Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÍCH HỢP KĨ NĂNG SỐNG TRONG GIẢNG DẠY HOÁ HỌC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.63 KB, 23 trang )

Chuyên đề
TÍCH HỢP KĨ NĂNG SỐNG TRONG GIẢNG DẠY
HOÁ HỌC THCS.

CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

1


MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu...............................................................................Trang 3
I. Lý do chọn đề tài.........................................................................Trang 3
1. Cơ sở lý luận..............................................................................Trang 3
2. Cơ sở thực tiễn...........................................................................Trang 4
II. Mục đích nghiên cứu.................................................................Trang 5
III. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................Trang 5
IV. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ......................................Trang 6
1.Đối tượng nghiên cứu.................................................................Trang 6
2. Khách thể nghiên cứu................................................................Trang 6
V. Phạm vi nghiên cứu..................................................................Trang 6
VI. Phương pháp nghiên cứu.........................................................Trang 6
Phần II: Nội dung..........................................................................Trang 7
I. Kĩ năng sống..............................................................................Trang 7
II. Các giải pháp............................................................................Trang 7
1. Quy trình và giải pháp...............................................................Trang 7
2. Cách thức vận dụng lồng ghép vào thức tế giảng dạy..............Trang 8
Phần III: Kết luận và kiến nghị ....................................................Trang 23
Tài liêu tham khảo........................................................................Trang 24

2



CHUYÊN ĐỀ: TÍCH HỢP KĨ NĂNG SỐNG TRONG
GIẢNG DẠY HOÁ HỌC THCS.
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
Môn Hóa học cung cấp cho học sinh những tri thức Hóa học phổ thông cơ bản,
hoàn chỉnh, đầy đủ về các chất, sự biến đổi chất, mối liên hệ qua lại giữa công nghệ
hóa học với môi trường và con người. Những tri thức này rất quan trọng giúp học
sinh nhận thức một cách khoa học về thế giới vật chất, góp phần phát triển nhận
thức, năng lực hành động, hình thành nhân cách người học một cách toàn diện: có
tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo, năng động, sáng tạo, tự tin...
Giảng dạy bộ môn Hóa học ở Trường THCS có vai trò quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học. Môn học này cung cấp cho học sinh một
hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hóa học, hình thành
ở các em một số kĩ năng phổ thông, cơ bản và thói quen làm việc khoa học, góp
phần làm nền tảng cho việc xã hội hóa giáo dục, phát triển năng lực nhận thức,
năng lực hành động, kĩ năng vận dụng các tri thức..., chuẩn bị cho học sinh học lên
và đi vào cuộc sống lao động.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THCS, qua các giờ dạy
và kiểm tra trên lớp tôi nhận thấy rất nhiều học sinh yêu thích môn Hóa học, muốn
đi chuyên sâu nghiên cứu bộ môn, biết cách tìm tòi, khám phá và ứng dụng các
kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Đây chính là cơ hội tốt để giáo viên tích
hợp nội dung giáo dục kĩ năng sống vào bài giảng có hiệu quả. Tuy nhiên một phần
lớn các em gặp phải khó khăn trong việc nhận thức nắm vững các khái niệm cơ
bản. Đặc biệt là kĩ năng vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống cũng
như giải thích một số hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống đã ảnh hưởng đến môi
trường sống của con người còn hạn chế. Con đường tiếp cận, hình thành các khái
niệm Hóa học cơ bản và ứng dụng nó vào thực tiễn cuộc sống, là nội dung và cũng
3



là yêu cầu quan trọng không chỉ trong việc giảng dạy bộ môn Hóa học ở bậc học
THCS mà còn là sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, giáo viên, học sinh, sinh
viên và của toàn ngành giáo dục.
2.Cơ sở thực tiễn.
Xuất phát từ đặc thù bộ môn, hóa học là môn khoa học thực nghiệm, chuyên
nghiêm cứu cấu tạo các chất, sự biến đổi chất và ứng dụng của chúng. Bằng những
thí nghiệm hóa học để sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa các sự vật, giải thích được
bản chất của các hiện tượng hóa học để học sinh có được những kiến thức, kĩ năng
tổng hợp và vận dụng vào thực tế đời sống.
Trước tình hình học hoá học phải đổi mới phương pháp dạy học đã và đang
thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ
dạy có hiệu quả và tiến bộ là phải phát huy tính thực tế, giáo dục về môi trường, về
tư tưởng vừa mang bản sắc dân tộc mà không mất đi tính cộng đồng trên toàn thế
giới, những vấn đề cũ nhưng không cũ mà vẫn có tính chất cập nhật và mới mẻ,
đảm bảo: Tính khoa học – hiện đại, cơ bản, tính thực tiễn và giáo dục kĩ thuật tổng
hợp; tính hệ thống sư phạm.
Môn hoá học trong trường THCS là một trong những môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp sẽ dễ làm cho học sinh
thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh
không muốn học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của hoá học.
Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục, chưa đặt ra
cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu, hiện tượng dùng đồng loạt cùng
một cách dạy, một bày giảng cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do
phương pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm nhận, truyền
thụ tri thức một chiều. Giáo viên chưa là người hướng dẫn học sinh chủ động trong
quá trình lĩnh hội tri thức hoá học.
Việc dạy học các môn học và triển khai hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là
những hình thức tỏ ra thích hợp cho việc tổ chức thực hiện giáo dục kĩ năng sống.

