MARKETING XÃ HỘI
ĐỀ TÀI: Thay đổi hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook của giới trẻ
hiện nay.
Nhóm 6:
Nguyễn Thị Hải Yến CQ524395 (NT)
Đặng Văn Bình
CQ525304
Trần Quốc Khải
CQ521815
Nguyễn Văn Giang CQ520893
Ngô Minh Thư
CQ523613
PHẦN I: NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH
Bối cảnh sơ bộ
Gần đây, trào lưu facebook được xem như một “cơn lốc” với giới trẻ, điều này có
lẽ không hề sai chút nào bởi theo những con số thống kê không chính thức thì hơn 90%
học sinh sinh viên Việt Nam có sử dụng facebook như một kênh giải trí thường xuyên
thay cho game và âm nhạc. Có người đã cho rằng Facebook có dân số đứng thứ 3 trên thế
giới sau Trung Quốc và Ấn Độ, tương đương với dân số của Mỹ hiện nay. Phải chăng có
nên nhìn nhận, xem xét lại văn hóa sử dụng phương tiện giải trí này?
Tại Việt Nam, số người sử dụng facebook đã tăng nhanh chóng từ 8,5 triệu người
vào tháng 10 năm 2012 lên tới 12 triệu người vào tháng 2 năm 2013. Như vậy, theo tính
toán của mạng Techinasia, số người dùng facebook tăng bình quân là gần 1 triệu người/ 1
tháng. Con số thống kê trên cho thấy face đã trở thành một dòng trào lưu cực kì mạnh mẽ
trên các trang mạng và nó có sức hút ghê gớm với giới trẻ dù cho ở độ tuổi nào. Đa phần
những bạn học sinh ở các trường THPT và sinh viên các trường Đại học tại Hà Nội và
các thành phố khác được hỏi họ đều trả lời là có sử dụng facebook thậm chí có nhiều bạn
còn sử dụng từ 2-3 nick face. Điều này không hề khó hiểu bởi chỉ cần có phương tiện kết
nối Internet như máy tính, điện thoại truy cập mạng được là bạn dễ dàng vào facebook
không một chút khó khăn.
Facebook có nhiều điều hấp dẫn giới trẻ khiến họ dễ dàng bị “nghiện” như: đó là
cộng đồng ảo nên bạn có thể kết bạn được với vô số những người bạn không quen biết
trên toàn thế giới, đó là nơi các bạn có thể chia sẻ với nhau những sở thích, những niềm
vui hay nỗi buồn khó nói trong cuộc sống…Nhiều bạn xem đây như một người bạn chân
thành vì ở đó bạn được thể hiện cái tôi cá nhân, được bình luận và chia sẻ những tấm
hình bạn cho là tâm đắc nhất và hơn nữa có thể những điều này làm bạn được tự tin hơn
khi được là chính mình. Bạn cũng có thể chia sẻ với bạn bè những thông tin hữu ích cho
cuộc sống bằng việc trích dẫn những bài báo có liên quan mật thiết đến đời sống giới trẻ
như: nạn trộm cắp, vấn đề về học tập và đời sống của giới học đường, tình yêu, những
tấm gương sáng trong học tập và trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên facebook cũng là nơi mà ở đó giới trẻ có thể nói bất cứ điều gì, dù đúng,
dù sai, dù thật, dù giả và không ít những người với mục đích xấu đã sử dụng mạng xã hội
để nói xấu, xâm phạm bí mật đời tư, xúc phạm danh dự, nhân phẩm cá nhân, tổ chức...
I.
II. Lý do chọn đề tài
Facebook là nơi để mọi người giao lưu, liên lạc với nhau, nhưng nhiều teen đã biến
đây thành công cụ để “làm màu”, “lấy le”. Thậm chí, nhiều facebooker còn dùng tài
khoản cá nhân của mình để nói xấu, sỉ vả các bạn cùng trang lứa. Quy mô hơn, nhiều
người còn lập hẳn những page chuyên đi bôi xấu, hạ nhục... người khác. Trào lưu lập
page anti đang là trào lưu đang nở rộ thời gian qua, mang lại nhiều hệ lụy xấu. Ảnh
hưởng lớn đến những người bị nói xấu và ngay cả cho những người nói xấu người khác.
Đã có nhiều vụ việc đáng tiếc xẩy ra trong thời gian qua đã minh chứng cho những tác
hại và hệ lụy mà việc tung tin đồn, nói xấu người khác trên facebook. Điển hình như vụ
mới đây, dư luận xã hội rúng động bởi vụ một nữ sinh Đà Nẵng uống thuốc ngủ an thần
để tự tử vì bị nói xấu trên page “Bộ mặt thật của các hot teen Đà thành”. Tuy vậy may
mắn là gia đình đã kịp phát hiện và đưa bạn nữ sinh này đi cấp cứu. Vụ việc dấy lên hồi
chuông cảnh tỉnh cho trào lưu lập page anti, nói xấu nhau trên facebook. Chính vì thế
những page anti, nói xấu như thế này sẽ trở thành mối hiểm họa khôn lường nếu không
ngăn chặn kịp thời. Sự việc tạm thời lắng xuống khi những admin của page anti này bị cơ
quan công an xử lí. Đây là bài học cảnh tỉnh cho những bạn teen trót dùng facebook để
bôi xấu người khác.
Do đó, với thực trạng đáng báo động như hiện nay, nhóm thực hiện đề tài này với
mong muốn sẽ giúp giới trẻ hiểu rõ tác hại của việc tung tin đồn, nói xấu người khác, từ
đó giúp nhận thức được hành vi của mình và có những biện pháp để thay đổi những hành
vi đó.
Động cơ, phanh hãm của công chúng mục tiêu
1. Ai là công chúng mục tiêu?
III.
Công chúng mục tiêu mà nhóm muốn hướng đến là những người trẻ có độ tuổi từ
14 đến 25, còn đang là học sinh, sinh viên hoặc mới bắt đầu ra trường. Đối tượng công
chúng này thường xuyên sử dụng facebook (một nơi có tính tương tác cao) như một
công cụ giải trí, công cụ thiết lập mối quan hệ với bạn bè. Đây cũng là đối tượng chưa
được tiếp xúc nhiều với xã hội, suy nghĩ còn khá non trẻ và ngây thơ, chưa lường trước
được hết những hậu quả có thể xảy ra với những việc mình làm, còn hành động theo
cảm tính và chưa thực sự để ý đến suy nghĩ của những người xung quanh.
2. Động cơ để thực hiện hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook của công
chúng mục tiêu
- Động cơ hưởng thụ: người tung tin đồn, nói xấu trên facebook để xả cơn giận hoặc
thỏa được nỗi lòng ghen ghét đối với người bị tung tin đồn, nói xấu. Hay một hành
vi khác của động cơ hưởng thụ như người dùng có thể ngồi một chỗ sử dụng máy
tính hay điện thoại mọi lúc mọi nơi để cập nhật thông tin thời sự cũng như thông
tin về bạn bè mà ko cần có mặt tại các nơi xảy ra nhờ các thong tin mà các bạn
dùng facebook khác cập nhật lên.
- Động cơ vì người khác: giúp đỡ người khác biết được, tránh xa hoặc có cách ứng
xử thích hợp với những cá nhân, tổ chức bị tung tin đồn, nói xấu vì những mặt
tiêu cực của họ ( vd: như các bạn bán tăm để ủng đọ người nghèo. Mình nói tung
tin đồn cho các tân sinh viên tránh xa họ vì những hành vi bán tăm không phải để
ủng hộ người nghèo ).
- Động cơ thể hiện: muốn được làm người tốt, muốn được người khác tôn trọng và
đánh giá cao mình hơn. Khi mình đưa những thông tin hữu ích lên, người đọc cảm
thấy nó có ích đối với người ta thì người ta sẽ đánh giá cao bản thân mình. Một ví
dụ khác là người dung có thể tự do chia sẻ những bức hình đẹp, những thành tích
tốt của mình lên cho mọi người thấy. Họ sẽ được thể hiện bản thân, tự tin hơn trên
mạng so với đời thường.
- Động cơ không rõ mục đích: Một số người khi tham gia facebook thường xuyên
chia sẻ, like (thích) hay comment( bình luận) những status (trạng thái) của những
cá nhân hay page (trang) bôi nhọ nói xấu một người hay một nhóm người nào đó.
