Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Hãy trình bày tiến trình phân cấp quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư ở việt nam qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.78 KB, 32 trang )

Câu hỏi: Hãy trình bày tiến trình phân cấp quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư ở
Việt Nam qua các thời kỳ. Liên hệ và đưa ra các giải pháp.
MỤC LỤC
1.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.
2.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.4.1.
2.2.4.2.
2.2.4.3.
2.3.
3.
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.

Tiến trình phân cấp quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư ở Việt Nam
Bộ Kế hoạch và đầu tư
Bộ Xây dựng


Bộ Tài chính
Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Các Bộ chuyên ngành
Thực trạng phân cấp quản lý và những tồn tại
Ưu điểm của phân cấp quản lý
Thực trạng
Phân cấp quản lý đầu tư từ ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước
Quản lý Nhà nước trong quá trình chuẩn bị dự án
Quản lý Nhà nước trong quá trình thực hiện dự án
Phân cấp quản lý đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước
Phân cấp quản lý đầu tư tư nhân
Phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư Nhà nước
Ban hành danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài và xúc tiến đầu tư
Cấp, thu hồi giấy phép đầu tư
Một số tồn tại và yếu kém trong phân cấp quản lý đầu tư hiện nay
Giải pháp
Quản lý Nhà nước về đầu tư từ ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước
Quản lý đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước
Quản lý đầu tư nước ngoài
Quản lý đầu tư tư nhân
3.5.
Đề xuất ban hành hoặc điều chỉnh các văn bản pháp lý
Đầu tư phát triển vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là giải pháp chủ yếu nhằm thực

hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Một cách tổng quát,
đầu tư là sự sử dụng nguồn lực hiện có nhằm mang lại cho nhà đầu tư những kết quả
nhất định trong tương lai. Nhìn trên góc độ toàn nền kinh tế thì không phải tất cả hành
động trên không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn mang lại lợi ích kinh tế - xã hội.
Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn và tái sản

xuất mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế - xã hội.

1


Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới
nhằm huy động tối đa các nguồn vốn thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước. Nhờ vậy, kinh tế - xã hội của đất nước đã có chuyển biến đáng kể, tạo ra tiền đề
cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và
phát triển một cách toàn diện nền kinh tế đất nước.
Tuy nhiên, phân cấp trong quản lý đầu tư vốn là một lĩnh vực phức tạp, có liên quan
đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều quy định khác liên quan; đặc biệt phải xử lý đa dạng
các mối quan hệ dân sự, quan hệ hành chính và nhiều mối quan hệ khác mà đáng lẽ
phải được điều tiết bằng các Luật và văn bản pháp luật, văn bản pháp qui một cách
đồng bộ, nhất quán và thống nhất.
Hiện nay, phân cấp trong quản lý đầu tư chủ yếu mới thực hiện theo các văn bản ở
hình thức Nghị định, Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị,... trong khi nền kinh
tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi, hình thành và phát triển phương thức quản
lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các cơ chế, chính sách mới hình
thành, đang trong quá trình điều chỉnh và hoàn thiện cho phù hợp với thực tế khách
quan.
Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu đổi mới, bổ sung, sửa đổi cơ
chế, chính sách trong lĩnh vực này. Tuy vậy, trên thực tế còn nhiều bất cập, chưa phù
hợp với thực tế khách quan. Vì vậy, việc nghiên cứu đổi mới công tác quản lý đầu tư
nhằm phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngay trong giai đoạn
2006 - 2010 là cần thiết và bức xúc.
1. Tiến

trình phân cấp quản lý Nhà nước về hoạt động đầu tư ở Việt Nam
Ngày 22/9/2006, Chính phủ ban hành Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư được ban hành trước đó vào năm

2005. Việc phân cấp quản lý hoạt động đầu tư của Trung ương và địa phương như sau:
1.1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Kế hoạch và Đầu tư được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1995, theo Nghị định số
75/CP của Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Ủy ban Nhà
nước về Hợp tác và Đầu tư với nhiệm vụ như sau:
2


-

Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và rà

soát các văn bản pháp luật, chính sách về đầu tư. Hướng dẫn, phổ biến, theo dõi, kiểm
tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư. Ban hành các mẫu văn
bản liên quan đến thủ tục đầu tư để áp dụng trong phạm vi cả nước.
Tổ chức, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương xây dựng, tổng hợp trình
chính phủ về quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển, quy hoạch tổng thể quốc gia về
phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lập
danh mục dự án quốc gia thu hút vốn đầu tư trình thủ tướng chính phủ phê duyệt. tham
mưu về việc bổ sung quy hoạch đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của
Thủ tường chính phủ không nằm trong quy hoạch. Có ý kiến với cơ quan cấp giấy
chứng nhận đầu tư về sự cần thiết của dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của
thủ tướng chính phủ mà thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch để trình thủ tướng chính
phủ chấp thuận.
Thẩm tra các dự án đầu tư quan trọng quốc gia và dự án đầu tư khác theo quyết
định của thủ tướng chính phủ
Thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến đầu tư. Xây dựng chương trình,

kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về vận động xúc tiến đầu tư. Phối
hợp với các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức hoạt động xúc tiến
đầu tư tại nước ngoài. Thực hiện quản lý quỹ xúc tiến đầu tư quốc gia.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành đàm phán và trình Chính phủ ký kết hoặc
tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư, thực hiện hợp tác quốc
tế về hoạt động đầu tư
Tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường năng lực quản lý
đầu tư cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư các cấp
Phối hợp với Tổng cục Thống kê tổ chức hoạt động thống kê về đầu tư theo quy
định của pháp luật về thống kê, tổ chức, xây dựng hệ thống thông tin quốc gia phục vụ
hoạt động đầu tư
Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá
trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư
Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư.
3


