Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

SO SÁNH FED và NGÂN HÀNG NHÀ nước VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.25 KB, 37 trang )

MỤC LỤC


DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM THUYẾT TRÌNH
Họ và tên
Nguyễn Thị Thu
Nguyễn Thị Thu
Nguyễn Thị Quỳnh Mai
Đặng Trần Khánh
Nguyễn Tá Tiến

MSV
CQ533723
CQ533722
CQ532431
CQ531951
CQ533918


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ FED VÀ NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM
1.1.

CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG HOA KỲ (FED)

1.1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển

1791-1811: Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - The First Bank
of the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống


Washington đặt bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
1816-1836: Ngân hàng thứ hai của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ - The Second Bank
of the United States được thành lập và đi vào hoạt động sau khi tổng thống
Madison đặt bút ký trao quyền thành lập với thời gian có hiệu lực 20 năm.
23/12/1913: Tổng thống Wilson ký dự luật Cục Dự trũ Liên bang Hoa Kỳ.
Trong suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nền kinh tế Hoa Kỳ chịu nhiều đe dọa từ
những yếu kém của hệ thống tài chính, dẫn đến những thất bại trong hệ thống ngân
hàng và hàng loạt doanh nghiệp phải phá sản. Và một khi hệ thống ngân hàng đã
không thể hoạt động đúng với vai trò của mình càng khiến cho nền kinh tế càng trở
nên dễ bị tổn thương hơn. Các khoản tín dụng ngắn hạn giờ đây là là nguồn vốn
quan trọng có tính thanh khoản cao. Trước tháng 10 năm 1907, khoảng một nửa
các khoản tiền gửi ngân hàng ở New York đều bị các công ty đầu tư ủy thác gán nợ
với lãi suất cao để đầu tư vào thị trường cổ phiếu và trái phiếu có đổ rủi ro cao, thị
trường tài chính rơi vào trạng thái đầu cơ tột độ. Khi công ty Kinkerbocker Trust công ty ủy thác lớn thứ ba nước Hoa Kỳ lúc bấy giờ có tin đồn phá sản thì khủng
hoảng niềm tin lan rộng và cuộc chạy đua rút tiền gửi và bán tháo cổ phiếu xảy ra.
Cuộc khủng hoảng nghiêm trọng 1907 xảy ra đã thôi thúc quốc hội Hoa Kỳ phải
thành lập ngay một Ủy ban tiền tệ quốc gia, đồng thời đã đưa ra những đề nghị
thiết lập một thể chế có thể giúp ngăn ngừa và chống đỡ được những rủi ro trong
lĩnh vực tài chính. Sau các cuộc thảo luận kỹ lưỡng, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông
qua Hiệp ước Dự trữ liên bang nhằm "tạo cơ sở cho sự ra đời của các ngân hàng dự
trữ liên bang, cung cấp các phương tiện đủ khả năng để tái chiết khấu các chứng từ
thương mại, thiết lập một cơ chế giám sát ngân hàng có hiệu quả hơn ở Hoa Kỳ, và


vì nhiều mục đích khác nữa". Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã ký thông
qua hiệp ước thành luật vào 23/12/1913, chính thức thành lập Cục dự trữ liên bang
Hoa Kỳ. Tuy nhiên ở thời kì này phạm vi hoạt động của Fed vẫn còn bị hạn chế.
Nhiệm vụ của Fed chỉ đơn giản là cung cấp một “đồng tiền linh hoạt”. Khi các
ngân hàng thiếu tiền mặt, họ có thể vay tiền từ Fed thông qua “cửa sổ chiết khấu”.
Hệ thống này khiến Fed lâm vào thế bị động trước nhu cầu của nền kinh tế. Ở thời

điểm này, không ai hi vọng Fed có thể sử dụng quyền kiểm soát với nguồn cung tín
dụng để định hình nền kinh tế.
Tuy nhiên, mọi thứ sớm thay đổi hoàn toàn. Trong những năm 1920, Fed bắt
đầu mua và bán trái phiếu trên thị trường mở để điều chỉnh nguồn cung tín dụng
vốn luôn biến động.
Trong suốt thời kỳ Đại khủng hoảng, Fed lại trở về thế bị động, hạn chế hoạt
động trên thị trường mở và cho phép hàng ngàn ngân hàng sụp đổ. Nguyên nhân
của hiện tượng này vẫn là điều gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên có một điều chắc
chắn: các ngân hàng không yêu cầu tín dụng và do đó Fed không làm điều đó,
khiến thị trường tiền tệ bị thắt chặt bất chấp giá cả và sản lượng đều sụt giảm.
Năm 1932, cựu Tổng thống Franklin Roosevelt đắc cử và thực hiện đại tu toàn
bộ hệ thống tài chính. Ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư hoàn toàn tách
biệt, cơ chế bảo hiểm tiền gửi ra đời và Fed có nhiều quyền lực hơn đối với nền
kinh tế. Fed có thể cho nhiều định chế tài chính vay tiền và nhận nhiều loại tài sản
đảm bảo hơn. Ủy ban thị trường mở ra đời, có ảnh hưởng lớn đến “điều kiện tín
dụng của nước Hoa Kỳ”.
Fed giúp nền kinh tế Hoa Kỳ thịnh vượng trong những năm 1950 và 1960. Tuy
nhiên, quá chú trọng vào thị trường việc làm khiến Fed quên mất lạm phát. Tỷ lệ
lạm phát tăng vọt lên mức hai con số trong những năm 1970. Tình trạng này buộc
Quốc hội phải quy định lại hai nhiệm vụ của Fed vào năm 1977: ổn định giá cả và
tạo việc làm.
Năm 1979, Volcker trở thành Chủ tịch Fed và đã thành công khi chiến đấu với
lạm phát. Người kế nhiệm ông là Alan Greenspan đã duy trì tình trạng lạm phát ở