Mặc dù không biết những lới nói xấu đó với mục đích tốt hay xấu, là thật hay giả,
đồng thời cũng không biết những người bị đưa ra mổ xẻ, nói xấu là ai. Họ chỉ vào
hùa theo trào lưu hoặc ngây thơ tin theo, điều này càng làm cho tin đồn lan xa hơn
và ảnh hưởng xấu đến đời sống của những người bị nói xấu. Họ cho rằng mình chỉ
đang “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”, mà không nghĩ rằng họ đang
góp phần bôi nhọ, huỷ hoại nhân cách và đời sống của người khác. Chỉ trong vòng
vài tiếng đồng hồ, những page unti có thể lên đến hàng trăm nghìn like, những stt
nói xấu hay hình ảnh bôi nhọ có thể lên đến hàng nghìn like và hàng trăm lượt
chia sẻ. Điều đó cho thấy, còn quá nhiều người hành động chỉ đi theo trào lưu.
- Động cơ vì lợi ích của Facebook: Facebook thực chất có rất nhiều lợi ích tốt mà
người dung có thể tận dụng được nó mà ko quá xa đà thì đây không có gì là xấu
mà thậm trí còn hỗ trợ cho người dung như: Ghi nhớ ngày sinh nhật bạn bè, người
thân; là nơi để có thể up ảnh, lưu trữ ảnh cá nhân mà có thể tải về khi cần thiệt;
lien lạc với bạn bè thường xuyên và dễ dàng hơn; sử dụng các ứng dụng và game
tích hợp được.
3. Động cơ có thể khiến cho công chúng mục tiêu thay đổi hành vi của mình:
- Nhận ra người mà mình tung tin đồn, nói xấu không phải là người xấu hoặc là
những lời đồn không đúng sự thật:
Không hẳn là những lời đồn đại là luôn sai hay luôn đúng, tuy nhiên đó có thể là
những lời phóng đại không đúng hoặc quá đáng so với sự thật. Hoặc là đó chỉ là những
lời nói từ những hiểu nhầm giữa bạn bè hoặc người thân với nhau.
-
Nhận ra hành vi của mình ảnh hưởng rất xấu tới cuộc sống thường ngày của những
người bị tung tin đồn, nói xấu.
Sau khi những lời đồn được tung ra trên một trang mạng có tính lan truyền rất cao
như facebook, hầu như người thân, bạn bè và những người xung quanh người bị tung tin
đồn, nói xấu sẽ đều biết. Dù chuyện đó là đúng hay sai thì cũng sẽ có những ảnh hưởng
không tốt đến đời sống của người bị nói xấu. Việc này có thể đi theo một chiều hướng
xấu như: Những người tin thì sẽ xa lánh, hùa vào nói xấu hoặc châm chọc người đó.
Những người không tin hoặc không quan tâm, mặc dù không quan tâm nhưng cũng sẽ có
những cảnh giác nhất định, cũng có thể sẽ suy nghĩ “không có lửa làm sao có khói”. Gia
đình, bạn bè, thầy cô hay người thân cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất đinh, có thể
không tin tưởng người đó nữa hoặc mắng nhiếc người đó,…
Nếu câu chuyện đi theo một chiều hướng xấu hơn, người nói xấu hay tung tin đồn
có thể hả hê cũng có thể cảm thấy mình quá đáng hay sự việc đã đi quá giới hạn, họ sẽ
ngưng hành vi nói xấu lại, hoặc là họ bắt buộc phải có những giải thích thoả đáng cho
việc này.
-
Nhận ra hành vi của mình không chỉ ảnh hưởng đến người khác mà còn ảnh hưởng
đến cả bản thân mình:
Việc tung tin,nói xấu nó có thể sẽ ảnh hưởng, tác hại lớn đến người bị nói xấu và
ngay cả với chúng ta, những người đi nói xấu người khác. Nếu chúng ta nói xấu một
người khác, chúng ta sẽ được biết đến như là một người thường gây ra sự bất hòa. Người
ta sẽ không muốn tâm sự với chúng ta vì họ sợ chúng ta sẽ nói với người khác, thêm thắt
những lời đánh giá của ta khiến cho họ bị xem là không tốt.
Chúng ta phải đối mặt với người bị chúng ta tung tin, nói xấu khi họ phát hiện ra
những gì chúng ta đã nói, và phiền phức hơn là lúc họ nghe được những gì chúng ta đã
nói xấu về họ thì những điều đó đã bị phóng đại lên nhiều lần. Người đó có thể nói với
người khác về lỗi của mình để trả đũa.
Một số người có thể sẽ bị kích động khi nghe nói về lỗi của người khác. Chẳng
hạn, nếu một người ở trong văn phòng hoặc trong nhà máy nói xấu sau lưng người khác,
mọi người ở tại nơi làm việc có thể sẽ tức giận và công kích người đã bị tung tin, nói xấu.
Điều này có thể sẽ làm dấy lên việc nói xấu sau lưng người khác ở sở làm và gây ra tình
trạng bè phái. Điều này gây tổn hại đến một môi trường làm việc hòa hợp.
Chính bản thân ta cũng không có hạnh phúc khi mình luôn phanh phui lỗi của
người khác. Khi chúng ta tập trung vào những điểm tiêu cực, hoặc là những sai lầm,
chính tâm của chúng ta cũng không an vui. Những ý nghĩ rằng người này xấu, người kia
không tốt,... thường không có lợi cho tinh thần của chúng ta.
Khi ta tung tin, nói xấu người khác tức là chúng ta đã gây ra tác nhân để cho người
khác nói xấu mình. Điều này có thể xuất hiện ngay trong đời này nếu người mà ta phê
bình muốn hạ nhục mình, hoặc có thể xuất hiện trong tương lai khi mình bị người khác
buộc tội một cách vô lối hoặc là bị vu oan. Khi chúng ta là người nghe những lời nói thô
tục, chúng ta cần nhớ rằng đấy là kết quả từ hành động của chính chúng ta, chúng ta đã
tạo ra nhân, nay đã đến lúc phải nhận quả. Chúng ta đã gây ra sự tiêu cực ở trong vũ trụ
và trong tâm thức của mình, bây giờ nó trở lại với chúng ta. Không có lý do gì để giận
hay buộc tội người khác khi chúng ta là người đã tạo ra nguyên nhân chính yếu đối với
rắc rối của mình.
4. Phanh hãm khiến cho công chúng mục tiêu không thay đổi hành vi của mình:
Do ghen ghét, đố kị người khác nên không muốn thay đổi hành vi tung tin đồn, nói
xấu của mình.
Những công chúng mục tiêu này rất khó có thể thay đổi hành vi, trừ khi họ nhận ra
được hậu quả xấu của việc mình làm hoặc có sự can thiệp của những người khác khiến
họ phải dừng hành vi tung tin đồn, nói xấu của mình.
- Do mình nghĩ những thông tin mà mình tung tin đồn , nói xấu giúp đỡ được cho
người khác.
Có thể những tin đồn mà họ đưa ra là tin đồn đúng sự thật, khi đó những thong tin
này giúp cảnh tình người khác. Nhưng đôi khi họ ngây thơ tin rằng những tin đồn mà
mình đang trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra là đúng, khi đó họ cho rằng mình đang giúp đỡ
những người xung quanh nhưng thực ra họ đang gây tác động xấu đến xã hội. Những
người này có thể dễ dàng cảnh tỉnh, chỉ cần để họ nhận ra sự thật hoặc tác hại của việc họ
đang làm, họ có thể sẽ thay đổi hành vi của mình.
- Do muốn xả stress, muốn được người khác tôn trọng mình, hoặc muốn cho người
khác biết, nên ko muốn thay đổi hành vi tung tin, nói xấu và muốn theo các trào
lưu nên lập ra các fanpage tung tin đồn, nói xấu ( vd: lập ra các fanpage các ca sỹ,
những người nổi tiếng vì hành động không đúng của họ,….).
-
PHẦN II: NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG
PHẦN I: NỘI DUNG
I.