-

Kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động đầu tư theo thẩm quyền xây dựng chương

trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát liên ngành đối với hoạt động đầu tư. Kiểm tra việc
cấp, điều chỉnh, thu hồi giấy chứng nhận đầu tư theo quy định của Luật đầu tư và Nghị
định này
Định kì 6 tháng, hàng năm, tổng hợp tình hình hoạt động đầu tư và báo cáo thủ
tướng chính phủ
1.2. Bộ Xây dựng
Tiền thân của bộ là Bộ Thủy lợi và Kiến trúc được Quốc hội khóa I, Kỳ họp thứ 5,
ngày 20 tháng 9 năm 1955 thành lập.
Bộ xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng, nghiên cứu xây dựng

cơ chế, chính sách về quản lý xây dựng, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, trình
thủ tướng chính phủ phê duyệt ban hành hoặc được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền
ban hành.
- Ban hành hoặc thỏa thuận để các Bộ tham gia quản lý xây dựng chuyên ngành ban
hành các tiêu chuẩn, quy phạm, các quy định quản lý chất lượng công trình và kinh tế
xây dựng, hệ thống các định mức và chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật xây dựng, giá chuẩn, đơn
giá xây dựng. Chủ trì cùng Bộ chuyên ngành kỹ thuật tổ chức việc thẩm định tổng dự
án các loại dự án nhóm A để cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thống nhất quản lý nhà
nước về chất lượng công trình xây dựng, theo dõi kiểm tra phát hiện và kiến nghị xử lý
chất lượng các công trình xây dựng. Chủ trì cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính và các Bộ, ngành, địa phương để hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện điều lệ
quản lý đầu tư và xây dựng.
1.3. Bộ

Tài chính
Tháng 9 năm 1945 Bộ tài chính được thành lập. Hiện nay, Bộ Tài chính có các nhiệm
vụ sau:
- Chủ trì phối hợp với các bộ ngành liên quan trong xây dựng pháp luật, chính sách hỗ
trợ và ưu đãi đầu tư.
- Cấp phép hoạt động với dự án trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền và phải kiểm tra
thanh tra các dự án đã cấp phép.
4


- Thẩm tra và có ý kiến bằng các văn bản pháp luật về các vấn đề liên quan tới tài
chính, bảo lãnh về tài chính của chính phủ đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.
- Tổ chức kiểm tra thanh tra giám sát việc thực hiện pháp luật về tài chính, kế toán,
thuế, hải quan liên quan tới hoạt động đầu tư.
- Giải quyết khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư trong lĩnh vực thuế, phí và lệ phí, thủ
tục hải quan, quản lý tài chính.

1.4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam có

trách nhiệm nghiên cứu cơ chế chính sách quản lý

Nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng trong đầu tư và xây dựng trình Thủ tướng
chính phủ ban hành hoặc được Thủ tướng chính phủ ủy quyền ban hành.
- Giám sát các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính tín dụng khác thực hiện nhiệm vụ:
Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để cho vay dài hạn, trung hạn và các dự
-

án và cho vay ngắn hạn phục vụ đầu tư phát triển và sản xuất – kinh doanh
Thực hiện chế độ bảo lãnh thanh toán, dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác
theo quy định của pháp luật; thực hiện bảo lãnh các khoản vay vốn nước ngoài của các

tổ chức tín dụng để đầu tư và xây dựng.
1.5. Các Bộ chuyên ngành
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công. Cụ thể:
- Phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư, các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng
pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng và ban hành pháp
luật, chính sách, tiêu chuẩn quy phạm kỹ thuật và hướng dẫn thực hiện
- Trình chính phủ ban hành các điều kiện đầu tư đối vỡi lĩnh vực đầu tư có điều kiện
thuộc ngành kinh tế - kĩ thuật.
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư của ngành
- Thẩm tra và có ý kiến bằng văn bản về khả năng đáp ứng điều kiện mà dự án đầu tư
phải đáp ứng đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng
chính phủ và dự án thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
- Kiểm tra, thanh tra, giám sát chuyên ngành việc đáp ứng các điều kiện đầu tư và quản

lý nhà nước đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.

5


- Chủ trì, phối hợp với ủy ban nhân dân cấp tỉnh và các Bộ, ngành liên quan và giải
quyết các khó khăn, vướng mắc của dự án đầu tư trong lĩnh vực thuộc chuyên ngành
quản lý của mình.
2. Thực trạng phân cấp quản lý và những tồn tại
2.1. Ưu điểm của phân cấp quản lý
Đem lại sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và khuyến khích sự sáng tạo cho các địa
phương trong thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư.
Giảm thiểu đầu mối trong xét duyệt dự án cấp phép đầu tư, làm giảm chi phí đi,
tiết kiệm thời gian, từ đó tạo được sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư.
Các địa phương cũng phải có những biện pháp để khắc phục, cải thiện môi trường
đầu tư thông thoáng hơn như đẩy mạnh cải cách hành chính thực hiện mô hình "một
cửa liên thông", đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng chính sách và cơ chế hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp.
2.2. Thực trạng
Quản lý nhà nước về đầu tư là một việc mang tính phức tạp, được trải rộng trên nhiều
lĩnh vực, qua nhiều khâu (từ khâu cấp phép, quyết định đầu tư, thực hiện, giám sát) và
đối với nhiều đối tượng chủ đầu tư khác nhau (nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, đầu
tư nước ngoài, đầu tư tư nhân).
2.2.1. Phân cấp quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và tín dụng nhà nước
2.2.1.1Quản lý nhà nước trong quá trình chuẩn bị dự án
*)Thẩm tra dự án :
-Đối với các dự án đầu tư nhóm A có trong quy hoạch phát triển hoặc có quyết định
chủ trương đầu tư được phép lập ngay Báo cáo NCKT (không cần lập báo cáo
NCTKT) phải được thẩm tra để trình Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư trước khi
thẩm định và quyết định đầu tư.

- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý
tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội
được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước (sau đây gọi tắt là Bộ trưởng), Chủ tịch
Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có dự án đầu tư nhóm A tổ chức thẩm tra và trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, cho phép đầu tư.
Việc thẩm tra dự án chỉ thực hiện đối với các dự án nhóm A có trong quy hoạch phát
triển hoặc có quyết định chủ trương đầu tư (theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP). Theo
6


