính phủ còn mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng, ban
hành, thực hiện các văn bản pháp quy.
Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một chức
năng của cơ quan quản lý nhà nước. Khoản 15 Điều 107 của Hiến pháp quy định
Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và
kiểm tra của Nhà nước”, Điều 110 quy định: “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh
đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những
quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng”.
Đến Hiến pháp 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện tại
khoản 7 Điều 112: “Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức và lãnh đạo công tác
kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước,
8
chống quan liêu, tham nhũng, trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân”. Hiến pháp 2013, hoạt động thanh tra được
quy định cụ thể trong nhiệm vụ của Chính phủ tại Điều 96: … “tổ chức công
tác thanh tra, kiểm tra”….. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 là văn bản đầu
tiên về công tác thanh tra, tạo cơ sở pháp lý và xác định hoạt động thanh tra
là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Luật Thanh tra
2004 và Luật Thanh tra năm 2010 không quy định nhiệm vụ, quyền hạn
chung của các cơ quan thanh tra nhà nước mà quy định cụ thể cho từng cơ
quan thanh tra nhà nước, nhưng có thể khái quát nhiệm vụ, quyền hạn chung
của các cơ quan thanh tra nhà nước là quản lý nhà nước về công tác thanh
tra; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà
nước cùng cấp; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định
của pháp luật khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định
của pháp luật về chống tham nhũng. Căn cứ Luật Thanh tra năm 2010, có
một số văn bản hướng dẫn thực hiện công tác thanh tra:
- Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2011 của Chính
Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra;
- Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Chính
Phủ quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra.
- Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 9/12/2012 của Chính phủ Quy
định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và
hoạt động thanh tra chuyên ngành
Từ những phân tích trên có thể khái quát khái niệm thanh tra như
sau: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của QLNN, là hoạt động kiểm tra,
xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được
thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp
9
luật quy định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy
nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế
quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [36, tr.78]
1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
Một là, thanh tra gắn liền với QLNN:
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý
nên thanh tra gắn liền với QLNN. Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra
gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội.
Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự
quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những
chức năng chung.
Một chu trình QLNN gồm ba bước: ra quyết định quản lý, tổ chức thực
hiện, kiểm tra việc thực hiện quyết định ấy. Quyết định quản lý là hành vi
sáng tạo của chủ thể quản lý nhằm định ra chương trình và tính chất hoạt
động của tập thể để giải quyết vấn đề đã chín muồi, trên cơ sở hiểu biết các
qui luật vận động khách quan của hệ thống quản lý và việc phân tích các
thông tin về hiện trạng của hệ thống. Quyết định quản lý là sản phẩm đặc biệt
của lao động quản lý và có ở tất cả các cấp quản lý nhưng mới là điểm xuất
phát trong quá trình quản lý. Tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra việc
thực hiện quyết định là những giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý. Các
giai đoạn này gồm những công việc như: truyền đạt quyết định; lập kế hoạch
tổ chức; điều chỉnh quyết định; kiểm tra việc thực hiện quyết định và tổng kết
tình hình thực hiện quyết định. Ở đây kiểm tra được hiểu là hình thức tác
động có hướng đích nhằm quan sát cả hệ thống để phát hiện những sai lệch so
với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó có những giải pháp phù hợp
đảm bảo để đối tượng bị quản lý tự điều chỉnh hoạt động, để hoạt động của nó
10
đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định. Trong một phạm vi, chừng
mực nhất định nào đó, hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có thể đưa
lại những thông tin cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của việc tìm giải pháp
phù hợp. Thực tiễn điều hành và quản lý nói chung và QLNN nói riêng đòi
hỏi phải có một phương thức kiểm tra khác với nghĩa kiểm tra thông thường.