Giới thiệu chung về cuộc nghiên cứu
Facebook đang là mạng xã hội phổ biến nhất Việt Nam. Công nghệ ngày càng
phát triển, xã hội đang dần thay đổi, internet cũng đã dần trở thành một phần không
thể thiếu trong cuộc sống. Facebook trở thành “một thế giới khác” ngoài cuộc sống
đời thực của hầu hết các bạn trẻ. Tuy chỉ là một công cụ giải trí, giao lưu kết bạn, lưu
giữ kỉ niệm, giải toả tâm trạng,.. nhưng đôi lúc “Thế giới facebook” bị làm dụng trở
thành nơi cho các bạn trẻ tung tin đồn, nói xấu người khác. Càng kết nối dễ dàng thì
các tin đồn các dễ lan nhanh. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống ảo trên
mạng mà đôi khi nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc đời thực của những nạn
nhân. Nó cũng không chỉ ảnh hưởng đến mỗi mình người bị tung tin đồn, nói xấu mà
còn ảnh hưởng đến cả gia đình, bạn bè của họ; ảnh hưởng đến những người xung
quanh, ảnh hưởng đến cộng đồng facebook và ảnh hưởng đến cả người đi tung tin
đồn, nói xấu người khác. Vì thế, chúng tôi tiến hành cuộc nghiên cứu này, để tìm hiểu
rõ hơn về hành vi tung tin đồn, nói xấu người khác và hậu quả mà hành vi này gây ra
đồng thời đưa ra những kiến nghị, giải pháp mà chúng tôi cho là tốt nhất để có thể
góp phần thay đổi phần nào hành vi tung tin đồn, nói xấu người khác.
1. Bối cảnh nghiên cứu
Càng ngày, càng xuất hiện những vụ việc liên quan đến hành vi tung tin đồn,
nói xấu người khác trên facebook ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người bị
tung tin đồn, nói xấu. Có thể những tin đồn đó là đúng sự thật, cũng có thể những tin
đồn đó đã được phóng đại lên, tuy nhiên hành vi này vẫn có những ảnh hưởng xấu
đến những người bị nói xấu. Ví dụ như vụ việc của Bà Tưng, của Kun hay Dương
Sokiu,… Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu hành vi tung tin
đồn, nói xấu của giới trẻ trên facebook hiện nay.
2. Vấn đề và các câu hỏi nghiên cứu
• Vấn đề nghiên cứu:
Hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook của giới trẻ hiện nay.
• Câu hỏi nghiên cứu:
Hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook của giới trẻ hiện nay đang diễn ra
như thế nào?
Hành vi tung tin đồn nói xấu đó ảnh hưởng tới người bị nói xấu, người đi nói
xấu và những người xung quanh với mức độ như thế nào?
Thái độ cũng như hành vi của người khác khi bị nói xấu hoặc bắt gặp những
hành vi đó là gì?
Phương án và cách giải quyết của các bạn trẻ khi gặp phải những hành vi đó?
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu về hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook đang diễn ra trong thời
gian qua.
Hiểu biết về mức độ ảnh hưởng và những thay đổi về hành vi của các bạn trẻ
khi bị nói xấu hoặc gặp phải hành vi nói xấu của người khác
Tìm hiểu các phương án giải quyết của đối tượng công chúng mục tiêu.
II.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Loại thông tin và nguồn thông tin cần thu thập
Dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu từ các trang web thống kê, các trang báo điện tử,
sách báo…
Dữ liệu sơ cấp: Điều tra phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng thông qua
bảng hỏi mà nhóm thiết kế.
2. Phương pháp thu thập
Thu thập dữ liệu thứ cấp
Điều tra thực trạng tung tin đồn, nói xấu thông qua các thông tin trực tuyến
3.
4.
5.
III.
trên internet, báo, tạp chí; thông tin về những vụ việc nói xấu, tung tin đồn
không hay đã xảy ra, gây hậu quả xấu đến đời sống những người bị nói xấu.
Theo dõi các trang web mạng, đánh giá những phản hồi của người dung
facebook đối với những vụ việc đã xảy ra.
Thu thập dữ liệu sơ cấp: Điều tra phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi.
Thiết kế mẫu nghiên cứu
Tổng thể mục tiêu: Người dùng facebook từ độ tuổi 14 đến 25 tuổi trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu: Các phần tử trong mẫu được chọn theo phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
Kích thước mẫu: 100 phần tử.
Thiết kế bảng hỏi
Kết hợp câu hỏi đóng và câu hỏi mở trong bảng hỏi phỏng vấn.
Số lượng câu hỏi: 16 câu
Thứ tự câu hỏi: đi từ câu hỏi tổng quát trước sau đó mới đến các câu hỏi cụ
thể.
Cấu trúc bảng hỏi: 4 phần
Phần mở đầu: Tiêu đề cuộc nghiên cứu, lời giới thiệu, mục đích nghiên
cứu, cam kết giữ bí mật, lời cảm ơn.
Phần nội dung: Các câu hỏi nghiên cứu, đi từ câu hỏi mở đầu thăm dò
đến câu hỏi chi tiết.
Phần quản lý: Thời gian, địa điểm tiến hành, thông tin người trả lời
phỏng vấn.
Lời cảm ơn.
Phân tích dữ liệu
Đối với dữ liệu thứ cấp: Đánh giá, lựa chọn thông tin hữu ích.
Đối với dữ liệu sơ cấp: Sử dụng phân tích định lượng và phần mềm phân
tích dữ liệu SPSS.
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế mẫu nghiên cứu
Tổng thể mục tiêu: người tiêu dùng ở độ tuổi từ 14 đến 25 tuổi đang sinh sống,
học tập trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu: các phần tử trong mẫu được chọn theo phương pháp
chọn mẫu phi xác suất. Những người được phỏng vấn chủ yếu đều là phỏng
vấn online trên facebook, họ đang sử dụng facebook hoặc những người nằm
trong độ tuổi thích hợp.
Các phần tử được lựa chọn theo những yếu tố đặc điểm có thể đánh giá được
mức thu nhập, điều kiện sống của họ: phương tiện đi lại, dáng vẻ,phong cách
ăn mặc, cách nói chuyện,….
Kích thước mẫu: 100 phần tử
Kiểm tra quá trình chọn mẫu: thường kiểm tra trên các mặt sau: Kiểm tra đơn
vị trong mẫu có đúng đối tượng nghiên cứu không? (vì thường mắc sai lầm ở
khâu chọn đối tượng: do thu thập thông tin ở nơi không thích hợp, ở những
người không thích hợp, hoặc bỏ qua thông tin của những người lẽ ra phải
được phỏng vấn…). Kiểm tra sự cộng tác của người trả lời (hỏi càng dài thì
sự từ chối trả lời càng lớn). Kiểm tra tỷ lệ hoàn tất (xem đã thu thập đủ số đơn
vị cần thiết trên mẫu chưa) : trong phỏng vấn bằng thư có khi thư bị trả lại do
không có người nhận, trong phỏng vấn bằng điện thoại có thể không tiếp xúc
được với người cần hỏi vì họ không có mặt hay họ không có điện thoại.
2. Thiết kế bảng hỏi
• Kết hợp giữa các loại câu hỏi:
Câu hỏi đóng :Là dạng câu hỏi mà ta đã cấu trúc sẵn phương án trả lời.
Câu hỏi mở :Là dạng câu hỏi không cấu trúc sẵn phương án trả lời, do đó người
•
•
•
trả lời có thể trả lời hoàn toàn theo ý họ, và nhân viên điều tra có nhiệm vụ phải
ghi chép lại đầy đủ các câu trả lời.
Câu hỏi phản đối: Là dạng câu hỏi mà câu trả lời có dạng: “ có hoặc không”.
Câu hỏi xếp hạng thứ tự: Là dạng câu hỏi đưa ra sẵn các phương án trả lời, và để
cho người trả lời lựa chọn, so sánh và xếp hạng chúng theo thứ tự.
Câu hỏi đánh dấu tình huống trong danh sách: Là dạng câu hỏi đưa ra sẵn danh
sách các phương án trả lời, và người trả lời sẽ đánh dấu vào những đề mục phù
hợp với họ.
Câu hỏi dạng bậc thang: Là dạng câu hỏi dùng thang đo thứ tự hoặc thang đo
khoảng để hỏi về mức độ đồng ý hay phản đối, mức độ thích hay ghét…của người
trả lời về một vấn đề nào đó .
Do chủ yếu phỏng vấn cá nhân trực tiếp nên bảng hỏi có thêm những câu hỏi hơi
dài hoặc câu hỏi nêu ý kiến riêng của người được hỏi.
Số lượng câu hỏi: 16 câu.