Những hoạt động trên tạo điều kiện học sinh hình thành và phát triển những kĩ năng
4


sống cần thiết, như giao tiếp, giải quyết vấn đề, hợp tác, chia sẻ, ứng phó với những
tình huống trong cuộc sống hàng ngày,... đồng thời học sinh có cơ hội bộc lộ những
kĩ năng sống mà các em đã có được. Trong thực tế giáo viên cũng nhận thấy rằng
rất nhiều kĩ năng sống đã được hình thành và phát triển cho học sinh ngay trong bài
giảng, tuy nhiên những kĩ năng này chưa được đề cập một cách rõ ràng với tư cách
là kĩ năng sống mà chỉ ở dạng các kĩ năng cơ bản cần thiết của bộ môn, chẳng hạn
kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp, các kĩ
năng thoát hiểm ...
Trong quá trình học tập và rèn luyện ở nhà trường có rất nhiều kĩ năng mà học
sinh luôn có nhu cầu được thể hiện như: kĩ năng tổ chức, kĩ năng tự khám phá, kĩ
năng tự giải quyết vấn đề,.... Ngoài ra các em còn có nhu cầu muốn khẳng định,
muốn được thể hiện, luôn mong muốn khám phá các năng lực của bản thân và
muốn phát huy những năng lực, sở trường của mình về một số lĩnh vực nào đó theo
những xu hướng phát triển nhân cách đã được hình thành. Do đó ngoài hoạt động
học tập bộ môn thì hoạt động ngoài giờ lên lớp nói chung và các hoạt động câu lạc
bộ tự nguyện nói riêng tỏ ra có ưu thế cho việc thoả mãn các nhu cầu trên, qua đó
mà góp phần hoàn thiện kĩ năng sống. Chính vì lý do đó mà việc lồng tích hợp nội
dung giáo dục kĩ năng sống vào việc dạy học môn Hóa học rất cần thiết và mỗi
giáo viên giảng dạy bộ môn phải quan tâm.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Xây dựng hệ thống kĩ năng sống trong một số bài giảng trong chương trình hóa
học THCS.
Vận dụng hệ thống các kĩ năng sống tượng đã xây dựng để dạy học chương
trình Hoá học THCS nhằm giáo dục ý thức và tăng hứng thú học tập bộ môn cho
học sinh.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề sau:

5


1. Những vấn đề lí luận về tích hợp kĩ năng sống trong giảng dạy môn hóa học
THCS.
2. Thực trạng về trình độ và điều kiện học tập của học sinh.
3. Từ việc nghiên cứu vận dụng của đề tài, rút ra bài học kinh nghiệm góp phần
nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Hóa học tại trường THCS Bình Dương.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình dạy học môn hóa học ở trường THCS. Các
phương pháp dạy học tích cực, phương pháp tích hợp môi trường, kĩ năng vận dụng
kiến thức trong học tập và liên hệ thực tiễn của bộ môn hóa học.
2. Khách

thể nghiên cứu: Học sinh lớp 9 và lớp 8 trường trung học cơ sở Bình

Dương.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu các bài học có thể tích hợp kĩ năng sống, các biện pháp nâng cao
chất lượng học tập môn Hoá Học bậc trung học cơ sở .
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Tìm hiểu về những vấn đề có liên quan đến kĩ năng sống, các bài học lồng ghép
được kĩ năng sống.
Khảo sát điều tra thực tế học sinh sau mỗi bài học lồng ghép được kĩ năng sống
và qua từng học kì.

Phần II. NỘI DUNG:
6



I. Kĩ năng sống:
KNS là khả năng điều chỉnh và lựa chọn hành vi đúng đắn, có khả năng điều
chỉnh nhu cầu của bản thân một cách hợp lý và ứng phó trước những thách thức
trong cuộc sống.
Giáo dục KNS: GDKNS là trang bị những kiến thức, thái độ, hành động giúp
cho người học hình thành được những KNS cần thiết, phù hợp với từng lứa tuổi,
điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường sống,... GDKNS cho HS nói chung và cho
HS THCS nói riêng là việc rất quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình hình thành và
phát triển nhân cách cho HS.
GDKNS cần được tiến hành càng sớm càng tốt và có thể bắt đầu ngay từ bậc
tiểu học, thậm chí còn có thể ở tuổi mầm non. Bởi vì lứa tuổi này những hành vi cá
nhân, tính cách và nhân cách đang dần được hình thành.
II. Các giải pháp
1. Quy trình và giải pháp
*Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực
hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
- Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí
nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem
tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin cần
thiết về các kĩ năng sống.
- Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học
sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
- Vận dụng: Dựa vào kết luận đã rút ra từ bài học, học sinh vận dụng vào
thực tiễn để hiểu sâu bài hơn. Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo
viên có thể tích hợp các kĩ năng sống trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù
hợp như:
+ Phần mở bài: Ví dụ: Trước khi vào giảng dạy bài: Sự ăn mòn kim loại và
bảo vệ kim loại không bị ăn mòn, giáo viên có thể nêu vấn đề vào bài với câu hỏi

sau: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ và dần dần đồ vật không dùng
7