Loại phương thức kiểm tra này không chỉ dừng lại ở chỗ phát hiện sai lệch
của đối tượng bị quản lý so với yêu cầu đề ra mà còn phải tìm ra những
nguyên nhân chủ quan, khách quan của sự sai lệch đó. Nếu có yếu tố trách
nhiệm thì đương nhiên phải chỉ rõ trách nhiệm đó thuộc về ai? tổ chức, cá
nhân nào? chính từ việc tìm nguyên nhân và qui trách nhiệm cùng những yếu
tố khác đã làm nảy sinh những yêu cầu mới đối với chính hoạt động kiểm tra
như phải thu thập và xử lý; nhận xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên
nhân, dữ liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn, loại hình kiểm tra như vậy hay
nói cách khác phương thức kiểm tra như vậy rất gần với hoạt động thanh tra.
Thực chất thanh tra là một phương thức của kiểm tra, là công cụ của quản lý.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ các cơ quan QLNN nhất thiết
phải tiến hành việc hoạt động thanh tra thực hiện các quyết định mà mình đã
ban hành. Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. QLNN là một bộ phận quản lý xã hội, ở đâu
có QLNN ở đó có thanh tra.Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì
QLNN giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm
quyền của các cơ quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận
thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra).
Mặt khác, hoạt động chấp hành của QLNN thường bao hàm cả sự điều hành,
cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự
kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.
11
QLNN và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước
thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu,
chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là chức năng, công cụ, phương tiện để
thực hiện QLNN. Hai là, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước:Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của QLNN. Là một chức năng của QLNN,
thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực
của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về quyền lực nhà nước
trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất
nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử dụng
như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý.Có thể nói, thanh tra là
một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành
thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra (ở đây được dùng với tính
chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng này) luôn luôn áp dụng quyền
năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân
danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi
Nhà nước ra đời và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước.
Chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất hiện, tồn tại
và tiêu vong cùng với Nhà nước. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động
thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được
xác định và khả năng thực hiện những quyền hạn đó: quyền quyết định thanh
tra; quyền yêu cầu với đối tượng thanh tra; xử phạt vi phạm hành
chính….Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức
tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với
đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không thực
hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến hạ
12
thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.Ba
là, thanh tra có tính độc lập tương đốiĐây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ
bản chất của thanh tra. Đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ
quan chức năng khác của bộ máy QLNN. Khác với hoạt động kiểm tra thường
do bản thân các cơ quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường
được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như
những cơ quan QLNN khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là
xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tính độc lập tương đối của
thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thể hiện ở một số nội dung
sau:Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ truởng cơ
quan QLNN cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức,
nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác,
nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.- Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ
quan QLNN bổ nhiệm sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên.Trong trường hợp những kiến nghị về thanh tra do Chánh Thanh tra đề nghị,
thủ trưởng cơ quan QLNN cùng cấp không nhất trí, Chánh thanh tra có quyền
bảo lưu báo cáo với người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên xem
xét, quyết định.- Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các
ngành có quyền ra quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi
phạm pháp luật.
- Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định
xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm.
Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể thiếu
trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng
cường trật tự, kỷ cương quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản
lý nhà nước, nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý
13
1.1.1.3. Phân loại thanh tra
Sự phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành xuất
phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của QLNN. Mục đích
của QLNN xét cho cùng là bảo đảm cho mọi hoạt động trong xã hội tuân thủ
theo các quy định của pháp luật, bảo đảm cho công dân thực hiện được các
quyền cơ bản của mình, tạo điều kiện phát huy mọi năng lực sản xuất của xã
hội. Để đạt được mục đích đó, Nhà nước phải thực hiện hai nhiệm vụ chính là
tăng cường các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực
quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và phải thường xuyên hoàn thiện,
loại trừ các khuyết tật trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước. Tương ứng
với hai nhiệm vụ này là hai loại hình hoạt động thanh tra: thanh tra hành
chính (hướng vào bản thân bộ máy quản lý) và thanh tra chuyên ngành
(hướng vào xã hội, các đối tượng quản lý).