đó, cấp Trung ương và cấp tỉnh chịu trách nhiệm thực hiện thẩm tra dự án trình Thủ
tướng xem xét quyết định đầu tư.
Hiện đang nghiên cứu đổi mới phương thức phân loại từ các nhóm dự án A, B và C
sang phân loại theo các nhóm dự án quan trọng quốc gia, dự án quốc gia, dự án cấp
tỉnh/bộ, dự án cấp huyện, dự án cấp xã với một số tiêu thức về tính chất, quy mô diện
tích đất sử dụng và quy mô vốn đầu tư.
Mặc dù phương thức phân loại dự án đã có nhiều đổi mới so với cách phân loại cũ
song rất cần cân nhắc lại do một số lý do sau:
+ Phân loại theo tiêu thức tổng mức vốn đầu tư đồng thời lại chia tiếp theo các loại
hình, lĩnh vực kinh doanh sẽ dễ dàng dẫn đến hiện tượng trùng lặp với tiêu thức tính
chất dự án.
+ Mục tiêu và ý nghĩa của tiêu thức phân loại theo tổng mức vốn đầu tư là gì? Nếu như
dự án được đầu tư từ nguồn vốn tư nhân và không thuộc diện điều chỉnh theo tiêu thức
tính chất và diện tích đất sử dụng thì Nhà nước không nhất thiết phải thẩm tra (ví dụ
các dự án công nghiệp nhẹ trên 300 tỷ đồng (khoảng 20 triệu USD) hoặc dự án sản
xuất hàng điện tử trên 400 tỷ đồng).
+ Ngược lại với các dự án từ vốn đầu tư tư nhân, cần có sự thẩm định một cách chặt
chẽ hơn đối với các dự án sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước. Không nên đưa ra một
mức vốn 100 tỷ đồng là giới hạn mà nên đưa ra những mục tiêu và điều kiện cụ thể
cho các dự án ở từng cấp, ví dụ:

* Các cấp tỉnh, huyện, xã không được đầu tư cho các dự án trực tiếp sản xuất kinh
doanh. Nhiệm vụ chính của chính quyền trong phát triển kinh tế là tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư (cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội) chứ không phải là trực tiếp kinh
doanh.
* Dự án ở các cấp chỉ được thực hiện khi tự cân đối được ngân sách và được Hội đồng
nhân dân cấp đó thông qua.
Như vậy cần thu hẹp diện thẩm tra theo quy mô dự án đồng thời có thể mở rộng phân
cấp trên cơ sở ảnh hưởng của dự án đó đối với đời sống kinh tế, xã hội trong phạm vi
huyện, tỉnh hay cả nước (ví dụ: dự án giáo dục phổ thông, dạy nghề, y tế, phát thanh
truyền hình,).
*)Thẩm định và quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn Ngân sách nhà nước :
7


-Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội
quyết định chủ trương đầu tư. Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư tổ
chức thẩm định dự án trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư.
- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý
tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
(được xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết định chủ trương đầu tư bằng
văn bản của cấp có thẩm quyền, sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đầu tư.
-Người có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án nhóm A tổ chức thẩm tra báo cáo
nghiên cứu khả thi, có trách nhiệm lấy ý kiến bằng văn bản của Bộ quản lý ngành, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng (đối với các dự án đầu tư xây dựng), Bộ Tài chính
và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan đến dự án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ
cho phép đầu tư. Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, các Bộ,
ngành, địa phương được hỏi ý kiến phải có trách nhiệm trả lời bằng văn bản.
Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng

nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai.
-Tùy theo điều kiện cụ thể của các Bộ, ngành, địa phương, người có thẩm quyền quyết
định đầu tư được phép ủy quyền cho các đối tượng quy định tại điểm d khoản này
quyết định đầu tư các dự án nhóm B, C. Người ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về sự ủy quyền của mình. Người được ủy quyền phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình trước pháp luật và người ủy quyền.
Hiện nay, việc thực hiện theo quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng, theo Nghị định
07/CP. Theo đó, cấp thẩm định và quyết định là Trung ương và tỉnh, tuỳ theo cấp quản
lý của dự án.
*) Thẩm định và quyết định đầu tư các Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước :
Cụ thể được quy định tại Điều 11 Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng.và Điều 1 Mục
(5) NĐ 07/CP :
- Đối với các dự án quan trọng quốc gia do QH quyết định chủ trương:
+ Hội đồng thẩm định nhà nước về các dự án đầu tư thẩm định ;
+ Thủ tướng quyết định đầu tư.
8


- Đối với các dự án nhóm A, nhóm B, nhóm C : Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan quản lý tài chính của TW Đảng, cơ quan TW
của các tổ chức chính trị-xã hội (được xác định trong luật ngân sách), Chủ tịch UBND
các tỉnh (ĐP) quyết định đầu tư các dự án nhóm A đã có trong quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển ngành được duyệt hoặc đã có quyết định chủ
trương đầu tư và quyết định đầu tư ; hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm
B, C phù hợp với quy hoạch được duyệt.
- Trường hợp dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương phải đưa ra Hội đồng
nhân dân thảo luận, quyết định và công bố công khai.
- Đối với các dự án nhóm B chưa có trong quy hoạch được duyệt thì trước khi lập báo
cáo nghiên cứu khả thi phải có ý kiến đồng ý bằng văn bản của người có thẩm quyền

phê duyệt quy hoạch.
- Riêng đối với các dự án nhóm C, cơ quan quyết định đầu tư phải bảo đảm cân đối
vốn đầu tư để thực hiện dự án không quá 2 năm.
2.2.1.2. Quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện dự án
Căn cứ các Nghị định 07/CP, Nghị định 52/CP, và Nghị định 66/CP, toàn bộ các khâu
từ thẩm định, phê duyệt thiết kế, đấu thầu, quản lý và giám sát, nghiệm thu đều đã
được phân cấp theo 4 cấp trên cơ sở các loại dự án A, B, C. Trong thời gian tới, dự
kiến sẽ thay đổi phương thức phân loại các dự án nên việc phân cấp quản lý các dự án
cũng được thay đổi tương tự. Thủ trưởng các cấp có quyền hạn và chịu trách nhiệm về
tất cả những công việc liên quan đến thực hiện và giám sát dự án.Cụ thể :
*)Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán,dự toán công trình :
-Thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán các dự án quan trọng quốc gia
do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư,
-Các dự án nhóm A sử dụng vốn ngân sách nhà nước do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có dự án
đầu tư hoặc người có thẩm quyền quyết định đầu tư phê duyệt sau khi có ý kiến thẩm
định của Bộ Xây dựng.
-Riêng các công trình xây dựng chuyên ngành thuộc dự án nhóm A sử dụng vốn ngân
sách nhà nước giao cho các Bộ chuyên ngành chủ trì tổ chức thẩm định, phê duyệt.
-Đối với các dự án nhóm A sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước và các dự án đầu tư
mua sắm trang thiết bị có những yêu cầu chuyên môn đặc thù thì các Bộ, ngành, địa
9


phương tự tổ chức thẩm định thiết kế và tổng dự toán để trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt.
-Dự án đầu tư xây dựng nhóm B, C thuộc các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương quản lý,
người có thẩm quyền quyết định đầu tư dự án phê duyệt sau khi đã được thẩm định
(Vụ kế hoạch) của cơ quan chuyên môn có chức năng quản lý xây dựng của cấp quyết
định đầu tư;