được ? Từ đó giáo viên hình thành cho học sinh kĩ năng để bảo vệ đồ vật bằng kim
loại không bị ăn mòn.
+ Tích hợp trong quá trình giảng dạy: Ví dụ: Khi dạy xong phần tính chất vật
lí của axit sunfuric giáo viên có thể cho học sinh trả lời câu hỏi: Vì sao không nên
rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ từ axit sunfuric đậm đặc
vào nước ? Từ đó giáo viên hình thành cho học sinh kĩ năng pha loãng dung dịch
axit sunfuric hoặc bất cứ dung dịch nào.
+ Tích hợp khi kết thúc bài học: Ví dụ: Khi giảng dạy xong bài; phân bón hóa học
giáo viên có thể cho học sinh giải thích câu ca dao sau:
“ Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.”
Từ đó các em có kĩ năng vận dụng kiến thức hoá học vào đời sống.
* Giải pháp: Để áp dụng việc tích hợp vào trong giảng dạy tôi đã thực hiện một số
hoạt động sau:
-Giáo viên phải nắm trắc kiến thức xuyên xuốt chương trình để xây dựng kế hoạch
bài giảng cho phù hợp với đề tài.
- Tổng hợp những kĩ năng liên quan đến từng bài học sao cho phù hợp.
- Điều tra về mức độ, thái độ của học sinh về nội dung của đề tài: điều kiện học tập
của học sinh, cho học sinh mượn tài liệu để photo và hướng dẫn học sinh tìm hiểu.
- Xác định mục tiêu, chọn lọc các trường hợp cần nhận biết, xây dựng nguyên tắc
áp dụng cho mỗi trường hợp, lựa chọn các câu hỏi cần thiết liên quan đến từng nội
dung bài và dự đoán các tình huống có thể xảy ra khi thực hiện.
- Sưu tầm tài liệu và trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
2. Cách thức vận dụng việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong giảng dạy.
a. Tích hợp kĩ năng sống khi giới thiệu bài mới.
* Ví dụ : Trước khi vào bài "Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại tránh bị

ăn mòn", GV có thể hỏi: Tại sao những đồ vật bằng sắt thường hay bị gỉ tạo thành
gỉ sắt và dần dần đồ vật sẽ bị hỏng không dùng được.
- Giải thích: Trong không khí có oxi, hơi nước và một số chất khác.
8


- Do tác dụng nhiệt độ cao của ánh sáng mặt trời, hơi nước, oxi và nước mưa
(thường hòa tan khí CO2 tạo môi trường axit yếu) có phản ứng với sắt tạo thành
một số hợp chất của sắt gọi là gỉ sắt. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, dẻo của
sắt mà xốp, giòn nên làm đồ vật bị hỏng. Từ đó giáo viên hướng tới sự hình thành
kĩ năng cho học sinh trong việc bảo vệ đồ vật bằng kim loại.
b. Tích hợp kĩ năng sống trong quá trình giảng dạy
c. Tích hợp kĩ năng sống sau khi đã kết thúc bài học
Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã
học tìm cách tự hình thành kĩ năng sống ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng
đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận
lợi khi học bài học mới tiếp theo.
* Ví dụ : Sau khi học bài "Một số oxit quan trọng" (Hóa học 9), GV đặt câu
hỏi: Để Canxioxit (vôi sống) lâu ngày trong không khí sẽ bị kém phẩm chất. Hãy
giải thích hiện tượng này và viết phương trình hoá học có thể xảy ra.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng kiến thức về tính chất hoá học của
Canxioxit để nhận ra rằng CaO để lâu trong không khí sẽ hút ẩm trong không khí
tạo thành Ca(OH)2, và chính CaO và Ca(OH)2 sẽ tác dụng với CO2 trong không khí
làm cho vôi mất phẩm chất từ đó học sinh hình thành được kĩ năng vận dụng vào
đời sống sản xuất.
*Ví dụ : sau khi học bài “ Tính chất vật lí của kim loại ” Giáo viên đưa ra vấn
đề “ Vì sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng lại được
dùng làm dây dẫn điện trong nhà ?”
Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng riêng của nhôm là
2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là…… Do đó, nếu như dùng

đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu
được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong
nhà thì việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm vì vậy ở
trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện bằng đồng từ đó học sinh hình thành được kĩ
năng vận dụng vào đời sống.
9


d. Tích hợp kĩ năng sống qua các hiện tượng trong thực tiễn.
Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và
thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò
mò của học sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
*Ví dụ : Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này mang hàm ý
của khoa học hoá học như thế nào?
Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng:
CaCO3 + CO2 +H2O --> Ca(HCO3)2.
Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời gian đá sẽ bị mòn dần.
- Áp dụng: Hiện tượng này thường thấy ở những phiến đá ở những dòng chảy
đi qua. Nếu không để ý, trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít, góp phần hiểu
được dụng ý của khoa học của câu tục ngữ, làm cho hoá học trở nên gần gũi, giáo
viên có thể xen vấn đề này trong khi dạy đến phần về muối CaCO3 (ở lớp 9).
* Ví dụ : Tại sao nước máy lại có mùi clo?
- Khi sục vào nước một lượng nhỏ Clo vào nước có tác dụng sát trùng do clo
tan 1 phần (gây mùi) và phản ứng 1 phần với nước:
H2O + Cl2 → HCl + HClO
- Hợp chất HClO không bền có tính oxi hoá mạnh, có khả năng diệt khuẩn.
- Áp dụng: Vấn đề này đang đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay trong các
nhà máy nước cung cấp nước trong thành phố, thị xã, thị trấn… giáo viên có thể
xen vấn đề này trong khi dạy bài clo.
e. Tích hợp kĩ năng sống thông qua các bài tập tính toán.

Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội
được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được bài toán hoá đó học sinh
phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì, và
giải quyết như thế nào.
* Ví dụ : Trên nhãn của các chai rượu có ghi các số: 45O, 18O, 12O.
a. Hãy giải thích ý nghĩa của các số trên.
b. Tìm số ml rượu etylic có trong 500ml rượu 450
10


c. Có thể pha được bao nhiêu ml rượu 250 từ 500ml rượu 450 ?
f. Hướng dẫn tự hình thành kĩ năng sống qua các hiện tượng thực tiễn xung
quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình…sau khi đã học bài giảng.
Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã
học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những
lúc bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả
năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
* Ví dụ : Muốn chữa cơm khê người ta thường làm như thế nào?
GV có thể đưa vấn đề này vào trong bài cacbon (ở lớp 9), phần tính hấp phụ. Muốn
chữa cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu than củi. Do than củi xốp
có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.
* Ví dụ : Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì chuyển
sang màu đỏ?
- Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của
dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
- Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có 7%
axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu
nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh lét là chứa chất kiềm
canxi.
- Áp dụng: Giáo viên có thể đưa các vấn đề thực tế này vào bài axit

cacboxylic (ở lớp 9).
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng trong
thực tế có thể lồng ghép kĩ năng sống liên quan đến các bài học trong chương trình
hóa học 8,9 và phân bố chúng vào cụ thể từng bài học như sau:
Chương trình hoá học 8.
Bài 28: Không khí – sự cháy.
Ví dụ 1: Khi day xong phần sư ô xi hóa châm tích hơp sinh kĩ năng phòng tránh
sự cháy.
11


Trong nhà máy người ta không chất dẻ lau có dính dầu mỡ thành đống vì những dẻ
lau có dính dầu mỡ để ngoài không khí sẽ xảy ra sự ô xi hoá chậm các chất kèm
theo sự sinh nhiệt. Nhiệt sinh ra đến một lúc nào đó làm chất đạt đến nhiệt độ cháy
lúc đó sự ô xi hoá chậm chuyển thành sự tự bốc cháy.
Ví dụ 2: Sau khi học xong điều kiên hát sinh sư cháy tích hơp sinh kĩ năng phòng
tránh sự cháy.
Sau khi học xong bài hình thành cho học sinh kĩ năng thoát hiểm khi sự cháy sảy ra
và dập tắt đám cháy.
Dùng CO2 để dập tắt sự cháy vì CO2 nặng hơn không khí và không tác dụng với
ô xi nên ngăn không cho chất cháy tiếp súc với ôxi. Đa số trong các gia đình không
có sẵn bình cứu hoả thì có thì dùng cát hoặc vải ướt phủ lên đám cháy.
Bài 31: Tính chất ứng dụng của hidro:
Ví dụ 1: Quả bóng bay thổi bắng miệng thì không bay nhưng bơm khí H2 vào thì
bay được.
Trong hơi thở của ta có khí cacbonic, khí này nặng hơn không khí, khi ta thổi
vào bóng làm cho bóng không bay được, còn H2 nhẹ hơn không khí, khi ta thổi vào
bóng làm cho bóng bay được.
Ví dụ 2: Khi đốt H2 thường gây tiếng nổ mạnh, đề khắc phục tình trạng trên chúng
ta phải làm gì ? Hình thành cho học sinh kĩ năng để thu được khí H2 tinh khiết.