Thứ tự câu hỏi: đi từ câu hỏi tổng quát trước sau đó mới đến các câu hỏi cụ thể.
Câu hỏi mở đầu: Có tác dụng tạo thiện cảm để tạo nên sự hợp tác của người trả lời
lúc bắt đầu buổi phỏng vấn, gợi ra đối tượng tìm hiểu của cuộc phỏng vấn.
Câu hỏi định tính: Có tác dụng xác định rõ đối tượng được phỏng vấn
Câu hỏi hâm nóng: Có tác dụng gợi nhớ để tập trung vào chủ đề mà bảng câu hỏi
•
•
đang hướng tới.
Câu hỏi đặc thù: Có tác dụng làm rõ nội dung cần nghiên cứu
Câu hỏi phụ: Có tác dụng thu thập thêm thông tin về đặc điểm nhân khẩu người
trả lời (giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp,..)
Cấu trúc bảng hỏi: 4 phần.
Phần mở đầu: tiêu đề cuộc nghiên cứu, lời giới thiệu, mục đích nghiên cứu, cam
kết giữ bí mật, lời cảm ơn.
Phần nội dung: các câu hỏi nghiên cứu, đi từ câu hỏi mở đầu thăm dò đến câu hỏi
chi tiết.
Phần quản lý: thời gian, địa điểm tiến hành, thông tin người trả lời phỏng vấn.
Lời cảm ơn.
Các loại thang đo đã được sử dụng tạo câu hỏi phỏng vấn: thang đo định danh ,
thang đo sắp xếp thứ bậc, thang đo lường khoảng cách.
3. Phỏng vấn
Thời gian tiến hành phỏng vấn: thứ 7, chủ nhật, thứ 2 ngày 21, 22, 23 tháng 9.
Địa điểm phỏng vấn: vì yêu cầu cần tiếp cận nhiều độ tuổi khác nhau nên lựa
chọn nhiều địa điểm phỏng vấn: công viên về chiều khi có nhiều người đi dạo
và tập thể dục; đến tận nhà do được giới thiệu, thông báo trước; cổng các
trường học, trên facebook, …
Quy mô mẫu đã lựa chọn là 100 mẫu, mỗi thành viên 20 mẫu nhưng mỗi thành
viên đảm nhận ít nhất 30 phiếu điều tra để sau khi kết thúc điều tra sẽ lọc ra
những phiếu không hợp lệ. Tất cả các thành viên đã hoàn thành đầy đủ số
phiếu được yêu cầu là 30 phiếu mỗi người.
Điều tra thử để trắc nghiệm bảng câu hỏi
Việc điều tra được tiến hành trên một mẫu nhỏ được chọn ra từ tổng thể mẫu cần
nghiên cứu, để xem người trả lời có hiểu và trả lời đúng không, thao tác người phỏng
vấn đã hợp lý chưa, làm tốt nhiệm vụ không, đánh giá thông tin được thu thập như thế
nào, và xác định thời gian cho thực hiện phỏng vấn một người. Sau khi điều tra thử sẽ
xử lý và phân tích dữ liệu để qua đó chỉnh sửa, loại bỏ, bổ sung, thay đổi câu hỏi.
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình điều tra phỏng vấn
Thuận lợi
• Hầu hết các bạn trẻ đều sử dụng facebook và biết đến những vấn đề tung tin đồn,
•
nói xấu trên facebook.
Khi giới thiệu là sinh viên trường Đh KTQD đi điều tra phỏng vấn lấy số liệu phục
vụ cho môn học thì người được phỏng vấn có thái độ tích cực hơn trong quá trình
trả lời phỏng vấn.
Khi được hỏi những người có nhận thức tốt về việc văn hóa sử dụng facebook thì
mọi người rất nhiệt tình trả lời
Khó khăn
• Đối tượng điều tra từ chối không trả lời phỏng vấn vì nhiều lý do: Họ ngại mất
thời gian, họ ngại trả lời, họ sợ bị lừa đảo, …
• Vì vấn đề tung tin đồn, nói xấu trên facebook là vấn đề nhạy cảm và động chạm
đến nhiều người nên những người được hỏi còn ngại trả lời hoặc trả lời không
đúng sự thật.
• Nhiều người ko hiểu được bản chất của cuộc phỏng vấn là lấy số liệu tham khảo
mà họ còn cho rằng cuộc phỏng vấn có những mục đích ko tốt khác dẫn đến việc
họ từ chối tham gia phỏng vấn.
• Một số người đồng ý tham gia phỏng vấn nhưng khi đi vào câu hỏi, họ không đọc
kĩ câu hỏi mà trả lời qua loa cho xong chuyện hoặc đánh dấu không đúng vào câu
hỏi trắc nghiệm dẫn đến kết quả có phần sai lệch so với kết quả đáng có.
• Một số người ko những ko tham gia cuộc phỏng vấn mà còn tỏ thái độ bất lịch sự
hoặc xua đuổi
•
4. Biên tập, mã hóa dữ liệu
Nhập dữ liệu vào Excel sau đó mới copy vào SPSS.
Các phiếu điều tra được đánh dấu theo thứ tự ở mục “Phiếu số” nhằm hạn chế
IV.
1.
nhầm lẫn trong quá trình nhập dữ liệu và dễ dàng kiểm tra lại khi thấy dữ liệu có
vấn đề.
Quá trình nhập dữ liệu mất khá nhiều thời gian và đòi hỏi sự kiên trì cũng như cẩn
thận của người nhập.
Trong quá trình nhập, mã hóa DL vẫn còn một số sai sót, sau khi chạy kết quả
mới phát hiện ra sai sót và tìm cách sửa lại số liệu cho đúng.
Sau khi xuất các bảng biểu mong muốn thì thực hiện biên tập lại bằng tiếng Việt
và dùng số liệu để tạo các loại biểu đồ bằng Power Point.
5. Phân tích dữ liệu
Đối với dữ liệu thứ cấp: Đánh giá, lựa chọn thông tin hữu ích.
Đối với dữ liệu sơ cấp: Sử dụng phân tích định lượng và phần mềm phân tích dữ
liệu SPSS tiến hành bảng hóa các dữ liệu đã thu thập được, xây dựng các phân bố
tần suất, giá trị trung bình và độ phân tán của các biến số chính. Chạy phân tích
dữ liệu và thu được bảng và các số liệu phản ánh về độ tuổi, giới tính, thu nhập,
các thông số liên quan đến người tiêu dùng đánh giá được mức độ ảnh hưởng của
các yếu tố đó đến thói quen tiêu dùng của họ.
Sử dụng phần mềm Excel để nhập dữ liệu từ bảng hỏi phỏng vấn
Sử dụng phần mềm Power Point để thiết kế Slide thuyết trình
Kết quả nghiên cứu
Sơ lược về công chúng mục tiêu
Công chúng mục tiêu mà nhóm muốn hướng đến là những người trẻ có độ tuổi
từ 14 đến 25, còn đang là học sinh, sinh viên hoặc mới bắt đầu ra trường. Đối tượng
công chúng này thường xuyên sử dụng facebook (một nơi có tính tương tác cao) như
một công cụ giải trí, công cụ thiết lập mối quan hệ với bạn bè. Đây cũng là đối tượng
chưa được tiếp xúc nhiều với xã hội, suy nghĩ còn khá non trẻ và ngây thơ, chưa
lường trước được hết những hậu quả có thể xảy ra với những việc mình làm, còn hành
động theo cảm tính và chưa thực sự để ý đến suy nghĩ của những người xung quanh.
Bảng 1: Cơ cấu giới tính đối tượng điều tra
Nam
52,9%
Nữ
47,1%
Nhóm đã cố gắng cân bằng nhất có thể giữa tỉ lệ nam và nữ trong số những
người được hỏi nhằm mang đến kết quả trung thực nhất cho cuộc nghiên cứu. Trong
đó, có 52,9% đối tượng được hỏi là nam và 47,1% đối tượng được hỏi là nữ. Tỉ lệ này
khá là cân bằng.