-Dự án đầu tư xây dựng nhóm B, C do địa phương quản lý, Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phê duyệt sau khi đã được Sở Xây dựng hoặc Sở có xây dựng chuyên ngành
thẩm định (tùy theo tính chất của dự án).
*)Phân cấp quản lý về giám sát đánh giá đầu tư :
-Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện giám sát, đánh giá các dự án quan trọng quốc
gia, các dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu
tư.
-Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá các dự án quan trọng
quốc gia do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư và các dự án nhóm A được Thủ
tướng Chính phủ cho phép đầu tư.
- Các bộ quản lý chuyên ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tổ chức thực hiện giám sát, đánh giá dự án đối với các dự án thuộc thẩm quyền
quyết định của mình (kể cả các dự án phân cấp và ủy quyền cho cấp dưới quyết định
đầu tư)
- Giám sát của cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng và
Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định. Ngoài việc đánh giá tổng thể đầu tư và tình
hình thực hiện dự án đầu tư theo định kỳ, các cơ quan giám sát, đánh giá đầu tư các
cấp có thể thực hiện nhiệm vụ đánh giá tổng thể đầu tư hoặc đánh giá dự án.
*)Phân cấp quản lý nghiệm thu, quyết toán công trình :
- Hoạt động xây dựng được kết thúc khi công trình đã được bàn giao toàn bộ cho chủ
đầu tư.
- Sau khi bàn giao công trình, nhà thầu xây dựng phải thanh lý hoặc di chuyển hết tài
sản của mình ra khỏi khu vực xây dựng công trình và trả lại đất mượn hoặc thuê tạm để
phục vụ thi công theo quy định của hợp đồng, chịu trách nhiệm theo dõi, sửa chữa các
hư hỏng của công trình cho đến khi hết thời hạn bảo hành công trình.
10


- Hiệu lực hợp đồng xây lắp chỉ được chấm dứt hoàn toàn và thanh quyết toán toàn bộ
khi hết thời hạn bảo hành công trình.

- Công trình xây đựng sau khi nghiệm thu bàn giao chủ đầu tư phải đăng ký tài sản
theo quy định của pháp luật. Hồ sơ đăng ký tài sản là biên bản tổng nghiệm thu bàn
giao công trình.
- Tất cả các dự án đầu tư của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sau
khi hoàn thành đưa dự án vào khai thác sử dụng đều phải quyết toán vốn đầu tư. Chủ
đầu tư chịu trách nhiệm quyết toán vốn đầu tư.
- Chậm nhất là 6 tháng sau khi dự án hoàn thành đưa vào vận hành, chủ đầu tư phải
hoàn thành báo cáo quyết toán vốn đầu tư gửi người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
- Dự án đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, trong báo cáo quyết toán phải phân
tích rõ từng nguồn vốn.
- Báo cáo quyết toán vốn đầu tư phải xác định đầy đủ, chính xác số vốn đầu tư thực
hiện hàng năm, tổng mức vốn đã đầu tư thực hiện dự án; giá trị tài sản bàn giao cho
sản xuất sử dụng. Đối với các dự án đầu tư kéo dài nhiều năm, khi quyết toán chủ đầu
tư phải quy đổi vốn đầu tư đã thực hiện về mặt bằng giá trị tại thời điểm bàn giao đưa
vào vận hành để xác định giá trị tài sản cố định mới tăng và giá trị tài sản bàn giao.
- Bộ Xây dựng phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn
phương pháp quy đổi vốn thống nhất trong từng thời kỳ để các chủ đầu tư thực hiện
khi quyết toán.
- Bộ Tài chính hướng dẫn thời gian lập quyết toán, nội dung báo cáo quyết toán, nội
dung thẩm tra, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà
nước, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn do
doanh nghiệp nhà nước huy động để đầu tư phát triển.
*)Phê duyệt thiết kế và tổng dự toán
-Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt quyết toán vốn đầu tư các dự án nhóm A của Nhà
nước theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ.
-Đối với các dự án còn lại thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời là
người phê duyệt quyết toán vốn đầu tư.
- Chưa có các quy định chặt chẽ về các chế tài trong phân cấp quản lý đầu tư và xây
dựng : Chủ trương phân cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách là hoàn toàn
hợp lý, phù hợp với xu thế cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện

11


nay. Tuy nhiên do đây là một chủ trương mới phát sinh và mới trong giai đoạn triển
khai thực hiện bước đầu nên trong các văn bản pháp quy về vấn đề này còn chưa được
chặt chẽ. Các Nghị định 52/CP, 12/CP còn thiếu các quy định chi tiết, thiếu các chế tài
để kiểm tra, kiểm soát; vì vậy, rất dễ phát sinh các vi phạm trong quản lý đầu tư và xây
dựng.
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế hoạch là
phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên tình trạng
áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trông năm kế hoạch phải điều hoà, điều chuyển vốn.
Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời điểm tháng 10
trước năm kế hoạch
Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm
1999 và Nghị định số 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 về việc sửa đổi bổ sung một số
điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/CP quy
định như sau:
Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
+Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án
thuộc nhóm A;
+Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ,..,Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C;
+Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ tư lệnh các Quân khu, Quân đoàn, Quân
chủng, Bộ đội Biên phòng và tương đương trực thuộc Bộ Quốc Phòng có thể được uỷ
quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C; các Tổng cục trực thuộc Bộ có thể được uỷ
quyền quyết định các dự án nhóm C;
+Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ
quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 2 tỷ
đồng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố còn lại có thể uỷ quyền quyết

định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng;
+Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án thuộc
vốn ngân sách Nhà nước do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp.