Chương trình hoá học 9.
Bài 1: Tính chất hóa học của Oxit, khái quát về sự phân loại oxit.
Ví dụ 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế nào ?
Giải thích:
- Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong (ô tô, xe máy) có chứa
các khí SO2, NO, NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không
khí nhờ xúc tác là các oxit kim loại (có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra
axit sunfuric H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2 + 2H2O → 2 H2SO4
2NO + O2 → 2NO2
12


4NO2 + O2 + 2H2O → 4HNO3
-Axit H2SO4 và HNO3 tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Trong đó H2SO4
là nguyên nhân chính gây ra mưa axit. Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở
một số nơi trên thế giới. Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình
xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến (các loại đá này
thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Áp dụng: Nêu vấn đề khi vào học bài mới.
Bài 2: Một số oxit quan trọng
Ví dụ 1: Tại sao khi cho vôi sống vào nước, ta thấy khói bốc lên mù mịt, nước vôi
như bị sôi lên và nhiệt độ hố vôi rất cao có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của
người và động vật. Do đó cần tránh xa hố đang tôi vôi hoặc sau khi tôi vôi ít nhất 2
ngày ?
Giải thích: Khi tôi vôi đã xảy ra phản ứng tạo thành canxi hiđroxit:
CaO + H2O ---> Ca(OH)2
Phản ứng này tỏa rất nhiều nhiệt nên làm nước sôi lên và bốc hơi đem theo cả

những hạt Ca(OH)2 rất nhỏ tạo thành như khói mù trắng. Do nhiệt tỏa ra nhiều nên
nhiệt độ của hố vôi rất cao. Do đó người và động vật cần tránh xa hố vôi để tránh
rơi xuống hố vôi tôi sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài.
Bài 3: Tính chất hóa học của axit.
Ví dụ 1: Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển sang màu
đỏ ?
Giải thích: Có một số chất hóa học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu của
dung dịch thay đổi khi độ pH của dung dịch thay đổi. Trong rau muống (và vài loại
rau khác) có chất chỉ thị màu này, trong chanh có 7% axit xitric. Vắt chanh vào
nước rau làm dung dịch có tính axit, do đó làm thay đổi màu của nước rau. Khi
chưa vắt chanh nước rau muống màu xanh là chứa chất kiềm.
13


Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
axit khi tác dụng với chất chỉ thị màu.
Bài 4: Một số axit quan trọng.
Ví dụ 1: Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Giải thích: Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi chất của
cơ thể. Trong dịch dạ dày của người có axit clohiđric với nồng độ khoảng chừng
0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng với là 4 và 3). Ngoài việc hòa tan các
muối khó tan, nó còn là chất xúc tác cho các phản ứng phân hủy các chất gluxit
(chất đường, bột) và chất protein (đạm) thành các chất đơn giản hơn để cơ thể có
thể hấp thụ được. Lượng axit trong dịch dạ dày nhỏ hơn hay lớn hơn mức bình
thường đều gây bệnh cho người. Khi trong dịch dạ dày có nồng độ axit nhỏ hơn
0,0001 mol/l (pH>4,5) người ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại nồng độ axit lớn hơn
0,001 mol/l (pH<3,5) người ta mắc bệnh ợ chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đưa vấn đề này trong phần ứng dụng của axit clohiđric.
Ví dụ 2: Vì sao không nên rót nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể rót từ

từ axit sunfuric đậm đặc vào nước ?
Giải thích: Khi axit sunfuric tan vào nước sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit
sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit,
nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Tại vị trí nước tiếp xúc với axit nhiệt độ cao làm cho
nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm. Trái lại khi bạn cho axit
sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho
từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ
dung dịch. Như vậy nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ
sẽ tăng từ từ không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh. Một chú ý thêm là
khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải rót từ từ ” axit vào nước và
không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ
khi pha.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha loãng
axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc.
14


Bài 7: Tính chất hóa học của bazơ.
Ví dụ 1: Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ? Giải thích: Do trong nọc
của ong, kiến, nhện (và một số côn trùng khác) có axit hữu cơ tên là axit formic
(HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau. Áp dụng: Giáo viên
có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của bazơ
Bài 8: Một số Bazơ quan trọng.
Ví dụ 1: Tại sao khi tô vôi lên tường thì lát sau vôi khô và cứng lại ? Giải thích:
Vôi là canxi hiđroxit, là chất tan ít trong nước nên khi cho nước vào tạo dung dịch
trắng đục, khi tô lên tường thì Ca(OH)2 nhanh chóng khô và cứng lại vì tác dụng
với CO2 trong không khí theo phương trình:
Ca(OH)2 + CO2 ----> CaCO3 + H2O
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần mở rộng tính chất hóa học của
canxi hiđroxit.