Bảng 2: Lượng người sử dụng facebook trong những đối tượng được điều tra
Tiêu chí
Tần suất
Có
99,0 %
Không
1,0 %
Tổng
100%
Từ kết quả trên cho thấy rằng có phần lớn người được phỏng vấn ngẫu nhiên sử
dụng FB chiếm 99% và chỉ có 1% là không dùng FB. Điều này cho thấy mạng xã hội nói
chung và FB nói riêng có tầm ảnh hưởng khá lớn tới cuộc sống con người, nó như cái
một công cụ thiết yếu của con người trong đời sống. Và facebook đã trở thành thế giới
thứ hai sau thế giới thực đối với một số người.
Bảng 3: Tần suất sử dụng fb
Tiêu chí
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Đôi khi
Tổng
Tần suất
63,5%
24 %
6,7%
5,8%
100%
Theo kết quả cho thấy, mức độ sử dụng FB rất thường xuyên là khá lớn chiếm
63,5%. Ta thấy rằng người dùng đang bị sa đà và tiêu tốn thời gian rất lớn vào FB, có
nghĩa là thời gian làm các công việc khác cũng như vui chơi, giải trí bị hạn chế. Người
dùng nên xem xét lại hành vi sử dụng Fb không có quy củ và hợp lý của mình để điều
chỉnh hành vi sử dụng FB. Đây có thể xem như là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi
tung tin đồn, nói xấu trên facebook. Càng nhiều “con nghiện” facebook thì sẽ càng có
nhiều hành vi xấu như thế này diễn ra.
Bảng 4: Việc phân bổ thời gian sử dụng facebook theo từng mục đích
Tiêu chí
Thời gian nói chuyện với bạn bè
Thời gian giải toả tâm trạng
Thời gian giải trí chơi game
Thời gian lưu trữ kỉ niệm
Tổng
Tần suất
34,8%
16,7%
19,7%
28,8%
100%
Từ bảng 3 và bảng 4 cho thấy sự liên hệ chặt chẽ trong việc mục đích sử dụng Fb
với thời gian dành cho nó. Ví dụ như mục đích nói chuyện với bạn bè là lớn nhất và
tương đồng với nó thì người dùng Fb dành nhiều thời gian cho việc này nhất chiếm
34,8%. Và hầu như người dùng đều sử dụng facebook với các mục đích còn lại.
2. Thực trạng về việc sử dụng fb của giới trẻ hiện nay và những vấn đề liên
quan đến hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
Đến tháng 8/2013, tại Việt Nam đã có 19,6 triệu người dùng Facebook, chiếm
21,42% dân số và chiếm tới 71,4% người sử dụng Internet.
Việt Nam đang là nước đứng thứ 16 trên thế giới về tỉ lệ tăng trưởng lượng
người sử dụng Facebook tính đến tháng 7/2013.
Những con số ấn tượng trong kết quả nghiên cứu của Socialbakers &
SocialTimes.Me -2013 vừa được công bố tại Hội thảo Toàn cảnh CNTT-TT Việt Nam
lần thứ 18 - VIO 2013 diễn ra ở TP.HCM.
Có thể nói Facebook vẫn đang phát triển mạnh tại Việt Nam: chỉ sau gần 1
năm, tổng lượng người dùng Facebook đã tăng gấp hơn 2 lần. Quay lại thời điểm cách
đây gần 1 năm, thống kê nghiên cứu từ WeAreSocial về thị trường Internet Việt Nam
cho biết, tính đến tháng 10/2012, với 8,5 triệu thành viên, Facebook đã vượt qua Zing
Me (8,2 triệu thành viên) để trở thành mạng xã hội có nhiều người dùng nhất Việt
Nam. Tính trên toàn thế giới, Việt Nam là quốc gia mà Facebook có thị phần tăng
trưởng nhanh nhất, với tốc độ 146% trong 6 tháng (từ tháng 5 - 10/2012), trung bình
cứ 3 giây thì Facebook có 1 người dùng Việt Nam mới.
Link nguồn: />Cùng với sự phát triển của facebook, càng ngày càng xuất hiện nhiều những
hành vi được cho là không “đẹp” trên facebook, điển hình là hành vi tung tin đồn, nói
xấu trên facebook. Đến mức, một số trường học đã có những quy định rõ ràng và cụ
thể về những hoạt động của học sinh trong thế giới facebook, thế giới được xem là
không gian tự do của học sinh.
Trường THPT Dân lập Lương Thế Vinh (Hà Nội) vừa đưa ra văn bản “Những
điều cấm kỵ khi lên Facebook” dành cho học sinh trong trường.
Văn bản nêu rõ 4 điều: Tuyệt đối không được nói tục, chửi bậy hoặc văng bậy,
kể cả chửi bậy bằng những từ viết tắt… Phải sử dụng ngôn từ trong sáng, thuần việt;
Tuyệt đối không dùng Facebook để nói xấu bất cứ ai; Chỉ like Status khi đã đọc kỹ
nội dung của nó. Nếu like những Status có nội dung xấu, chủ nhân Facebook sẽ bị
quy trách nhiệm. Bởi vậy, cần phải biết đấu tranh, bày tỏ quan điểm trước Status có
nội dung xấu hoặc không lành mạnh; Tuyệt đối, không được để bạn bè hiểu lầm khi
đọc Status. Bởi vậy, viết Status phải rõ ràng.
Nhà trường cũng lưu ý học sinh: Facebook là mạng chia sẻ, vui buồn đều có thể
sẻ chia. Tuy nhiên, việc chia sẻ này làm như thế nào là đúng tùy thuộc vào sự thông
minh, hiểu biết của mỗi người. Bởi thế, người sử dụng Facebook luôn phải cân nhắc
để thể hiện sự thông minh và hiểu biết của mình.
Facebook cũng là nơi thể hiện sự văn hóa của mỗi cá nhân, bởi vậy nên cân
nhắc kỹ trước khi lên like vào một comment nào đó, hoặc viết status thể hiện tâm
trạng của bản thân. Facebook không phải là nhật ký, bởi thế mọi riêng tư không nên
đưa nên Facebook….
Link nguồn: />3. Hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook và suy nghĩ của những người đi
nói xấu
Bảng 5: Ảnh hưởng của việc sử dụng facebook thường xuyên đến hành vi tung tin
đồn, nói xấu trên facebook
Làm ảnh hưởng tới
Hình ảnh người
Mức độ
khác
Sử dụng FB
Rất thường xuyên
Thường
Thỉnh thoảng
Đôi khi
Đã từng
Chưa từng
20
0
0
0
46
25
7
6
Dựa vào
bảng cho
thấy, tất
cả
những người đã từng tung tin đồn nói xấu người khác đều là những người sử dụng FB rất
thường xuyên. Liệu có phải do mức độ sử dụng FB mà làm cho người dùng có hành vi
tung tin đồn nói xấu?
Phần lớn người đã dung FB thì đề ở múc độ rất thường xuyên hoặc thường xuyên,
kể cả người tung tin đồn hay người mình được nghe. Có lẽ do FB sử dụng khá dễ dàng và
nhiều lợi ích nên người dung có thể bỏ ra một thời gian lớn để sử dụng nó.
Bảng 6: Lượng người đã từng thực hiện hành vi tung tin đồn, nói xấu trong số
những đối tượng được điều tra
Tiêu chí
Đã từng
Chưa từng
Tổng
Tần suất
18,3%
81,7%
100%
Nhờ bảng kết quả trên cho thấy lượng người đã từng có hành vi nói xấu làm ảnh
hưởng tới người khác trên FB chỉ chiếm một phần nhỏ 18,3%. Đây là những con người
làm mất đi những mục đích tốt mà FB đề ra. Chúng ta muốn có một môi trường FB lành
mạnh và trong sạch thì chủ yếu tập trung thay đổi hành vi và thái độ của những người
trong số đã từng làm ảnh hưởng tới người khác này.
Bảng 7: Những đối tượng có thể bị ảnh hưởng bởi hành vi tung tin đồn, nói xấu
trên facebook
Tiêu chí
Bạn bè
Người thân
Người có ngoại hình xấu
Tổng
Tuần suất
57,1%
25,7%
17,1%
100%
Phần lớn hành vi tung tin đồn nói xấu đề nhắm tới bạn bè với 57,1% và tiếp là
người thân với 25,7%, thật bất ngờ khi những hành vi tung tin đồn nói xấu lại lại chủ yếu
nhắm vào người quen, người thân mà ít nhắm tới người có ngoại hình xấu gần như không
quen biết. Nếu hành vi tung tin đồn nói xấu ngày càng tăng thì khả năng rạn nứt tình cảm
giữa bạn bè và người thân là rất lớn. Điều nay cũng là một dấu hiệu đáng báo động về
mối quan hệ chặt chẽ giữa con người với con người. Thế giới càng phát triển, con người
càng bị cuốn theo sự phát triển đó thì tình cảm giữa người với người càng dễ dàng thay
đổi theo chiều hướng xấu đi, họ không còn tin tưởng, quan tâm, yêu thương nhau nhiều
như trước nữa.