mức thấp và thỉnh thoảng có những đợt suy thoái. Trong bối cảnh khủng hoảng
ngân hàng lu mờ, “cửa sổ chiết khấu” của Fed không còn được sử dụng.
Tháng 01 năm 1987, khi chỉ số lạm phát hàng tiêu dùng chỉ là 1%, Fed tuyên
bố không còn sử dụng tổng cung tiền tệ M2 làm định hướng kiểm soát lạm
phát nữa mặc dù phương pháp này đã rất thành công từ 1979. Trước 1980, lãi

suất được sử dụng làm định hướng và lạm phát khi đó rất cao. Việc sử dụng chỉ số
tổng cung tiền tệ M2 thay thế lãi suất làm định hướng rất thành công, nhưng Paul
Volcker cho rằng nó dễ gây nhầm lẫn.
Tháng 08 năm 1987, 07 tháng sau khi thay đổi chính sách tổng cung tiền
tệ, Alan Greenspan thay thế Volcker trên cương vị Chủ tịch Hội đồng thống đốc.
Và rồi sau 19 năm lãnh đạo Fed rất thành công, huyền thoại của ngành tài chính
thế giới, Alan Greenspan nghỉ hưu và chỉ định người kế tục mình, Ben Bernanke.
1.1.2.

Cơ cấu tổ chức

Hiện nay, cơ cấu tổ chức của FED gồm có:
Thứ nhất, Hội đồng thống đốc. Cơ quan quản lý cao nhất của FED là hội đồng
thống đốc gồm có 7 thành viên, được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê
chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên được lựa chọn cho nhiệm kỳ là 14 năm (trừ
khi bị phế truất bởi tổng thống) và không phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên
một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ nốt phần chưa hoàn tất của thành
viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm nữa (Ví dụ cựu chủ tịch Hội
đồng là Alan Greenspan đã phục vụ 19 năm từ năm 1987 đến năm 2006). Những
thành viên hiện thời của hội đồng thống đốc là:
-

Chủ tịch: Janet L. Yellen
Phó chủ tịch: Stanley Fischer
Daniel K. Tarullo
Jerome H. Powell
Lael Brainard
Thứ hai, Ủy ban thị trường tự do Liên bang (FOMC), gồm 7 thành viên của
Hội đồng thống đốc và 5 đại diện từ các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực. Luôn



có một đại diện của Ngân hàng FED tại Quận 2, thành phố New York (hiện tại là
Timonthy Geithner) là thành viên trong ủy ban này. Thành viên từ các Ngân hàng
khác được luân phiên theo thời gian 2 hoặc 3 năm. FOMC thường xuyên tiến hành
việc chỉ đạo các nghiệp vụ thị trường tự do. Vì các nghiệp vụ thị trường tự do là
một công cụ quan trọng của FED để kiểm soát cung ứng tiền tệ nên FOMC là tiêu
điểm cho việc hoạch định chính sách của cả Hệ thống dự trữ Liên bang.
Thứ ba, các ngân hàng dự trữ. FED gồm 12 ngân hàng và 25 chi nhánh ở khắp
nước Hoa Kỳ nên nó là một hệ thống ngân hàng trung ương tư nhân. Mỗi ngân
hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo tên thành phố
mà nó đặt trụ sở, đó là Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond,
Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco.
Trong đó ngân hàng dự trữ New York có vai trò nổi bật hơn một chút so với các
ngân hàng còn lại.

Bản đồ các khu vực quản lý của các ngân hàng Fed khu vực
STT

Tên ngân hàng

1

Boston

2

New York


3


Philadelphia

4

Cleveland

5

Richmond

6

Atlanta

7

Chicago

8

St Louis

9

Minneapolis

10

Kansas City


11

Dallas

12

San Francisco
Thứ tư, các ngân hàng thành viên. Tất cả các ngân hàng đều là thành viên của

FED, phải tuân thủ mức dự trữ bắt buộc, được vay tiền từ FED, được thanh toán bù
trừ tại FED, chịu sự giám sát về các hoạt động bởi FED.
1.2.

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

1.2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển

Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ khi Ngân hàng
Quốc gia Việt nam ra đời đến nay có thể chia thành 4 thời kỳ như sau:
Thời kỳ 1951-1954: Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt
động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên:
Phát hành giấy bạc Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính; Thực hiện quản lý Kho
bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân
sách; Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Hoa Kỳ, miền
Bắc vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam.

Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật giá,
tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh phá hoại
bằng không quân của Hoa Kỳ ở miền Bắc.


- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy mạnh
khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng
miền Nam.
Thời kỳ 1975-1985: Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng
và thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết
lập hệ thống Ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống Ngân hàng
của chế độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát
hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các
loại tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ thống
Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân sách, chưa
thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị trường.
Thời kỳ 1986 đến nay: Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống
Ngân hàng Việt Nam:
- Tháng 7/1987: Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho phép làm
thử việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN.
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với định
hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh về ngân
hàng (Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác
xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 pháp lệnh ngân hàng đã chính
thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang

hai cấp. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng
trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong khuôn khổ pháp luật.


- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt nam và cộng đồng tài chính quốc tế
(Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á) được tái
lập và khơi thông.
- Ngày 02/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức
tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/10/1998.
- Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/2011. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ
của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân hàng trung ương về
phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho
Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền;
bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo
đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính phủ đã
ban hành Nghị định quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện theo Nghị
định số 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ.
1.2.2.


Cơ cấu tổ chức

Về cơ cấu tổ chức, theo Nghị định 156/2013/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước có
27 đơn vị trực thuộc, trong đó 20 đơn vị giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng Ngân hàng trung ương, 7 đơn
vị là tổ chức sự nghiệp.
Trên cơ sở Nghị định 156/2013/NĐ-CP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành các Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, như sau:


- Vụ Chính sách tiền tệ: Tham mưu, giúp Thống đốc xây dựng chính sách tiền
tệ Quốc gia và sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo quy định của pháp luật.
- Vụ Quản lý ngoại hối: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp luật.
- Vụ Thanh toán: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước về
lĩnh vực thanh toán trong nền kinh tế quốc dân theo quy định của pháp luật.
- Vụ Tín dụng các ngành kinh tế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý
Nhà nước về lĩnh vực tín dụng ngân hàng và điều hành thị trường tiền tệ theo quy
định của pháp luật.
- Vụ Dự báo thống kê tiền tệ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công tác dự
báo, thống kê tiền tệ theo quy định của pháp luật.
- Vụ Hợp tác quốc tế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về hợp tác và hội nhập quốc tế thuộc phạm vi quản lý của NHNN theo
quy định của pháp luật.
- Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính: Tham mưu, giúp Thống đốc trong hoạt động,
phân tích, đánh giá, thực thi chính sách an toàn vĩ mô của hệ thống tài chính và
biện pháp phòng ngừa rủi ro của hệ thống tài chính.
- Vụ Kiểm toán nội bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện kiểm toán nội bộ
hoạt động của các đơn vị thuộc NHNN.

- Vụ Pháp chế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước bằng
pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong ngành ngân hàng.
- Vụ Tài chính - Kế toán: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công tác tài
chính, kế toán, đầu tư xây dựng cơ bản của NHNN và quản lý Nhà nước về kế
toán, đầu tư xây dựng cơ bản của ngành Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Vụ Tổ chức cán bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc, ban cán sự Đảng NHNN
thực hiện công tác tổ chức, biên chế, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên
chức; chế độ tiền lương và các chế độ khác thuộc phạm vi quản lý của NHNN theo
quy định của pháp luật.
- Vụ Thi đua khen thưởng: Tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước về
công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Văn phòng: Tham mưu, giúp Thống đốc chỉ đạo và điều hành hoạt động ngân
hàng; thực hiện công tác cải cách hành chính của NHNN; quản lý hoạt động thông
tin, tuyên truyền, báo chí, văn thư, lưu trữ của ngành Ngân hàng theo quy định của


pháp luật; thực hiện công tác hành chính, lễ tân, văn thư, lưu trữ tại trụ sở chính
NHNN.
- Cục Công nghệ tin học: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện nhiệm vụ quản
lý Nhà nước chuyên ngành về lĩnh vực công nghệ tin học trong phạm vi toàn
ngành Ngân hàng.
- Cục Phát hành và kho quỹ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước và chức năng Ngân hàng Trung ương về lĩnh vực phát hành và
kho quỹ theo quy định của pháp luật.
- Cục Quản trị: Giúp Thống đốc quản lý tài sản, tài chính, cơ sở vật chất kỹ
thuật, hậu cần, bảo vệ, an ninh trật tự, an toàn cơ quan, chăm lo đời sống, sức khỏe
cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc trụ sở chính NHNN.
- Sở Giao dịch: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng
Trung ương.
- Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng: Cơ quan trực thuộc NHNN thực hiện

chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành
về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của NHNN;
Tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, tổ
chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện
phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
- NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Là các đơn vị phụ
thuộc của NHNN, chịu sự điều hành và lãnh đạo tập trung, thống nhất của Thống
đốc NHNN; có chức năng tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước về tiền tệ
và hoạt động ngân hàng trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ Ngân hàng
trung ương theo ủy quyền của Thống đốc.
- Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh: Đơn vị phụ thuộc của
NHNN, thực hiện nhiệm vụ đại diện theo sự ủy quyền của Thống đốc NHNN.
- Viện Chiến lược ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước trực thuộc NHNN, có
chức năng nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
ngành Ngân hàng; tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ngân hàng
phục vụ cho yêu cầy quản lý Nhà nước của NHNN về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng theo quy định của pháp luật.


- Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam: Tổ chức sự nghiệp Nhà
nước thuộc NHNN, có chức năng thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân tích, dự báo thông
tin tín dụng phục vụ cho yêu cấu quản lý Nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch
vụ thông tin ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.
- Thời báo ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN; là cơ quan
ngôn luận, diễn đàn xã hội và là công cụ tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và hoạt động của ngành
Ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.
- Tạp chí ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN; là cơ quan
ngôn luận và diễn đàn về lý luận, nghiệp vụ, khoa học và công nghệ ngân hàng; có
chức năng tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước, hoạt động ngân hàng và những thành tựu về khoa học,
công nghệ của ngành Ngân hàng và lĩnh vực liên quan theo quy định của NHNN
và của pháp luật.
- Trường bồi dưỡng cán bộ ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp có thu thuộc cơ cấu tổ
chức của NHNN, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng
quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực ngân hàng phục vụ yêu
cầu phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của
NHNN và của ngành ngân hàng theo quy hoạch, kế hoạch đã được Thống đốc phê
duyệt.
- Trường Đại học ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh: Đào tạo học sinh, sinh
viên, học viên nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành ngân
hàng, bảo hiểm, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội khác ở trong nước và
trên thế giới.
- Học viện Ngân hàng: Đào tạo cán bộ ở bậc giáo dục chuyên nghiệp, bậc đại
học và trên đại học về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng và một số ngành,
chuyên ngành khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; tổ chức các khoá
bồi dưỡng nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng; tổ chức NCKH và công nghệ về
ngân hàng; thực hiện hợp tác về đào tạo và NCKH ngân hàng với các tổ chức trong
và ngoài nước theo quy định chung của Nhà nước.


Trải qua 63 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống Ngân hàng đã góp phần
xứng đáng vào những thành tựu của cách mạng Việt Nam, góp phần củng cố nền
độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Ghi nhận những đóng góp to lớn của ngành Ngân hàng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã phong tặng và
ban thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho các tập thể và cá nhân của ngành. Năm
1996, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, ngành Ngân hàng vinh dự được đón
nhận Huân chương Hồ Chí Minh. Đặc biệt, ngày 6/5/2006, tại Lễ kỷ niệm 55 năm
ngày thành lập, ngành Ngân hàng đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng phần

thưởng cao quý nhất - Huân chương Sao vàng; vào dịp kỷ niệm 60 năm thành lập
Ngành (27/4/2011), ngành Ngân hàng đã vinh dự được đón nhận Huân chương Hồ
Chí Minh lần thứ 2.


CHƯƠNG 2: SO SÁNH FED VÀ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
Chỉ tiêu

Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ Ngân hàng nhà nước

Nguồn

FED
• Rất lớn
• Tổng nguồn vốn từ 869 tỷ

vốn



Nhỏ



Vốn pháp định là 10.000 tỷ đồng

USD (2007) lên 4.500 tỷ

( nếu 1USD=21.000 VND thì


USD ( theo BCTC tháng

tương đương 476,2 triệu USD)

9/2014)
Địa

vị Là Ngân hàng trung ương độc Là NHTW trực thuộc Chính phủ

pháp lý

lập với Chính phủ
Chính phủ không có quyền can Chính phủ có ảnh hưởng rất lớn đối
thiệp

vào

hoạt

động

của với NHTW thông qua việc bổ nhiệm

NHTW, đặc biệt trong việc thực các thành viên, can thiệp trực tiếp
thi và xây dựng chính sách tiền vào việc xây dựng và thực thi chính
tệ
sách tiền tệ
Là NH của các NH và là NH Là cơ quan ngang bộ của Chính phủ,
của Chính phủ Liên bang


là Ngân hàng trung ương của nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
FED vừa là tư nhân vừa là nhà NHNN là pháp nhân, có vốn pháp
nước. Hội đồng không nhận tài định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ
trợ của Quốc hội và bảy thành sở chính tại thủ đô Hà Nội
viên của Hội đồng theo cơ chế
dân chủ. Thành viên của Hội
đồng là độc lập và không phải
chấp hành yêu của hệ thống lập
pháp cũng như hành pháp, tuy
nhiên Hội đồng phải gửi báo
Về

cáo tới Quốc hội theo định kỳ
cơ Gồm:

Đứng đầu là thống đốc ngân hàng, là

cấu

tổ Hội đồng thống đốc

thành viên của Chính phủ, được Thủ


chức, bộ Ủy ban thị trường tự do liên tướng Chính phủ Việt Nam đề nghị
máy làm bang


trình Quốc hội Việt Nam chấp thuận

việc

Các ngân hàng dự trữ

bổ nhiệm. Thống đốc NHNN là thủ

Các ngân hàng thành viên

trưởng cơ quan Ngang Bộ (tức Bộ
trưởng) trong Chính phủ. Giúp việc
cho thống đốc ngân hàng là các phó
thống đốc phụ trách từng lĩnh vực cụ
thể.
Ngân hàng nhà nước có 24 đơn vị
trực thuốc, trong đó 19 đơn vị giúp
thống đốc NHNN thực hiện chức
năng quản lý nhà nước và chức năng
NHTW, 5 đơn vị là tổ chức sự

Cách

nghiệp
Hội đồng tư vấn liên bang do 12 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố

thức điều đại diện của các Ngân hàng địa trực thuộc TW: là các đơn vị phụ
hành,

phương thuộc cục dự trữ liên thuộc của NHNN, chịu sự điều hành


hoạt

bang, có quyền bỏ phiếu như và lãnh đạo tập trung, thống nhất của

động

nhau khi thông qua các quyết Thống đốc NHNN
định. Chính hội đồng tư vấn liên
bang này là người đề xuất các
kiến nghị chính sách tiền tệ cho
Hội đồng thống đốc.
Giấy bạc do FED phát hành là
nguồn cung tiền tệ và chúng
được đưa vào lưu thông qua các

Chức

Ngân hàng liên bang khu vực

Thực thi những chính Đảm trách việc phát hành tiền tệ,

năng

sách tiền tệ quốc gia để duy trì quản lý tiền tệ và tham mưu các

nhiệm vụ mức việc làm, giá cả ổn định và chính sách liên quan đến tiền tệ cho


lãi suất tương đối thấp

Chính phủ như: phát hành tiền tệ,

Giám sát và quản lý các chính sách tỷ giá, chính sách về lãi
thể chế Ngân hàng để đảm bảo suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn
đó là những nơi an toàn để gửi thảo các dự thảo luật về kinh doanh
tiền và để bảo vệ quyền lợi tín ngân hàng và các tổ chức tín dụng,
dụng của người dân
xem xét việc thành lập các ngân hàng

Cung cấp các dịch vụ tài
và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân
chính cho các tổ chức tín dụng,
hàng thương mại nhà nước…
Chính phủ Hoa Kỳ và NHTW
các quốc gia khác như thanh
toán bù trừ, thanh toán điện tử,
phát hành tiền…

Ngoài ra FED còn tiến
hành nghiên cứu các vấn đề
kinh tế Hoa Kỳ cũng như kinh
tế các bang, cung cấp thông tin
về nền kinh tế thông qua các ấn
phẩm, hội thảo giáo dục và qua
website
Công cụ Dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc

thi hành Lãi suất


Lãi suất

chủ yếu Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái



Hạn mức tín dụng

quả

hiệu Hạn mức tín dụng
Thỏa thuận mua lại
Giao dịch bán đứt
Thị trường mở


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA FED VÀ VAI TRÒ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA
3.1. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA FED
3.1.1. Các hoạt động chính của FED


Hoạt động in tiền: Ở Mỹ hiện tại có hai cơ quan được quyền in tiền đó là FED và
Bộ tài chính. Tuy nhiên độc quyền in tiền giấy thuộc về FED bởi Bộ tài chính chỉ
được quyền in tiền xu có mệnh giá nhỏ hơn hoặc bằng 1USD. Thực tế thì hoạt




động in tiền của FED được đảm bảo bằng các giấy tờ ghi nợ, trái phiếu…
Kiểm soát cung ứng tiền tệ: FED kiểm soát quy mô nguồn cung ứng tiền tệ bằng
các hoạt động thị trường mà qua đó FED mua hoặc cho mượn các loại trái phiếu,
giấy tờ có giá. Những tổ chức tham gia mua bán với FED gọi là giao dịch ưu tiên.
Tất cả hoạt động thị trường của FED đều tiến hành tại bàn giao dịch thị trường của
Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực New York với mục đích là đạt được tỷ lệ lãi
suất trái phiếu liên bang gần với tỷ lệ mục tiêu bằng việc sử dụng thỏa thuận mua



lại hoặc bán đứt:
Thỏa thuận mua lại: thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế
chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời,
bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các
thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiên. Các mua bán chủ yếu là các
khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của FED. Trong ngày giao dịch, FED sẽ đặt
tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp. Khi hết hạn giao dịch,
quá trình diễn ra ngược lại, FED hoàn lại chứng khoán và nhận tiền lãi. Thời gian
giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đếm) tới 65 ngày, phần lớn là giao



dịch cho vay qua đêm và 14 ngày
Giao dịch mua đứt: Trong giao dịch này, FED mua lại trái phiếu Chính phủ và
cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại FED. Vì hoạt động
này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi




vẫn được thu, thông thường từ 12 đến 18 tháng
Chính sách tiền tệ của FED




Mua và bán trái phiếu Chính phủ: Khi FED mau trái phiếu Chính phủ, tiền được
đưa thêm vào lưu thông bởi khi có thêm tiền vào lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống
và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi FED bán ra trái phiếu Chính phủ thì tác
động sẽ ngược lại, tiền được rút bớt ra khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng



lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng
tiền mà nó quản lý. Quy định này sẽ ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu Fed yêu cầu
các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ



giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên
Thay đổi lãi suất các khoản vay từ FED: Các ngân hàng thành viên của FED vay
tiền từ FED để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà FED ấn định cho các
khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu



Tỷ lệ chiết khấu: Cục dự trữ liên bang thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng
cách định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định

với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ
này do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác
động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn
chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường. Cục dự trữ liên
bang còn ấn định tỷ lệ chiết khấu – lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả
khi vay tiền từ Fed. Tuy nhiên, các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt
cọc tại Fed từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của
Fed. Lý do của cách lựa chọn này là việc vay tiền từ Fed mang tính công khai rộng
rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin
cậy của ngân hàng đang đi vay. Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ
thường cao hơn 3% so với “lãi suất quỹ vốn tại Fed”. Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà
các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất. Ở
mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó
mà người tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất
cao đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn.


3.1.2. Thực trạng hoạt động của FED từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
2007 đến nay
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp
bằng cách hạ lãi suất và tăng mua MBS. Đến khi tình hình phát triển thành khủng
hoảng tài chính từ tháng 8 năm 2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp
tục tiến hành các biện pháp nới lỏng tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài
chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25%
qua 6 đợt xuống còn 2% chi trong vòng chưa đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008).
Lãi suất này sau đó còn tiếp tục giảm và đến ngày lố/12/2008 chỉ còn 0,25%, mức
lãi suất gần 0 hiếm thấy.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu kéo dài từ năm 2008
đến nay, đã đẩy nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng trì trệ kéo dài, khiến Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) phải liên tiếp hạ lãi suất xuống mức thấp kỷ lục 0 - 0,25% và

liên tục tung ra các gói QE (Quantitative Easing - gói nới lỏng định lượng) khổng
lồ để"giải cứu" nền kinh tế. Tháng 11/2008, Mỹ đã tung ra gói QE1 khi cuộc
khủng hoảng tài chính đang trong giai đoạn căng thẳng nhất. FED đã hạ lãi suất
đồng USD về 0 - 0,25% và chi ra khoảng 1.700 tỷ USD để mua các chứng khoán
nợ có tài sản thế chấp đảm bảo (MBS) và trái phiếu kho bạc để thúc đẩy nền kinh
tế.
BẢNG 1: QE: NHỮNG ĐIỂM NỔI BẬT
Định nghĩa
Nới lỏng định lượng thuộc về nhóm chính sách tiền
tệ phi truyền thống được NHTW sử dụng để bơm
tiền nhằm kích thích nền kinh tế khi các chính sách
Mục đích

Cách thức tiến hành

tiền tệ truyền thống đã bị vô hiệu
Chống giảm phát, tăng lượng tiền lưu thông
Kích thích đầu tư, chi tiêu và đối phó khủng hoảng
Cân đối ngân sách
Giải quyết tạm thời vấn đề nợ công
NHTW tiến hành in tiền (theo hình thức điện tử) và
ghi nợ vào tài khoản của mình
NHTW mua tài sản tài chính hoặc trái phiếu dài hạn


qua đó làm tăng dự trữ vượt quá tại NHTM và tăng
giá tài sản tài chính qua đó làm giảm lợi suất các tài
sản này
NHTW kỳ vọng NHTM sẽ sử dụng số tiền này cho
các doanh nghiệp và người dân vay để đầu tư hoặc

chi tiêu để qua đó kích thích nền kinh tế
Kỳ vọng tác động đến nền Tạo ra và duy trì sự ổn định của các thị trường tài
kinh tế

chính
Giảm thiểu phát sinh chi phí bảo hiểm rủi ro khi các
tổ chức tài chính gây quỹ tại thị trường tài chính
Tăng lượng cung tiền góp phần giảm bớt lo ngại về
rủi ro tín dụng
Cải thiện tình trạng suy thoái sâu hơn của nền kinh
tế.

Nguồn: Tạp chí tài chính ( />
Dưới tác động của QE1, nền kinh tế Mỹ đã phục hồi trong một giai đoạn
ngắn nhưng sau đó lại có dấu hiệu suy giảm. Do đó, từ ngày 3/11/2010 đến hết
tháng 6/2011, FED quyết định bơm thêm 600 tỷ USD cho chương trình QE2 để
mua trái phiếu chính phủ kỳ hạn từ 2 - 10 năm.
Để "giải cứu" và tiếp tục kích thích nền kinh tế Mỹ, FED đã triển khai chương
trình "Operation Twist" hay còn gọi là QE 2.5, bao gồm hai gói có trị giá 400 tỷ
USD và 267 tỷ USD. Nội dung chính của chương trình này là hoán đổi trái phiếu
mà cụ thể là bán trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn ngắn (đáo hạn dưới 3 năm) và
mua lại trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn dài (đáo hạn từ 6-30 năm)
Vậy tại sao không phải là QE3 mà là QE 2.5?
Nếu nhìn lại QE1vốn có ý nghĩa là nới lỏng có định lượng đến QE2 với mức
độ “bơm” tiền ngày càng giảm thì rõ ràng việc FED đưa thêm QE3 là không khả
thi khi hai gói cứu trợ trước mang lại hiệu quả thấp, vì nền kinh tế vẫn tăng trưởng
chậm chạp mà lạm phát bắt đầu tăng nhanh. QE1 và QE2 khi đó chỉ giúp mỗi vàng