Bài 9: Tính chất hóa học của muối.
Ví dụ 1: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới đáy ấm?
Cách tẩy lớp cặn này? Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời,
là nước có chứa muối Ca(HCO3)2, Mg(HCO3)2. Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng
hoá học :
Ca(HCO3)2 ---> CaCO3 + CO2 + H2O
Mg(HCO3)2 ---> MgCO3 + CO2 + H2O
CaCO3, MgCO3 sinh ra đóng cặn. Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng dấm
(CH3COOH 5%) và rượu, đun sôi rồi để nguội qua đêm thì tạo thành 1 lớp cháo
đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày? Trong dạ dày,
có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là người có nồng độ dung dịch HCl
cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO3 dùng để chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm
hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl ---> NaCl + H2O + CO2
15


Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 10: Một số muối quan trọng.
Ví dụ 1: Vì sao muối thô dễ bị chảy nước ? Giải thích: Muối ăn có thành phần
chính là natri clorua, ngoài ra còn có ít muối khác như magie clorua …, Magie
clorua rất ưa nước, nên nó hấp thụ nước trong không khí và rất dễ tan trong nước.
Muối sản xuất càng thô sơ thì càng dễ bị chảy nước khi để ngoài không khí.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 2: Muối ở biển có từ đâu ? Giải thích: Các con sông, suối, …Các dòng nước
trên lục địa đều chảy về biển, đại dương và hoà tan mọi vật thể có thể hoà tan. Do
quá trình bay hơi, các nguyên tố, hợp chất tụ tập trong nước biển ngày càng nhiều
theo thời gian, trong đó nhiều nhất là NaCl, MgCl2 và một số ít muối khác tạo nên

muối biển.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần trạng thái tự nhiên.
Ví dụ 3: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn (NaCl)? Giải
thích: Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1at là 100oC, nếu ta thêm NaCl thì lúc đó
làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dịch NaCl loãng) là > 100oC. Do
nhiệt độ sôi của nước muối cao hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian
luộc rau không lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm hơn và
xanh hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 11: Phân bón hóa học.
Ví dụ 1: Vì sao người ta dùng tro bếp để bón cho cây ? Giải thích: Trong tro bếp có
chứa muối K2CO3, cung cấp nguyên tố kali cho cây. Áp dụng: Giáo viên có thể đặt
câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Cao dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe tiếng sấm
phất cờ mà lên” Câu này mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào? Giải
thích: Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng đòng
mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.
16


Do trong không khí có ~ 80% khí N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện)
sẽ tạo điều kiện cho N2 hoạt động: N2 + O2 Tia lửa điện 2 NO Sau đó:
2NO + O2 ---> 2NO2
Khí NO2 sẽ tan trong nước mưa:
NO2 + H2O + O2---> HNO3
HNO3 ---> H+ + NO3+
Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6−7 kg N cho mỗi mẫu đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 12: Mối liên hệ giữa các hợp chất vô cơ.
Ví dụ 1: Tại sao để cải tạo đất ở một số ruộng chua người ta thường bón bột vôi ?

Giải thích: Thành phần của bột vôi gồm CaO và Ca(OH)2 và một số ít CaCO3. Ở
ruộng chua có chứa axit, pH < 7, nên sẽ có phản ứng giữa axit với CaO, Ca(OH)2
và một ít CaCO3 làm giảm tính axit nên ruộng sẽ hết chua.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 15: Tính chất vật lí của kim loại.
Ví dụ 1: Vì sao nhôm lại được sử dụng làm dây dẫn điện cao thế? Còn đồng lại
được sử dụng làm dây dẫn điện trong nhà? Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng
nhôm (khối lượng riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng
của đồng là 8,96g/cm3) Do đó, nếu như dùng đồng làm dây dẫn điện cao thế thì
phải tính đến việc xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc
làm đó không có lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà thì việc chịu trọng lực của dây
dẫn điện không ảnh hưởng lớn lắm.Vì vậy ở trong nhà thì ta dùng dây đẫn điện
bằng đồng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tính dẫn điện của kim loại.
Bài 16: Tính chất hóa học của kim loại.
Ví dụ 1: Tại sao khi đánh rơi vỡ nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng chổi quét
mà nên rắc bột S lên trên? Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và
hơi thủy ngân là một chất độc. Vì vậy khi làm rơi vỡ nhiệt kế thủy ngân nếu như ta
dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bị phân tán nhỏ, làm tăng quá trình bay hơi và làm
17


cho quá trình thu gom khó khăn hơn. Ta phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy
ngân, vì S có thể tác dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Hg + S HgS Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Ví dụ 2: Vì sao các đồ vật bằng bạc để lâu ngày thường bị xám đen? Vì sao dùng
đồ bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi? Do bạc tác dụng với khí O2 và H2S có
trong không khí tạo ra bạc sunfua (Ag2S) màu đen. 4 Ag + O2 + 2 H2S 2Ag2S + 2
H2O Khi bạc sunfua gặp nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành ion Ag+.