Bảng 8: Lí do thực hiện hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
Tiêu chí
Vì quá bức xúc
Vì lí do khác
Tổng
Tần suất
47,6%
52,4%
100%
Từ kết quả trên có thể thấy mọi người thường có những hành động gây ảnh hưởng
đến hình ảnh người khác do quá bức xúc với các việc làm, lời nói của người bị nói xấu,
chiếm tới 47,6%. Đây là hành động kết quả của một trạng thái tâm lý ở mức không thể
kiểm soát được. Các lí do khác chiếm khoảng 52,4%, các lí do này cũng chi phối khá
nhiều tới việc nói xấu người khác. Hầu hết là do ghen ghét, đố kị hoặc không ưu người
đó. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều cảm thấy hối hận về những hành vi nói xấu của
mình trước đây. Điều này cho thấy hành vi nói xấu hay tung tin đồn của họ trên facebook
chỉ là hành động bộc phát, không có chủ đích từ trước. Nếu như họ biết kiểm soát bản
thân thì sẽ không diễn ra những việc làm ảnh hưởng xấu đến đời sống của người khác
như vậy.
Bảng 9: Ảnh hưởng của hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook đến những
hành vi khác.
Làm ảnh hưởng tới
Hình ảnh người
Phản
khác
ứng
Like
Share
Bỏ qua không quan tâm
Unlike fanpage
Đã từng
0
0
20
0
Chưa từng
9
9
52
9
Cho dù người đã từng hay chưa từng làm ảnh hưởng tới hình ảnh của người khác
thì khi họ thấy một bài tung tin đồn nói xấu họ đều chọn cách bỏ qua để tấy chay những
thông tin này. Đây là một dấu hiệu rất tốt làm cho hành vi xấu này không được phát triển
được. Tuy nhiên, có thể những người được hỏi không dám trả lời thực về hành động của
mình. Có thể họ đã từng có hành vi xấu này nhưng họ không muốn hoặc không dám thừa
nhận vì không muốn tự nói xấu bản thân, vì không muốn người khác nghĩ xấu về mình
hoặc vì hối hận về hành động cua bản thân.
Bảng 10: Mức độ hối lỗi đối với hành vi trên
Tiêu chí
Đã từng
Chưa từng
Tổng
Tần suất
14,4%
85,6%
100%
Có thể thấy chỉ có khoảng 14,4% số người được hỏi nói rằng mình đã từng bị nói
xấu, tung tin đồn. Tuy nhiên, kết quả này có thể bị sai lệch do những người thường bị nói
xấu, tung tin đồn là những người nổi tiếng hay có những đặc điểm đặc biệt nào đó. Hơn
nữa, người bị nói xấu, tung tin đồn hiếm khi biết được việc mình bị nói xấu. Nhưng cũng
có thể cho rằng là mọi người thường tập trung nói xấu, tung tin đồn một nhóm người nhất
định, không phải tất cả.
4. Tác động của hành vi tung tin đồn, nói xấu trên fb tới người bị nói xấu, người
nói xấu và những người khác
Bảng 11: Mức độ ảnh hưởng của hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook đến
từng đối tượng liên quan
Tiêu chí
Người bị nói
xấu và gia
đình họ
Chính bản
thân người
đi nói xấu
Cộng đồng
những người
sử dụng
facebook
Những
người xung
quanh
Ảnh hưởng
rất lớn
(1)
Ảnh hưởng
tương đối
lớn (2)
Ảnh hưởng
lớn
Ảnh hưởng
tương đối
nhỏ (4)
Ảnh hưởng
rất nhỏ
(5)
2,9
0
21,0
27,6
(3)
47,6
6,7
24,8
53,3
14,3
0
13,3
50,5
20,0
15,2
0
8,6
18,1
17,1
40,0
15,2
Kết quả tính điểm:
Người bị nói xấu và gia đình họ = (21x1) + (27,6x2) + (47,6x3) + (2,9x4) + (0x5) = 230,6
Chính bản thân người đi nói xấu = (6,7x1) + (24,8x2) + (53,3x3) + (14,3x4) + (0x5) =
273,4
Cộng đồng những người sử dụng facebook = (13,3x1) + (50,5x2) + (20x3) + (15,2x4) +
(0x5) = 235,1
Những người xung quanh = (8,6x1) + (18,1x2) + (17,1x3) + (40x4) + (15,2x5) = 332,1
Kết quả thu được cho thấy mức độ ảnh hưởng giảm dần đối với những nhóm người
sau: người bị nói xấu và gia đình họ, cộng đồng những người sử dụng facebook, chính
bản thân người đi nói xấu, những người xung quanh.
Có thể thấy người bị ảnh hưởng nhiều nhất là những người bị nói xấu và gia đình
họ. Họ phải lắng nghe những bình luận không hay về mình và thậm chí là không đúng sự
thật mà không thể thanh minh được. Nếu có thanh minh cũng bị nói xấu tiếp. Những điều
này gây ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý và đời sống hàng ngày của người bị nói xấu. Hơn
nữa, gia đình của người bị nói xấu cũng bị ảnh hưởng rất nhiều .
Đối tượng thứ 2 bị ảnh hưởng trong việc nói xấu, tung tin đồn là cộng đồng những
người sử dụng facebook. Họ bị kéo vào những “trận chiến”, những cuộc nói xấu người
khác và bị dụ dỗ có những suy nghĩ và hành động lệch lạc, không đứng đắn. Đồng thời,
facebook cũng bị mất đi sự trong sạch khi liên tục có những hình ảnh, lời nói nói xấu,
tung tin đồn về người khác.
Đối tượng thứ 3 bị ảnh hưởng là chính bản thân người nói xấu, họ sẽ không thể
kiểm soát được các hành động của mình. Nhân phẩm và đạo đức của họ sẽ bị hạ thấp và
không được mọi người yêu quý nếu tiếp tục ngày càng có nhiều hành vi nói xấu, tung tin
đồn người khác.
Đối tượng cuối cùng bị ảnh hưởng là những người xung quanh. Những người này
không bị tác động quá nhiều trong cuộc chiến nói xấu, tung tin đồn nhưng vẫn có những
ảnh hưởng nhất định.
Ngoài ra, hành vi nói xấu, tung tin đồn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến chính
người đi nói xấu, đặc biệt là gây đến xích mích với người khác và bị trả đũa nói xấu lại.
Ảnh hưởng này chiếm tới 75,2%, một con số khá lớn. Ngoài ra, hành vi này còn khiến
cho người khác không tin tưởng vào người đi nói xấu, chiếm tới 66,3%. Có khoảng
37,6% người đi nói xấu sẽ cảm thấy tinh thần họ không vui khi đi nói xấu người khác.
5. Thái độ và hành vi của công chúng mục tiêu khi bị tung tin đồn, nói xấu hay
bắt gặp hành vi tung tin đồn, nói xấu trên fb
Bảng 12: Lượng người đã từng bị nói xấu trong số những đối tượng được điều tra
Tiêu chí
Đã từng
Chưa từng
Tổng
Tần suất
14,4%
85,6%
100%
Có thể thấy chỉ có khoảng 14,4% số người được hỏi nói rằng mình đã từng bị nói
xấu, tung tin đồn. Tuy nhiên, kết quả này có thể bị sai lệch do những người thường bị nói
xấu, tung tin đồn là những người nổi tiếng hay có những đặc điểm đặc biệt nào đó. Hơn
nữa, người bị nói xấu, tung tin đồn hiếm khi biết được việc mình bị nói xấu. Nhưng cũng
có thể cho rằng là mọi người thường tập trung nói xấu, tung tin đồn một nhóm người nhất
định, không phải tất cả.