- Thanh tra hành chính:
Khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra 2010 quy định: “Thanh tra hành chính
là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan,
tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm
vụ, quyền hạn được giao”. Theo khái niệm này, thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra trong nội bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp
trên đối với cơ quan, đơn vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp);
là thanh tra của chủ thể quản lý này với chủ thể quản lý khác. Thanh tra hành
chính vì vậy mang tính kiểm soát nội bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội bộ
của bộ máy nhà nước hay nội bộ của bộ máy các cơ quan nhà nước, thường là
theo hệ thống). Mục đích của thanh tra hành chính là làm trong sạch bộ máy,
bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành.
Đối tượng của hoạt
động thanh tra hành chính phải là các cơ quan nhà nước và công chức nhà
nước. Hoạt động thanh tra hành chính không hướng vào các đối tượng là các
14
doanh nghiệp mà phải hướng vào việc xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp
luật, nhiệm vụ cũng như hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
-
Thanh tra chuyên ngành
Khoản 3 Điều 3 Luật thanh tra 2010 quy định: “Thanh tra chuyên
ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp
luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó”.
Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành là bảo đảm sự chấp
hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoạt động kinh tế tài chính, kinh tế xã
hội cũng như trong mọi lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội.
Đối tượng thanh tra của thanh tra chuyên ngành có phạm vi rộng hơn
rất nhiều so với thanh tra hành chính và chủ yếu là khu vực tư, chẳng hạn các
cuộc thanh tra PLLĐ, thanh tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra chất
lượng mũ bảo hiểm xe máy, thanh tra tài nguyên môi trường, thanh tra việc
khám chữa bệnh hay hành nghề y dược tư nhân, thanh tra xây dựng…...
Thanh tra chuyên ngành có quyền xử phạt hành chính trong khi thanh
tra hành chính, với đối tượng là cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà
nước chủ yếu áp dụng các biện pháp kỷ luật hành chính... Thanh tra chuyên
ngành thực chất là hoạt động kiểm tra thường xuyên của cơ quan quản lý, kết
hợp với xử lý vi phạm.
Như vậy, trong các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành và thực
tiễn hiện nay về mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra trong các bộ, ngành
rất phức tạp; còn tồn tại mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra khác nhau
giữa các bộ, ngành….. Những yếu tố này không thể không ảnh hưởng đến
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động QLNN. Vì vậy, cần rà soát lại toàn bộ các
15
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến
mô hình tổ chức, hoạt động thanh tra trong các lĩnh vực chuyên ngành để bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
1.1.1.4. Vị trí, vai trò của thanh tra
Thanh tra là phương thức đảm bảo pháp chế và kỷ luật, kỷ cương
trong hoạt động QLNN
Một trong những nguyên tắc cơ bản phải được tuân thủ của hệ thống
chính trị và bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội
dung của nguyên tắc pháp chế là sự bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ một
cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp luật hay đứng ngoài
pháp luật. Nguyên tắc pháp chế hiện hữu ở việc chấp hành pháp luật cả từ
phía các cơ quan nhà nước và từ phía các cá nhân, tổ chức là đối tượng chịu
sự quản lý của nhà nước. Về phía các cơ quan nhà nước, nguyên tắc pháp chế
thể hiện ở việc các cán bộ, công chức Nhà nước thực thi đúng chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà pháp luật đã quy định. Ở bình diện rộng
hơn, nó còn là việc mỗi cơ quan nhà nước thực thi đúng phạm vi, thẩm quyền,
trách nhiệm đã được quy định trong các văn bản pháp luật. Ngay trong hoạt
động ban hành các quyết định, các văn bản của cơ quan cấp dưới phải phù
hợp với các quy định trong các văn bản của cơ quan cấp trên, văn bản có hiệu
lực cao hơn và mọi văn bản pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp - đạo luật