Ion Ag+ có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước
cũng đủ diệt vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát triển nên giữ cho thức ăn lâu bị ôi
thiu.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần củng cố bài học.
Bài 18: Nhôm.
Ví dụ 1: Giải thích hiện tượng:“Một nồi nhôm mới mua về sáng lấp lánh bạc, chỉ
cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chỗ có nước biến thành màu xám
đen ?” Giải thích: Bình thường trông bên ngoài nước không có vấn đề gì, thực tế
trong nước có hòa tan nhiều chất, thường gặp nhất là các muối canxi, magiê và sắt.
Các nguồn nước có thể chứa lượng muối sắt ít nhiều khác nhau, loại nước chứa
nhiều sắt “ là thủ phạm” làm cho nồi nhôm có màu đen. Vì nhôm có tính khử mạnh
hơn sắt nên nhôm sẽ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và thay thế ion sắt, còn ion sắt bị
khử sẽ bám vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen: Để hoàn thành được điều trên
phải có 3 điều kiện: Lượng muối sắt trong nước phải đủ lớn; Thời gian đun sôi phải
đủ lâu; Nồi nhôm phải là nồi mới Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho
phần củng cố bài học.
Bài 21: Sự ăn mòn kim loại và bảo vệ kim loại không bị ăn mòn.
Ví dụ 1: Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần
đồ vật không dùng được ? Giải thích: Khi tiếp xúc với không khí ẩm có oxi, hơi
nước .... sắt bị oxi hóa theo các phản ứng sau: 2Fe + O2 + 2H2O Không khí ẩm
2Fe(OH)2 4Fe(OH)2 + O2 + 2H2O 4Fe(OH)3 Fe(OH)3 bị loại nước dần tạo thành
18


Fe2O3 theo thời gian. Vì gỉ sắt Fe2O3.nH2O xốp nên quá trình ăn mòn tiếp diễn
vào lớp bên trong đến khi toàn bộ khối kim loại đều gỉ. Gỉ sắt không còn tính cứng,
ánh kim, dẻo của sắt mà xốp, giòn nên làm đồ vật bị hỏng.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần đặt vấn đề vào bài.
Bài 25: Tính chất của phi kim.
Ví dụ 1: “Ma trơi” là gì ? Ma trơi thường xuất hiện ở đâu ? Giải thích: Trong

xương của động vật luôn có chứa một hàm lượng photpho. Khi cơ thể động vật chết
đi, nó sẽ phân hủy một phần thành photphin PH3 và lẫn một ít điphotphin P2H4.
Photphin không tự bốc cháy ở nhiệt độ thường. Khi đun nóng đến 150oC thì nó
mới cháy được. Còn điphotphin P2H4 thì tự bốc cháy trong không khí và tỏa nhiệt.
Chính lượng nhiệt tỏa ra trong quá trình này làm cho photphin bốc cháy:
2PH3 + 4O2 → P2O5 + 3H2O
Quá trình trên xảy ra cả ngày lẫn đêm nhưng do ban ngày có các tia sáng của mặt
trời nên ta không quan sát rõ như vào ban đêm. Hiện tượng ma trơi chỉ là một quá
tŕnh hóa học xảy ra trong tự nhiên. Thường gặp ma trơi ở các nghĩa địa vào ban
đêm.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Bài 26: Clo.
Ví dụ 1: Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố lại có mùi khí clo ? Giải
thích: Trong hệ thống nước máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí
clo vào để có tác dụng diệt khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần tác dụng
với nước:

Cl2 + H2O HCl + HClO

Axit hipoclorơ HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng,
sát khuẩn nước. Phản ứng thuận nghịch nên clo rất dễ sinh ra do đó khi ta sử dụng
nước ngửi được mùi clo.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Ví dụ 2 : Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước? Giải thích: Cloramin
là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ giải phóng cho ra khí
Clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HClO.
19