Bảng 13: Thực chất sự thật của những lời đồn
Tiêu chí
Hoàn toàn không đúng sự thật
Chỉ đúng một phần sự thật
Hoàn toàn sai sự thật
Không trả lời
Tổng
Tần suất
0%
14,3%
0%
85,7%
100%
Dựa vào bảng kết quả trên có thể thấy mọi người thường nói xấu người khác mà
chỉ cần có một phần sự thật là đúng, là do khi nói xấu tung tin đồn người ta thường hay
có xu hướng “thêm mắm dặm muối” vào câu chuyện. Có tới 85,7% số người được hỏi
không trả lời câu hỏi này nên chúng ta cũng chưa đánh giá rõ ràng được về kết quả.
Bảng 14: Thái độ và hành vi của những người bị nói xấu khi rơi vào trường hợp
đó
Tiêu chí
Đứng ra lên tiếng giải thích
Mặc kệ, không quan tâm
Thu mình lại, tránh xa người thân,
bạn bè và toàn xã hội
Hành động khác
Không trả lời
Tần suất
0%
14,3%
0%
0%
85,3%
Tổng
100%
Khi rơi vào hoàn cảnh bị nói xấu, mọi người thường có xu hướng mặc kệ, không
quan tâm. Đây là một cách thức khá tốt khi bị nói xấu. Tuy nhiên, có tới 85,3% người
được hỏi không trả lời câu hỏi này, cho thấy mọi người không muốn đề cập hay bày tỏ
quan điểm về vấn đề này.
Bảng 15: Hành vi của người dùng facebook khi bắt gặp hành vi tung tin đồn, nói
xấu
Tiêu chí
Like
Share
Bỏ qua không quan tâm
Unlike những page anti này
Tổng
Tần suất
9,1%
9,1%
72,7%
9,1%
100%
Khi bắt gặp những status, comment hay page anti người khác, mọi người thường có
hành động bỏ qua không quan tâm để tránh gây xích mích với cả người đi nói xấu và
người bị nói xấu. Hơn nữa, tâm lý của mọi người thường là không phải việc của mình thì
không quan tâm nên có tới 72,7% sẽ bỏ qua khi nhìn thấy những status, comment, hay
page anti trên facebook. Số người like và share đều chiếm 9,1% số người được điều tra.
IV. Kết luận
Hiện nay, hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook không còn là hành vi lạ
lẫm, hành vi đó xuất hiện quá nhiều trong thời gian gần đây và đôi khi đã trở thành
trào lưu, nó gây ra những hậu quả xấu ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhiều bạn
trẻ.
Việc tung tin đồn, nói xấu trên facebook không còn đơn thuần chỉ là việc diễn ra
giữa hai người hay không chỉ tác động xấu đến người bị nói xấu nữa mà còn ảnh
hưởng xấu đến những người xung quanh.
Hầu hết mọi người sẽ im lặng, bỏ qua và không lên tiếng khi bị tung tin đồn, nói
xấu cũng như bắt gặp hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook.
Cách giải quyết mà hầu hết bạn trẻ đưa ra chính là bỏ qua, không quan tâm đối với
hành vi tung tin đồn, nói xấu.
V. Kiến nghị, đề xuất
Bảng 16: Giải pháp nhằm giảm bớt hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
gay ảnh hưởng xấu đến người khác.
Tiêu chí
Không nên hưởng ứng bằng like, comment
hay share những status hay page anti nói
xấu, tung tin đồn người khác
Khuyên can, giải thích nếu như bắt gặp
hành vi tung tin đồn, nói xấu của người
khác
Bản thân mình cũng sẽ suy nghĩ kĩ trước
khi có những hành vi làm ảnh hưởng xấu
đến người khác trên facebook
Tuyên truyền với bạn bè, người thân về tác
động xấu của hành vi này
Hành động khác
Tổng
Tần suất
47,5%
0%
48,4%
4,1%
0%
100%
Để giảm bớt hành vi nói xấu, tung tin đồn trên facebook, mọi người thường có xu
hướng lựa chọn cách không hưởng ứng like, share những status, page anti người khác và
bản thân mình cũng sẽ suy nghĩ kĩ trước khi có những hành vi làm ảnh hưởng xấu đến
người khác, chiếm lần lượt 47,5% và 48,4%. Chỉ có một lượng rất nhỏ 4,1% có hành
động tuyên truyền với bạn bè, người thân về tác động xấu của hành vi này. Điều này là
do mọi người quan niệm không phải chuyện của mình thì không quan tâm.
PHẦN III: CHƯƠNG TRÌNH MARKETING – MIX
I.
Giới thiệu chương trình
Kết thúc quá trình nghiên cứu định lượng và định tính, nhóm đưa ra đề suất về
chuỗi chương trình mang trên “Sống đẹp đến từng nút like” với mục đích là thay đổi
hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook. Chuỗi chương trình diễn ra từ ngày
05/09/2013 cho đến ngày 05/09/2014 (Tính cả thời gian lên kế hoạch và thực hiện
chương trình). Chuỗi chương trình được thực hiện với những nhiệm vụ chính sau đây:
-
-
Giúp giới trẻ nhận thức rõ hậu quả lớn nhất có thể xảy ra và tác động của việc tung
tin đồn, nói xấu trên facebook đến người bị nói xấu, người đi nói xấu và những
người xung quanh.
Thay đổi thái độ của giới trẻ đối với hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
của người khác.
Nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, trong sạch trên thế giới ảo facebook.
-
Đưa ra các biện pháp nhằm thay đổi hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
của giới trẻ, hạn chế những hành vi gây tác động xấu đến người khác trên mạng xã
hội facebook.
Với những nhiệm vụ chính kể trên, chương trình được thực hiện chính ở trên internet đặc
biệt là kênh tương tác facebook, tác động đến những bạn trẻ dùng facebook bằng tiếng
Việt. Sau một năm tiến hành, chuỗi chương trình sẽ được kiểm tra, đánh giá lại nhằm đưa
ra kế hoạch mới phù hợp để tiếp tục chương trình.
II.
Chiến lược cho chương trình:
1. Phân đoạn thị trường
Với mục tiêu đề ra của chương trình, nhóm áp dụng tiêu thức phân đoạn thị trường
theo hành vi của công chúng.
Thứ nhất là đoạn thị trường bao gồm những công chúng đã từng hoặc thường xuyên
có hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook. Đây là những công chúng đã và đang sử
dụng facebook, có thể khó tiếp cận và thay đổi, vì họ không nhận thức được hành vi cử
mình ảnh hưởng đến những người xung quanh và đến chính người bị nói xấu như thế
nào. Họ cho rằng hành vi của mình diễn ra trong quyền hạn của mình và không lien quan
hay ảnh hưởng đến ai. Đối với đoạn thị trường này, nhóm sẽ cố gắng đưa ra những
chương trình giúp thay đổi phần nào suy nghĩ cũng như nhận ra tác hại của hành vi mà họ
gây ra. Khi họ thấy rõ hậu quả thì họ sẽ thay đổi hoặc giảm thiểu hành vi của mình.
Thứ hai, là đoạn thị trường bao gồm những công chúng có thể không có những
hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook nhưng có những hành động khác như like,
share hay comment hưởng ứng, tham gia vào hành vi lan truyền tin đồn. Đoạn thì trường
này có nhiều công chúng hơn đoạn thị trường thứ nhất. Vì hầu hết mọi người nhận ra
được hậu quả của hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook cũng ảnh hưởng đến chính
bản thân mình, nhưng lại không thấy rõ, chính hành vi tham gia vào việc lan truyền tin
đồn là nguyên nhân gián tiếp làm ảnh hưởng xấu đến đời sống của người bị nói xấu, tung
tin đồn cũng như gia đình, bạn bè của họ.
Thứ ba, là đoạn thị trường bao gồm những công chúng không có hành vi tung tin
đồn, nói xấu người khác hoặc không tham gia vào việc làm cho tin đồn lan rộng. Hoặc là
vì họ hiều rõ những hành vi trên gây ra hậu quả xấu như thế nào nên họ không thực hiện.
Hoặc là họ chưa từng có mâu thuần hay bực tức dẫn đến việc nói xấu trên facebook hay
chưa từng thấy hấp dẫn bởi những lời nói xấu hay những fanpage nói xấu mà người ta
vẫn chia sẻ trên facebook. Đối với những đối tượng công chúng trong đoạn thị trường
này, chuỗi chương trình sẽ càng tác động sau hơn vào nhận thức của họ về hậu quả xấu
của hành vi trên, khiến cho họ không bao giờ tham gia vào những hành vi đó.
2. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Đoạn thị trường mục tiêu mà nhóm lựa chọn là đoạn thị trường bao gồm những
công chúng mặc dù không có hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook nhưng lại có
những hành vi like, share hoặc comment hưởng ứng hành vi tung tin đồn, nói xấu của
người khác. Một điều dễ thấy là, chỉ có một người nói xấu hay tung tin đồn thôi những có
thể có đến hàng triệu lượt like, hàng nghìn lượt comment hưởng ứng hay hàng trăm lượt
share. Mỗi một hành động nhỏ như thế thôi cũng góp phần cho tin đồn càng ngày càng
lan rộng. Không biết tin đồn đó là đúng hay sai, tuy nhiên nó càng lan rộng thì càng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống cũng như gia đình người than của người bị tung tin
đồn, nói xấu. Hậu quả mà những người này góp phần gây ra khó mà xóa bỏ cũng như tin
đồn nếu sai sự thật cũng khó mà đính chính được. Tuy nhiên, thay đổi hành vi của những
người này dễ hơn việc thay đổi hành vi của những người đi tung tin đồn, nói xấu người
khác. Vì thế, thay đổi được hành vi của họ sẽ góp phần tạo ra những lợi ích vô hình cho
xã hội.
3. Định vị
Để chương trình tạo được dấu ấn trong lòng công chúng mục tiêu, nhóm đưa ra
định vị đây là một chương trình mang lại lợi ích cho xã hội, nhất là giới trẻ hiện nay. Chỉ
một hành động nhỏ cũng giúp góp phần làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Đây là chuỗi
chương trình mang ý nghĩa, góp phần tạo nên văn hóa facebook, để người ta không còn
chỉ nhìn vào mặt xấu nữa mà còn biết theo đuổi những gì tốt đẹp hơn. Chương trình sẽ để
lại trong lòng công chúng những hình ảnh tốt đẹp nhất về một chương trình có ý nghĩa
tạo nên một môi trường xã hội ảo lành mạnh và không có những hành vi xấu.
4. Xác định mục tiêu
Qua những phân tích và nghiên cứu ở trên, nhóm đưa ra mục tiêu chính của chuỗi
chương trình là:
-
Giúp giới trẻ nhận thức rõ những hậu quả có thể xảy ra đối với xã hội.
Thay đổi thái độ của giới trẻ đối với hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook
của người khác.
Nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, trong sạch trên thế giới ảo facebook.
Đưa ra các biện pháp nhằm thay đổi hành vi, tác động đến hành vi của công chúng
mục tiêu đối với việc tung tin đồn, nói xấu trên facebook.
III.
Chương trình Marketing - Mix
1. Product – Sản phẩm
Qua chuỗi chương trình “Sống đẹp đến từng nút like”, sản phẩm cơ bản mà chương
trình muốn mang lại là việc không để xảy ra các hành vi tung tin đồn, nói xấu trên
facebook hoặc việc hưởng ứng hành vi đó.
Sản phẩm bao gồm 3 gói sản phẩm chính:
-
Nâng cao nhận thức về hậu quả và tác động xấu của hành vi tung tin đồn, nói xấu
trên facebook.
Thay đổi thái độ của giới trẻ đối với hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook.
Tạo ra một môi trường lành mạnh trên mạng xã hội facebook.
Thay đổi hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook của giới trẻ.
Trong đó, giá trị sản phẩm nhấn mạnh là tạo ra môi trường trong sạch, lành mạnh hơn
trên mạng xã hội facebook. Các gói sản phẩm sẽ được thực hiện đồng bộ trên internet.
Nội dung chính của chương trình là đánh vào tâm lí thích hoạt động theo phong
trào của giới trẻ cũng như cho giới trẻ thấy được những tác hại xấu nhất có thể có về hành
vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook. Từ đó, họ có thể thay đổi được hành vi của mình
cũng như không bao giờ thực hiện hành vi đó nữa. Qua đó, khuyến khích ý thức sống văn
minh, lịch sự trên cả thế giới ảo như thế giới facebook. Chương trình được tổ chức chủ
yếu trên các kênh truyền thông trên internet
Khẩu hiệu của chương trình là “Sống đẹp đến từng nút like”. Khẩu hiệu này sẽ xuất
hiện trên fan page của chương trình, trên clip và được in trên áo chương trình. Khẩu hiệu
này còn được in banner treo ở một số trường đại học hoặc một số nơi trên đường phố.
Chương trình Marketing xã hội nhằm mục đích kêu gọi giới trẻ hiện nay nói không
với hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook sẽ được thực hiện trên các kênh tương tác
facebook, youtube là chính. Hai kênh truyền thông này có tính lan toả và tương tác khá
cao, qua hai kênh truyền thông này, chương trình sẽ được phát tán rộng rãi và nhận được
sự hưởng ứng nhiệt tình của giới trẻ. Chương trình bao gồm những hoạt động sau:
Nâng cao nhận thức của giới trẻ về tác động xấu của hành vi tung tin đồn,
nói xấu trên facebook
1.1.1. Lập fan page trên facebook kêu gọi giới trẻ nói không với hành vi tung tin
đồn, nói xấu trên facebook
1.1.
Fan page được lập trên facebook có tên: “Hãy nói không với hành vi tung tin đồn,
nói xấu trên facebook”. Hằng ngày fan page sẽ update những thông tin về những bạn trẻ
đã từng bị tung tin đồn, nói xấu và hậu quả mà họ phải gánh chịu trong cả thế giới ảo
facebook và trong cả đời sống thực cũng như những tác động không nhỏ đến gia đình và
những người xung quanh họ. Qua đó cho thấy những tác động xấu không thể lường trước
được của hành vi này và cảnh tỉnh giới trẻ hiện nay. Ngoài ra page cũng đăng tải những
câu chuyện về sống đẹp, những hành động đẹp trong đời sống nhằm tác động vào ý thức
sống vì gia đình và xã hội của giới trẻ hiện nay.
1.1.2. Tổ chức event trên fan page
Event được tổ chức ra nhằm tạo sự thu hút của giới trẻ đối với chương trình. Có thể
tổ chức cuộc thi ảnh với áo có logo khẩu hiệu của chương trình. Ảnh dự thi sẽ được gửi
vào mail của chương trình và được đăng tải trên fanpage. Những hình ảnh có đầy đủ
thông tin của người dự thi và đáp ứng yêu cầu của chương trình thì mới hợp lệ. Phần
thưởng cho người có mức ảnh nhiều like nhất là 1 triệu đồng tiền mặt vào áo in logo của
chương trình. Hoặc cuộc thi viết bài kể về những câu chuyện hay những bài học về hành
vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook, phần thưởng cho bài viết hay nhất là một triệu
đồng tiền mặt và áo có in logo của chương trình.
1.1.3. In áo có câu khẩu hiệu của chương trình và kêu gọi giới trẻ hưởng ứng
phong trào
Khẩu hiệu của chương trình là “Sống đẹp đến từng nút like”. Áo trắng đi kèm với
hình nút like màu xanh đặc trưng của facebook và đi kèm với câu khẩu hiệu của chương
trình. Áo được bán với giá 100 nghìn đồng một áo, số tiền thu được sẽ góp làm phần
thưởng cho các cuộc thi trong event trên facebook và chi phí thực hiện chương trình.
1.2.
Biện pháp góp phần giúp tạo ra môi trường lành mạnh trên facebook
Tuyên truyền bằng tờ rơi, banner, các chương trình trên truyền hình, các bài viết
trên những trang mạng phổ biến như: kênh 14, các trang teen,… về những vấn nạn trên
facebook, đặc biệt là hành vi tung tin đồn, nói xấu trên facebook.
Các trường trung học có thể đưa ra những quy định chung như: Cấm học sinh có
những hành vi như tung ảnh quá lố, viết status nói xấu người khác. Cấm học sinh nói tục
chửi bậy trên facebook. Cấm học sinh chia sẻ hay like hưởng ứng những status hay
fanpage tung tin đồn, nói xấu người khác. Những ai vi phạm sẽ có hình phạt thích đáng
và buộc phải xoá những status hay fanpage đó đi. Khuyến khích học sinh hoạt động lành
mạnh trên facebook. Đặc biệt là khuyến khích học sinh đăng tải những bài viết liên quan
đến vấn đề học tập, vui chơi lành mạnh.
2. Price – Giá cả