gốc, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem xét
tại chỗ việc làm của các cơ quan, tổ chức cá nhân có đúng chính sách, pháp
luật hay không. Nếu họ làm sai hoặc làm chậm thì giúp họ sửa chữa và làm
cho đúng. Mục đích của thanh tra là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý
những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tuân
thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và nghiêm chỉnh pháp luật nhà
16
nước. Muốn có pháp chế cần phải làm cho mọi người hiểu biết pháp luật. Mặc
dù công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật không phải là chức năng chính
của thanh tra, nhưng thông qua hoạt động của mình, công tác thanh tra đã góp
phần tích cực vào việc giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật và đó cũng là một hoạt động bảo đảm tăng
cường pháp chế. Tuy nhiên, trong thực tế không ít trường hợp vi phạm pháp
luật, nhưng không phải do không hiểu đúng các quy phạm pháp luật, mà do
thiếu trách nhiệm dẫn đến vi phạm, hoặc cố tình vi phạm. Trong những
trường hợp đó đòi hỏi thanh tra phải có hình thức xử lý nghiêm khắc. Xử lý
mạnh mẽ, nghiêm khắc là để cho đối tượng quản lý phải sửa chữa những vi
phạm pháp luật và việc xử lý đó còn có tác dụng lâu dài đến đối tượng quản lý
đó cũng như mang tính chất răn đe đối với các đối tượng quản lý khác. Tóm
lại, vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với nhiều lý do khác
nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý có thể áp dụng nhiều biện
pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện pháp đó đều có thể
được thực hiện thông qua công tác thanh tra, qua thanh tra có thể đánh giá
được một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đó chấp hành pháp luật như thế nào,
có vi phạm pháp luật hay không, vi phạm ở mức độ nào... Từ đó đề ra những
biện pháp xử lý thích hợp. Do vậy, thanh tra là một phương thức bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ một
cách sâu sắc đầy đủ nhất về nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất mức
độ của hành vi vi phạm. Do vậy các giải pháp (các khuyến nghị, kiến nghị,
yêu cầu, quyết định xử lý về thanh tra...) được đưa ra từ hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật
mà nó phát hiện được mà nó còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính
17
sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp
luật tương tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác
Thanh tra luôn luôn có tính định hướng và tính xây dựng, có phòng ngừa
mang tính chủ động. Trong rất nhiều trường hợp, qua thanh tra có thể dự báo
được một hành vi vi phạm sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có sự chấn
chỉnh, không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời.
1.1.2. Thanh tra trong lĩnh vực lao động (Thanh tra Lao động – TB&XH)
1.1.2.1. Khái niệm
Thanh tra Lao đô ̣ng – TB&XH là tổ chức thanh tra thuộc ngành lao
đô ̣ng, thương binh và xã hội, có chức năng giúp các cơ quan QLNN trong liñ h
vực lao đô ̣ng , thương binh và xã hô ̣i về công tác thanh tra và thực hiê ̣n chức
năng thanh tra chuyên ngành về lao đô ̣ng , người có công và xã hô ̣i trên pha ̣m
vi quản lý ; thanh tra hành chiń h đố i với cơ quan , tổ chức và cá nhân thuô ̣c
quyề n quản lý về việc thực hiện chính sách , pháp luật, nhiê ̣m vu ̣ của đơn vi ;̣
phòng, chố ng tham nhũng ; tiế p công dân , giải quyết khiếu nại , tố cáo theo
quy đinh
̣ của pháp luật . Cũng như các tổ chức thanh tra khác, thanh tra lao
động chịu sự chi phối “song trùng lãnh đạo”. Một mặt, Thanh tra Lao động –
TB&XH là cơ quan thuộc cơ cấu, tổ chức của cơ quan quản lý cùng cấp. Do
vậy, nó chịu sự chỉ đạo về mọi mặt của thủ trưởng cơ quan trực thuộc. Mặt
khác, Thanh tra Lao động – TB&XH là một tổ chức thuộc hệ thống tổ chức
thanh tra nhà nước, do vậy nó chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức, nghiệp vụ của tổ chức thanh tra cấp trên.
1.1.2.2. Đặc điểm của Thanh tra Lao động- TB&XH
Thanh tra Lao động – TB&XH là thanh tra ngành, là một bộ phận của
hoạt động thanh tra nhà nước. Thanh tra lao động ngoài mang những đặc
điểm của thanh tra nhà nước nói chung còn mang những đặc điểm thể hiện
tính chất đặc trưng sau:
18