là gia tăng ấn tượng, trái với mong muốn của FED. Bởi thế, FED đã không thực

hiện hành động này thêm một lần nữa.
Cụ thể, sau khi cuộc khủng hoảng tài chính lên tới đỉnh cao vào năm 2008
thì năm 2009, FED đưa ra QE1 với nhiều hình thức “bơm” tiền. Chuyển sang QE2
năm 2010, FED chỉ dùng tiền để mua trái phiếu chính phủ Mỹ. Bây giờ FED đưa
ra chương trình “Operation Twist” với ý nghĩa hoàn toàn khác với QE.
“Operation Twist” thực tế không phải “nới lỏng có định lượng” nên không
được gọi là QE3 nhưng mục đích vẫn là hỗ trợ nền kinh tế nên vẫn được xem là
mang lại một nửa ý nghĩa của QE nên được giới đầu tư gọi là QE 2.5.
Như vậy, khác với QE thông thường, với chương trình này FED không làm tăng
cung tiền và mở rộng bảng cân đối tài sản của mình mà chỉ thay đổi các thành phần
trong bảng cân đối sử dụng nguồn vốn có sẵn.
Tuy nhiên, sau 2 gói QE1 và QE2, nền kinh tế Mỹ vẫn không có nhiều dấu hiệu
khởi sắc. Chính phủ Mỹ quyết định tung ra gói QE3 vào tháng 9/2012, đồng thời
cam kết tiếp tục giữ lãi suất ngắn hạn ở mức gần 0% ít nhất đến giữa năm 2015.
FED tiến hành mua số lượng MBS trị giá 40 tỷ USD/tháng bằng cách phát hành
tiền và mua lại tài sản của các ngân hàng.
QE3 là gói chính sách tiền tệ mà FED đưa ra tạo điều kiện cho vay với lãi suất thấp
nhất để doanh nghiệp (DN) Mỹ phát triển, phục hồi kinh tế. QE3 được thực hiện
song song với chương trình "Operation Twist". Như vậy, ước tính tổng cộng mỗi
tháng FED sẽ nắm giữ khoảng 85 tỷ USD trái phiếu dài hạn.
Tuy nhiên, do không giải quyết được những bế tắc nội tại của nền kinh tế mà mới
đấy, FED đã cắt giảm 10 tỷ USD trong gói QE3
3.2. Vai trò của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thời gian qua
3.2.1. Hoạt động của NHNN Việt Nam
Thứ nhất, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ:


Tái cấp vốn: Tái cấp vốn là một hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của
NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và công cụ thanh toán cho các ngân
hàng như cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;

Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố hối phiếu và các giấy tờ có giá




Lãi suất: Thông thường, lãi suất là tỷ lệ % trên khoản tiền người vay phải trả
cho người cho vay trên tiền vốn, trong những khoảng thời gian nhất định.
Tuy nhiên, khi lãi suất được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng như
công cụ để tác động lên lượng tiền tệ trong lưu thông, đó không phải là lãi
suất kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể ấn định mức lãi suất
trần, lãi suất sàn hoặc lãi suất cơ bản tương ứng với từng loại hình tổ chức tín
dụng, từng loại tiền gửi. Căn cứ vào quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về lãi suất, các tổ chức tín dụng sẽ hoạch định lãi suất kinh doanh. Hiện
nay ở Việt Nam, một số hình thức lãi suất được NHNN sử dụng làm công cụ
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia như: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn,



lãi suất chiết khấu.
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến mức cung ứng tiền
vào lưu thông, đến cán cân thanh toán ngoại thương, chính sách xuất nhập



khẩu, chính sách đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Công cụ dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền được tính bởi tỷ lệ phần
trăm trên vốn huy động của các tổ chức tín dụng huy động được dưới hình
thức nhận tiền gửi và phát hành các loại giấy tờ có giá, gửi vào tài khoản mở
tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia. Tùy theo từng giai đoạn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam muốn tăng hay

giảm lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể điều
chỉnh tỷ lệ dữ trữ bắt buộc. Quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối
với tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tương ứng với từng loại hình tổ chức tín dụng và



từng loại tiền gửi mà các tổ chức tín dụng huy động.
Nghiệp vụ thị trường mở: Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam sẽ tham gia mua bán ngắn hạn các loại giấy tờ có giá với
tư cách là chủ thể điều hành đồng thời là chủ thể tham gia hoạt động mua
bán.
Thứ hai, hoạt động phát hành tiền