12


Quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án của doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín
dụng do Nhà nước bảo lãnh và vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thực hiện
theo quy định tại khoản 2 điều 10 của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành
kèm theo Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ và khoản 4 điều
1 Nghị định này.
Hội đồng quản trị các Tổng công ty Nhà nước được quyền quyết định đầu tư các dự án
nhóm C. Riêng với các Tổng công ty 91 (Tổng công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập) thì Hội đồng quản trị của Tổng công ty được quyền quyết
định đầu tư các dự án nhóm B và C.
Việc phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã phát huy tính chủ động, tính thực tiễn của cơ quan quản lý, của địa phương.
Tuy nhiên, do thiếu các quy định cụ thể chi tiết, thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm
bảo đảm vốn, phê duyệt dự án đầu tư không dựa vào khả năng cân đối vốn, thiếu kiểm
tra, giám sát,... nên tình hình đầu tư phân tán, dàn trải còn phổ biến, số công trình dở
dang chưa có vốn còn nhiều, nhưng đã bố trí hàng loạt công trình khởi công mới.
Trong những năm qua, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, mặt khác quy hoạch phát
triển ngành thể dục thể thao còn đang trong giai đoạn xem xét nên không tránh khỏi
những thiếu sót trong việc quản lý đầu tư và xây dựng gây bất cập trong công tác quản
lý và điều hành.
Nguồn vốn ngân sách được phép để lại đầu tư cho các ngành, các địa phương thường
không được kế hoạch hoá chặt chẽ trong kế hoạch chung của Nhà nước, của từng cấp

Bộ ngành, tình trạng phân tán trong sử dụng nguồn vốn này là rất lớn. Việc phân cấp
đầu tư giữa Trung ương và địa phương, giữa nhà nước và nhân dân chưa rõ ràng, gây
ảnh hưởng lớn đến sự hoàn thiện, tính đồng bộ của công trình, công trình xây dựng
kém hiệu quả.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán dàn trải còn do nể nang, chủ
nghĩa bình quân vẫn còn xảy ra ở nơi này, nơi khác,... do đó bố trí vốn không tập trung,
dứt điểm. Tình trạng đầu tư theo phong trào còn chưa chấm dứt.
13


Do vậy, cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan phê duyệt để hạn chế tình trạng phê
duyệt tràn lan, đồng thời quy định chế tài đối với các bên cấp vốn và nhận vốn nếu như
thực hiện sai các quy định này. Ví dụ bên cấp vốn cấp vốn cho các công trình được phê
duyệt lại với tổng dự toán tăng lên không phải do nguyên nhân khách quan được Nghị
định mới cho phép, hoặc bên tiếp nhận vốn đệ trình các dự án không nằm trong quy
hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt... đều phải bị xử lý.
Việc phân cấp và uỷ quyền trong đầu tư cho cấp thấp hơn là một xu thế tất yếu. Nhưng
khi trình độ xây dựng, phân tích, thẩm định dự án của cán bộ các cấp chưa cao, quyết
định đầu tư dự án còn có nhiều mặt chi phối, tiêu chí lựa chọn dự án đầu tư chưa được
quy chuẩn rõ ràng, dẫn đến việc chọn các dự án đưa vào chương trình đầu tư quá
nhiều, không phù hợp với khả năng nguồn vốn, thời gian thi công kéo dài, kém hiệu
quả và còn nhiều rủi ro. Nhiều Bộ, ngành và địa phương không thực hiện chủ trương
tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ vốn kế hoạch hàng năm. Tình trạng dàn trải
trong đầu tư càng ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Năm sau, số lượng các dự án, công
trình nhiều hơn năm trước. Các dự án nhóm B không thể hoàn thành trong 4 năm, các
dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 2 năm.
Trong một số năm gần đây, cùng với nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước cũng
như nguồn khấu hao cơ bản để lại, ngành điện đã có cố gắng thu hút được nhiều dự án
ODA, đã xây dựng mới và mở rộng nhiều nguồn điện và hệ thống lưới truyền tải và
phân phối điện, nên cơ bản đáp ứng đủ điện cho các ngành kinh tế xã hội và ánh sáng

sinh hoạt dân cư. Nhưng mặt khác cũng tạo ra sự mất cân đối về nguồn vốn đâù tư cho
ngành. Hàng năm nguồn vốn tín dụng đầu tư của ngành điện chủ yếu để cân đối vốn
cho các dự án nhóm A, nhất là các dự án ODA. Vì vậy ngay cả một số dự án nguồn
điện (nhóm A), chưa nói các dự án nhóm B và C đều phải kéo dài thời gian thực hiện
dự án, không đảm bảo theo quy định của Nhà nước
2.2.2. Phân cấp quản lý đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước
Vấn đề phân cấp hiện nay đối với đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tương đối đơn
giản theo một số nguyên tắc sau:
+ Nếu doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn ngân sách nhà nước: thực hiện như quy
định đầu tư của Ngân sách nhà nước.
14


+ Nếu doanh nghiệp nhà nước sử dụng nguồn vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước thì tiến hành thẩm tra đối với các dự án thuộc
Cấp Trung ương.
+ Nếu doanh nghiệp nhà nước sử dụng vốn tự có, doanh nghiệp tự thẩm định và quyết
định đầu tư theo Luật doanh nghiệp nhà nước; riêng đối với các dự án quốc gia thì phải
qua bước thẩm tra.
2.2.3. Phân cấp quản lý đầu tư tư nhân
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công tác quản lý nhà nước liên quan đến
Bộ Kế hoạch và Đầu tư bao gồm một số hoạt động sau:
Cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận điều kiện kinh doanh Ban hành và thực
hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư ;
Cho ý kiến trước khi chủ đầu tư quyết định dự án thuộc nhóm A, cấp giấy phép xây
dựng đối với các dự án thuộc nhóm A, B, C Cho phép tham gia liên doanh với nước
ngoài .
Kiểm tra, giám sát quá trình đầu tư kinh doanh (với sự tham gia của nhiều ngành);
Cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài.
Hiện nay, phân cấp quản lý nhà nước đối với đầu tư tư nhân được thực hiện như sau:

Cấp Trung ương ban hành các văn bản pháp luật về chính sách khuyến khích đầu tư
trong nước, áp dụng thống nhất trong cả nước. Cấp Trung ương (uỷ quyền cho Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài.
Cấp Tỉnh có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư và ban hành các biện pháp
ưu đãi khác theo thẩm quyền của mình trên cơ sở luật định (ví dụ: hỗ trợ đào tạo, ưu
đãi đất…)
2.2.4. Phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài
Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài bao gồm một số hoạt động sau:
2.2.4.1.Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư nước ngoài
Quốc hội, Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đối với quản lý
đầu tư nước ngoài, áp dụng cho toàn quốc.
2.2.4.2.Ban hành danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài và xúc tiến đầu tư
Trung ương và các địa phương ban hành danh mục các dự án thu hút đầu tư nước
ngoài và tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư.Tại Điều 114.(Thẩm quyền quyết định
dự án đầu tư ) của Nghị Định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A gồm:
a) Các dự án không phân biệt quy mô vốn đầu tư thuộc các lĩnh vực:
15


Xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao, Khu đô
thị; dự án BOT, BTO, BT;
Xây dựng và kinh doanh cảng biển, sân bay; kinh doanh vận tải đường biển, hàng
không;
Hoạt động dầu khí;
Dịch vụ bưu chính, viễn thông
Văn hoá; xuất bản, báo chí; truyền thanh, truyền hình; cơ sở khám, chữa bệnh; giáo
dục, đào tạo; nghiên cứu khoa học; sản xuất thuốc chữa bệnh cho người;
Bảo hiểm, tài chính, kiểm toán, giám định;
Thăm dò, khai thác tài nguyên quý hiếm;

Xây dựng nhà ở để bán;
Dự án thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
b) Các dự án có vốn đầu tư từ 40 triệu USD trở lên thuộc các ngành điện, khai khoáng,
luyện kim, xi măng, cơ khí chế tạo, hoá chất, khách sạn, căn hộ Văn phòng cho thuê,
khu vui chơi giải trí du lịch;
c) Các dự án sử dụng đất đô thị từ 5 ha trở lên và các loại đất khác từ 50 ha trở lên.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định dự án nhóm B (là các dự án không quy định tại
khoản 1 Điều này), trừ những dự án quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với những dự án quy định tại khoản 1 Điều
115 Nghị định này.
2.2.4.3.Cấp, thu hồi giấy phép đầu tư
Tại điều Điều 115 (Phân cấp cấp Giấy phép đầu tư) của Nghị định 24/2000/NĐ-CP
ngày 31/7/2000 quy định :
1. Dự án đầu tư phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải có
các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
a) Phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã được duyệt;
b) Không thuộc dự án nhóm A quy định tại khoản 1 Điều 114 Nghị định này có quy
mô vốn đầu tư theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
2. Không phân cấp việc cấp Giấy phép đầu tư cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với dự
án đầu tư thuộc các lĩnh vực sau đây (không phân biệt quy mô vốn đầu tư):
a) Xây dựng đường quốc lộ, đường sắt;
b) Sản xuất xi măng, luyện kim, điện, đường ăn, rượu, bia, thuốc lá; sản xuất, lắp ráp
ôtô, xe máy;
c) Du lịch lữ hành.
Về quyền hạn cấp giấy phép đầu tư :
16


+ Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án
đầu tư nước ngoài không thuộc nhóm A và có mức vốn dưới 5 triệu USD (trừ Hà nội,

Thành phố Hồ Chí Minh với dự án tới 10 triệu USD);
+ Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất được uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư cho
các dự án không thuộc nhóm A và có mức vốn dưới 40 triệu USD;
+ Cấp Trung ương cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án còn lại.
2.2.4.4.Hoạt động quản lý, kiểm tra và giám sát
Các hoạt động quản lý, kiểm tra và giám sát được giao cho cấp có thẩm quyền cấp
Giấy phép đầu tư.
Trong đó, chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư :
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối giải quyết các vấn đề trong quá trình hình
thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư gồm:
a) Hướng dẫn, phối hợp các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lập quy
hoạch, kế hoạch, danh mục dự án kêu gọi đầu tư và tiến hành các hoạt động xúc tiến
kêu gọi đầu tư;
b) Chủ trì thẩm định, cấp Giấy phép đầu tư và Giấy phép điều chỉnh đối với dự án đầu
tư thuộc thẩm quyền;
c) Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ quyền cho Ban Quản lý Khu công
nghiệp cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy phép đầu tư cho dự án đầu tư nước ngoài đầu tư
vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao trên cơ sở đề nghị của Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (đối với Khu công
nghệ cao);
d) Hoà giải tranh chấp khi có yêu cầu;
đ) Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện hoạt động đầu tư nước ngoài;
e) Đánh giá tổng thể hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam;
g) Quyết định giải thể Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chấm dứt Hợp đồng
hợp tác kinh doanh trước thời hạn đối với dự án thuộc thẩm quyền.
2. Hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp tình hình cấp Giấy phép đầu tư và hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để báo cáo Thủ tướng Chính phủ và thông báo
cho các Bộ, ngành liên quan.


17


Chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm:
1. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây dựng pháp luật, chính sách, quy
hoạch liên quan đến đầu tư nước ngoài.
2. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
ngành; tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư.
3. Tham gia ý kiến về các vấn đề thuộc thẩm quyền trong việc thẩm định dự án, cấp và
điều chỉnh Giấy phép đầu tư.
4. Ban hành và hướng dẫn việc thực hiện chính sách, giải quyết các thủ tục liên quan
đến triển khai, thực hiện dự án đầu tư.
5. Kiểm tra chuyên ngành; đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư thuộc
lĩnh vực quản lý ngành.
6. Ban hành quy phạm, quy trình kỹ thuật liên quan đến lĩnh vực, ngành kinh tế kỹ
thuật.
7. Thực hiện các nhiệm vụ khác thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2.3. Một số tồn tại và yếu kém trong phân cấp quản lý đầu tư hiện nay
- Chưa có các quy định chặt chẽ về các chế tài trong phân cấp quản lý đầu tư và xây
dựng: Chủ trương phân cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách là hoàn toàn
hợp lý, phù hợp với xu thế cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện
nay. Tuy nhiên do đây là một chủ trương mới phát sinh và mới trong giai đoạn triển
khai thực hiện bước đầu nên trong các văn bản pháp quy về vấn đề này còn chưa được
chặt chẽ. Các Nghị định 52/CP, 12/CP còn thiếu các quy định chi tiết, thiếu các chế tài
để kiểm tra, kiểm soát; vì vậy, rất dễ phát sinh các vi phạm trong quản lý đầu tư và xây
dựng.
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế hoạch là

phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên tình trạng
áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trông năm kế hoạch phải điều hoà, điều chuyển vốn.
Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời điểm tháng 10
trước năm kế hoạch

18


-Lãng phí và thất thoát trong đầu tư và xây dựng, tỷ lệ vốn đầu tư đưa vào công trình
thấp:
Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt dự án
đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch
được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ các chỉ tiêu
kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều tra thăm dò thị
trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê duyệt dự án đầu tư.
Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm
tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa
vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn.
Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề nhức
nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng mà đến
nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.
Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến việc tiết
kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy định, làm
tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng thiết kế, chủ
đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều chỉnh dự toán để
rút tiền và vật tư từ công trình.
Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý dự án,
các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát vốn

nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực, nhiều cấp;
tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất thoát thấp
cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến 80%. Đó là chưa
tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra
các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không tiêu thụ được...
Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở chính
những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm cho có quá
nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể xác định được