H2O + Cl2 ---> HCl + HClO

HClO có tính oxy hóa rất mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi sinh
vật, làm cho vi sinh vật chết. Cloramin không gây độc hại cho người dùng nước đã
được khử trùng bằng chất này.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Bài 27: Cacbon.
Ví dụ 1: Vì sao than chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy ? Giải thích: Do than
tác dụng chậm với O2 trong không khí tạo CO2, phản ứng này tỏa nhiệt. Nếu than
chất thành đống lớn phản ứng này diễn ra nhiều, nhiệt tỏa ra được tích góp dần khi
đạt tới nhiệt độ cháy của than thì than sẽ tự bốc cháy.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Ví dụ 2: Tại sao khi cơm bị khê, ông bà ta thường cho vào nồi cơm một mẫu than
củi ? Giải thích: Do than củi xốp, có tính hấp phụ nên hấp phụ hơi khét của cơm
làm cho cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho phần tính hấp phụ của cacbon.
Bài 28: Các oxit của cacbon.
Ví dụ 1: Nước đá khô được làm từ cacbon đioxit hóa rắn. Tại sao nó có thể tạo hơi
lạnh được như nước đá ? Giải thích: Vì cacbon đioxit ở dạng rắn khi bay hơi thu
nhiệt rất lớn, làm hạ nhiệt độ của môi trường xung quanh nên tạo hơi lạnh. Đặc biệt
là nước đá khô (không độc hại), được ứng dụng thích hợp để bảo quản những sản
phẩm kỵ ẩm và dùng làm lạnh đông thực phẩm. Dùng đá khô để làm lạnh và bảo
quản gián tiếp các sản phẩm có bao gói nhưng có thể dùng làm lạnh và bảo quản
trực tiếp. Chính chất tác nhân làm lạnh này (CO2) đã làm ức chế sự sống của vi
sinh vật, giữ được vị ngọt, màu sắc hoa quả. Đồng thời hạn chế được tổn hao khối
lượng tự nhiên của sản phẩm do sự bay hơi từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên
men, phân hủy.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Ví dụ 2: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra Giải
thích: Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí cacbonic
20



CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép CO2 hòa
tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt. Khi bạn
mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức bay vào không khí. Vì vậy
các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi. Về mùa hè người ta thường
thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột
không hề hấp thụ khí CO2. Ở trong dạ dày nhiệt độ cao nên CO2 nhanh chóng theo
đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể
làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra CO2 có tác dụng kích
thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho củng cố bài.
Ví dụ 3: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc, khí CO hoặc không có oxi, để
tránh khi xuống giếng bị chết ngạt ? Giải thích: Trong các giếng sâu ở một số vùng
đồng bằng thường có nhiều khí độc CO và CH4 và thiếu oxi. Vì một lí do nào đó
mà ta xuống giếng thì rất nguy hiểm. Đã có rất nhiều trường hợp tử vong do trèo
xuống giếng gặp nhiều khí độc và chết ngạt do thiếu oxi. Điều tốt nhất là tránh phải
xuống giếng, nếu có xuống thì nên mang theo bình thở oxi. Trước khi xuống giếng
cần thử xem trong giếng có nhiều oxi không
Không dùng bếp than để sưởi vì có thể gây tử vong. Khi than cháy sinh ra CO2
nhưng khi ủ bếp than thường sinh ra CO vì thiếu oxi. Khi ở trong nhà đóng kín cửa
lượng CO sinh ra không thoát ra ngoài được, khi nồng độ CO vượt quá mức cho
phép CO kết hợp với hemoglobin trong máu tạo thành hợp chất khá bền, ngăn
không cho hemoglobin trong máu nhận oxi và cung cấp oxi cho tế bào từ đó có thể
gây tử vong.

PHẦN III. KẾT LUẬN
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ là
mục đích hướng tới của từng người giáo viên, nhưng đây không phải là điều đạt
được dễ dàng. Người giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn
21



lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng học sinh. Trong quá trình dạy học: Người
thầy ngoài năng lực, khả năng sư phạm đã có cần phải luôn luôn tích lũy, rút ra
những kinh nghiệm dù rất nhỏ. Phải tìm tòi học hỏi những kinh nghiệm từ sách
báo, tài liệu tham khảo và chính sau những tiết dạy. Biết vận dụng các kinh
nghiệm đã được tích lũy vào quá trình giảng dạy thì hiệu quả dạy học sẽ không
ngừng được nâng lên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SÁCH GIÁO KHOA HÓA HỌC 8 ( Nhà xuất bản giáo dục – Năm 2011 –
Tác giả: Lê Xuân Trọng, Nguyễn Cương, Đỗ Tất Hiển)
22


2. SÁCH GIÁO VIÊN HÓA HỌC 8 ( Nhà xuất bản giáo dục – Năm 2011 –
Tác giả: Lê Xuân Trọng, Lê Xuân Trọng, Nguyễn Cương, Đỗ Tất Hiển )
3. SÁCH GIÁO KHOA HÓA HỌC 9 ( Nhà xuất bản giáo dục – Năm 2011 –
Tác giả: Lê Xuân Trọng, Cao Thị Thặng – Ngô Văn Vụ)
4. SÁCH GIÁO VIÊN HÓA HỌC 9 ( Nhà xuất bản giáo dục – Năm 2011 –
Tác giả: Lê Xuân Trọng, Cao Thị Thặng – Nguyễn Phú Tuấn –Ngô Văn Vụ )
5. 385 CÂU HỎI VÀ ĐÁP VỀ HÓA HỌC VỚI ĐỜI SỐNG ( Nhà xuất bản
giáo dục – Năm 2006 – Tác giả: Nguyễn Xuân Trường)
6. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HÓA HỌC ( Nhà xuất bản đại học sư phạm –
năm 2006 – Tác giả: GS.TSKH Nguyễn Cương – TS. Nguyễn Mạnh Dung)

23




×