19


trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc quản lý rất kém hiệu
quả.
Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nếu như có được
một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu chỉ có một người
chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình hình sẽ không tồi tệ như
vậy
-Đầu tư chưa theo quy hoạch; chất lượng quy hoạch chưa cao; chất lượng các báo cáo
nghiên cứu khả thi còn hạn chế; chất lượng phân tích, thẩm định và đánh giá dự án
không theo đúng các chuẩn mực và tiêu chí rõ ràng :
Chất lượng của công tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui hoạch chưa thực sự là
cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều tiến hành xây dựng các quy
hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch ngành và qui hoạch lãnh thổ;
chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện; kết quả phổ biến là tình trạng đầu tư còn
chồng chéo, dư thừa công suất chế biến, nhưng lại thiếu nghiêm trọng nguồn nguyên
liệu, đầu tư thiếu đồng bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần, thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng
phí nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kém.
Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với yêu cầu

thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và của từng ngành,
lĩnh vực. Các công trình, dự án chưa tính đến các điều kiện và yếu tố cần thiết cho khai
thác, sử dụng.
Hậu quả của việc đầu tư ồ ạt vào hệ thống các nhà máy xi măng lò đứng, cũng như
đầu tư hệ thống các nhà máy sản xuất đường từ mía...cho thấy hơn lúc nào hết cần phải
nâng cao hơn nữa chất lương các quy hoạch và đặc biệt cần nâng cao hơn nữa vai trò,
trách nhiệm của các chủ đầu tư, gắn quyền hạn với trách nhiệm cá nhân của người có
thẩm quyền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể nếu để xảy ra những rủi ro do
nguyên nhân chủ quan.
Vấn đề phân loại các dự án, tổ chức thẩm định và thẩm quyền phê duyệt các loại quy
hoạch hiện nay cũng chưa được quy định một cách cụ thể: quy hoạch ngành đa lĩnh

20


vực; ngành kinh tế kỹ thuật cụ thể; các tỉnh trọng điểm và không trọng điểm; các khu
công nghiệp tập trung.
Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở lý luận, phương pháp lập chưa
phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp; vì vậy thường xuyên
phải điều chỉnh, kém tính ổn định.
-Đầu tư quá phân tán, dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài : Một trong những nguyên
nhân làm giảm hiệu quả đầu tư trong nhiều năm qua là đầu tư quá phân tán. Việc phân
cấp quyền ra quyết định đầu tư các dự án và phân bổ vốn cho các dự án cũng đã được
sửa đổi bổ sung theo hướng phân cấp cho các bộ, các ngành và các địa phương ngày
càng nhiều. Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng Nghị định số 52/CP ngày 8
tháng 7 năm 1999 và Nghị định số 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 về việc sửa đổi bổ
sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị
định 52/CP quy định như sau:
Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
+Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án

thuộc nhóm A;
+Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ,..,Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C;
+Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ tư lệnh các Quân khu, Quân đoàn, Quân
chủng, Bộ đội Biên phòng và tương đương trực thuộc Bộ Quốc Phòng có thể được uỷ
quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C; các Tổng cục trực thuộc Bộ có thể được uỷ
quyền quyết định các dự án nhóm C;
+Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ
quyền cho Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 2 tỷ
đồng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố còn lại có thể uỷ quyền quyết
định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng;
+Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án thuộc
vốn ngân sách Nhà nước do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp.
Quản lý các dự án đầu tư sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước.
Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án của doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn tín
dụng do Nhà nước bảo lãnh và vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, thực hiện
21


theo quy định tại khoản 2 điều 10 của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành
kèm theo Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ và khoản 4 điều
1 Nghị định này.
Hội đồng quản trị các Tổng công ty Nhà nước được quyền quyết định đầu tư các dự án
nhóm C. Riêng với các Tổng công ty 91 (Tổng công ty Nhà nước do Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập) thì Hội đồng quản trị của Tổng công ty được quyền quyết
định đầu tư các dự án nhóm B và C.
Việc phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã phát huy tính chủ động, tính thực tiễn của cơ quan quản lý, của địa phương.
Tuy nhiên, do thiếu các quy định cụ thể chi tiết, thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm

bảo đảm vốn, phê duyệt dự án đầu tư không dựa vào khả năng cân đối vốn, thiếu kiểm
tra, giám sát,... nên tình hình đầu tư phân tán, dàn trải còn phổ biến, số công trình dở
dang chưa có vốn còn nhiều, nhưng đã bố trí hàng loạt công trình khởi công mới.
Trong những năm qua, do nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, mặt khác quy hoạch phát
triển ngành thể dục thể thao còn đang trong giai đoạn xem xét nên không tránh khỏi
những thiếu sót trong việc quản lý đầu tư và xây dựng gây bất cập trong công tác quản
lý và điều hành.
Nguồn vốn ngân sách được phép để lại đầu tư cho các ngành, các địa phương thường
không được kế hoạch hoá chặt chẽ trong kế hoạch chung của Nhà nước, của từng cấp
Bộ ngành, tình trạng phân tán trong sử dụng nguồn vốn này là rất lớn. Việc phân cấp
đầu tư giữa Trung ương và địa phương, giữa nhà nước và nhân dân chưa rõ ràng, gây
ảnh hưởng lớn đến sự hoàn thiện, tính đồng bộ của công trình, công trình xây dựng
kém hiệu quả.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng đầu tư phân tán dàn trải còn do nể nang, chủ
nghĩa bình quân vẫn còn xảy ra ở nơi này, nơi khác,... do đó bố trí vốn không tập trung,
dứt điểm. Tình trạng đầu tư theo phong trào còn chưa chấm dứt.
Do vậy, cần quy định rõ trách nhiệm của cơ quan phê duyệt để hạn chế tình trạng phê
duyệt tràn lan, đồng thời quy định chế tài đối với các bên cấp vốn và nhận vốn nếu như
thực hiện sai các quy định này. Ví dụ bên cấp vốn cấp vốn cho các công trình được phê
duyệt lại với tổng dự toán tăng lên không phải do nguyên nhân khách quan được Nghị
22


định mới cho phép, hoặc bên tiếp nhận vốn đệ trình các dự án không nằm trong quy
hoạch, kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt... đều phải bị xử lý.
Việc phân cấp và uỷ quyền trong đầu tư cho cấp thấp hơn là một xu thế tất yếu. Nhưng
khi trình độ xây dựng, phân tích, thẩm định dự án của cán bộ các cấp chưa cao, quyết
định đầu tư dự án còn có nhiều mặt chi phối, tiêu chí lựa chọn dự án đầu tư chưa được
quy chuẩn rõ ràng, dẫn đến việc chọn các dự án đưa vào chương trình đầu tư quá
nhiều, không phù hợp với khả năng nguồn vốn, thời gian thi công kéo dài, kém hiệu

quả và còn nhiều rủi ro. Nhiều Bộ, ngành và địa phương không thực hiện chủ trương
tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ vốn kế hoạch hàng năm. Tình trạng dàn trải
trong đầu tư càng ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Năm sau, số lượng các dự án, công
trình nhiều hơn năm trước. Các dự án nhóm B không thể hoàn thành trong 4 năm, các
dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 2 năm.
Trong một số năm gần đây, cùng với nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước cũng
như nguồn khấu hao cơ bản để lại, ngành điện đã có cố gắng thu hút được nhiều dự án
ODA, đã xây dựng mới và mở rộng nhiều nguồn điện và hệ thống lưới truyền tải và
phân phối điện, nên cơ bản đáp ứng đủ điện cho các ngành kinh tế xã hội và ánh sáng
sinh hoạt dân cư. Nhưng mặt khác cũng tạo ra sự mất cân đối về nguồn vốn đâù tư cho
ngành. Hàng năm nguồn vốn tín dụng đầu tư của ngành điện chủ yếu để cân đối vốn
cho các dự án nhóm A, nhất là các dự án ODA. Vì vậy ngay cả một số dự án nguồn
điện (nhóm A), chưa nói các dự án nhóm B và C đều phải kéo dài thời gian thực hiện
dự án, không đảm bảo theo quy định của Nhà nước
- Chưa có các quy định chặt chẽ về các chế tài trong phân cấp quản lý đầu tư và xây
dựng: Chủ trương phân cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách là hoàn toàn
hợp lý, phù hợp với xu thế cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện
nay. Tuy nhiên do đây là một chủ trương mới phát sinh và mới trong giai đoạn triển
khai thực hiện bước đầu nên trong các văn bản pháp quy về vấn đề này còn chưa được
chặt chẽ. Các Nghị định 52/CP, 12/CP còn thiếu các quy định chi tiết, thiếu các chế tài
để kiểm tra, kiểm soát; vì vậy, rất dễ phát sinh các vi phạm trong quản lý đầu tư và xây
dựng.
23


Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế hoạch là
phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên tình trạng
áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trông năm kế hoạch phải điều hoà, điều chuyển vốn.
Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời điểm tháng 10

trước năm kế hoạch
- Vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư chưa rõ ràng. Trình độ, năng lực của chủ đầu tư,
cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập : Trong quá trình kiểm tra, thanh
tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có tình trạng chủ đầu tư giao cho các doanh
nghiệp không đủ năng lực chuyên môn và tài chính thực hiện công trình. Như vậy, dẫn
đến những hậu quả tai hại đối với công trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ
ràng về trách nhiệm của chủ đầu tư; không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa.
Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có tình trạng
phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp sử dụng công trình
sau khi hoàn thành. Ví dụ công trình xây dựng bệnh viện thường do giám đốc bệnh
viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu trưởng nhà trường làm chủ dự án; công
trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm chủ dự án... Nhưng do những người này không
có kiến thức chuyên môn về quản lý đầu tư và xây dựng nên sai sót, đến khi bị thanh
tra phát hiện, thì đổ cho các nguyên nhân khách quan như không có nghiệp vụ về lĩnh
vực quản lý đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan quản lý nhà nước đã thẩm
định và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó...
Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ đầu tư, nhất
là các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn rất hạn chế ngay từ khâu
lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình thành các PMU như hiện nay,
thực chất là thêm một khâu trung gian không cần thiết, cần nghiên cứu cải tiến, nếu xét
thấy không phù hợp với thực tế quản lý thì giải tán.
3. Giải pháp
Phân cấp trong quản lý đầu tư là một yêu cầu khách quan.
Cải cách thể chế nhà nước và tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất quản lý Nhà
nước, có sự phối hợp giữa các cơ quan.
24


Phù hợp với định hướng chung của cải cách thể chế nhà nước nêu trên, hoàn thiện
quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư cần phải thực hiện theo nguyên tắc chung

này.
-Phân cấp phải đồng bộ với các biện pháp quản lý khác trong cơ chế quản lý kinh tế
nói chung. Vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư không thể tách rời với quá trình
hoàn thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý kinh tế nói chung vì thế cần phải xem
xét trong mối quan hệ với các luật hiện hành có liên quan và định hướng hoàn thiện cơ
chế quản lý chung trong thời gian tới. Thực tế hoạt động đầu tư đang chi phối bởi
nhiều văn bản dưới luật, trong đó không ít những nội dung quy định trong các văn bản
này có sự chồng chéo hoặc không nhất quán; những vấn đề này cần được xem xét đồng
bộ trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư nói chung và vấn đề phân cấp trong đầu
tư nói riêng.
Mặt khác, phân cấp phải đi đôi với kiểm tra, kiểm soát. Nếu chỉ đặt ra vấn đề phân cấp
một cách đơn thuần thì Nhà nước không kiểm soát được và có thể phản tác dụng, dẫn
tới sự tuỳ tiện, lãng phí hơn.
- Cần có tiêu chí, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, minh bạch, dễ vận dụng cho mỗi thời
kỳ.
Về phân loại các dự án đầu tư, phân cấp, uỷ quyền trong các khâu xét duyệt, thẩm định
và phê duyệt các dự án đầu tư cần phải có tiêu chí và các điều kiện rõ ràng. Đây là vấn
đề trong cơ chế quản lý đầu tư hiện hành chưa được đặt ra hoặc là chưa được nghiên
cứu đầy đủ và cần phải bổ sung để đảm bảo sự hợp lý và thống nhất trong quản lý đầu
tư.
Tiêu chí chung nhất để phân cấp trong quản lý đầu tư là đảm bảo hiệu lực quản lý đối
với các hoạt động đầu tư. Hiệu lực quản lý đầu tư được thể hiện ở 3 yếu tố cơ bản là
thời gian, chất lượng và chi phí; cụ thể là nhanh, đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng
theo yêu cầu và với chi phí thấp nhất. Những tiêu chí điều kiện phân cấp sau:
+ Đảm bảo cho việc ra quyết định nhanh nhất.
+ Đảm bảo tính đơn nhất trong việc ra quyết định và trách nhiệm đối với một công
việc.
+Cấp quyết định phải là cấp có đủ điều kiện điều hành có hiệu quả nhất hoạt động đó
trong khung khổ luật lệ và chính sách chung.
25



×