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền, in
đúc, quản lý lượng tiền lưu thông, kiểm tra xử lý vi phạm liên quan đến lĩnh vực
tiền tệ, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của cơ quan có chức năng khác.
 Nghiệp vụ in đúc tiền

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền
mặt (tiền giấy, tiền kim loại, mệnh giá) cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thiết kế mệnh giá, kích thước, các loại hoa văn, hình vẽ và các đặc điểm của
tiền giấy, tiền kim loại trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức việc in đúc, bảo quản, vận chuyển, phát
hành, tiêu hủy tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xử lý tiền rách nát, hư hỏng,
tiến hành thay thế, thu hồi tiền.
 Nghiệp vụ phát hành tiền

Phát hành tiền là nghiệp vụ cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh
toán

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nhà nước
CHXHCNVN, bao gồm tiền giấy, tiền kim loại.
Thứ tư, hoạt động tín dụng
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước, song còn là một ngân
hàng trung ương, vì vậy Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện các hoạt động
ngân hàng. Với tính chất là một ngân hàng trung ương, ngân hàng của các ngân
hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện hoạt động cấp tín dụng dưới các
hình thức: cho vay, bảo lãnh, tạm ứng
Thứ năm, hoạt động mở tài khoản, hoạt động ngoại hối
Thứ sáu, quản lý ngoại hối và vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và
hoạt động ngân hàng


Thứ bảy, thanh tra kiểm soát, xử lý vi phạm quản lý tài khoản, cung ứng
các dịch vụ thanh toán
3.2.2. Thực tiễn vai trò của NHNN trong thời gian vừa qua
Cuối năm 2006, tốc độ tăng trưởng GDP củaViệt Nam đạt đến 8,23%, lạm
phát chỉ còn 6,57%. Điều này được giải thích một phần do có sự sụt giảm của tăng
trưởng tín dụng (mức tăng chỉ còn khoảng 21,4% so với trên 30% của giải đoạn
2001 - 2005) và quan trọng hơn là do các ngân hàng thương mại đã chú trọng
nhiều hơn đến chất lượng tín dụng khi siết chặt hơn quy trình cấp tín dụng. Trước
diễn biến của tình hình, vào năm 2007, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu nới lỏng
chính sách tiền tệ, sử dụng thường xuyên hơn công cụ nghiệp vụ thị trường mở với
các thay đổi trong công cụ này như cố định phiên mua, thay đổi phương thức đấu
thầu để có thể giám sát sự biến động của thị trường tiền tệ một cách tốt nhất thông
qua các tổ chức tín dụng. Điều này đem đến những tác dụng tức thì, thể hiện thông
qua việc tăng trưởng tín dụng tăng lên đến 53,89% (một phần rất lớn lượng tín
dụng gia tăng này xuất phát từ các ngân hàng thương mại cổ phần, khi cá biệt có
ngân hàng có tỷ lệ tăng trưởng tín dụng lên đến 100%). Mặt khác, đầu năm 2007,
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới(WTO),

thu hút mạnh các nguồn vốn từ bên ngoài, khiến cho nền kinh tế tăng trưởng quá
nóng, VND tăng giá quá mạnh gây ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu. Ngân hàng Nhà
nước phản ứng bằng cách hút ngoại tệ trong lưu thông vào dự trữ và bơm VNDra
để giữ vững tỷ giá, gây gia tăng lượng cung tiền đồng trong nền kinh tế. Những
yếu tố này trực tiếp tác động làm cho lạm phát năm 2007 tăng gần gấp đôi so với
năm 2006 (khoảng 12,75%) và gián tiếp khiến cho lạm phát năm 2008 tăng lên đến
gần 20%. Sự tăng quá nhanh của lạm phát trong nhiều năm gây tác động xấu đến
nền kinh tế và khiến tốc độ tăng trưởng sụt giảm chỉ còn 6,31%.
Đứng trước yêu cầu cấp thiết là lấy lại mức tăng trưởng cao đồng thời với tỷ
lệ lạm phát thấp, Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ,
ngừng việc mua ngoại tệ vào cuối năm 2007 khi lạm phát bắt đầu tăng tốc, đồng
thời với việc phát hành tín phiếu kho bạc bắt buộc nhằm rút bớt tiền ra khỏi hệ
thống ngân hàng. Thêm vào đó là quy định trần lãi suất huy động 12%/năm (ngày


26/2/2008). Điều này khiến tăng trưởng tín dụng giảm ngay xuống chỉ còn 23,38%
trong năm 2008, đi kèm là những quan ngại về việc thiếu hụt thanh khoản trong
tháng 6 và 7 năm 2008. Chính sách thắt chặt cũng khiến cho lạm phát sụt giảm,
kéo theo đó là sự suy giảm của lãi suất. Về tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng trưởng
kinh tế nước ta trong hai quý đầu năm 2008 giảm sút, chỉ bắt đầu phục hồi từ quý
III, đem lại một cái nhìn lạc quan hơn cho nền kinh tế trong thời gian tiếp đó. Tuy
nhiên, đúng vào thời điểm này, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ,khởi
đi từ Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới (cột mốc cho sự kiện này là việc
ngân hàng lớn thứ tư nước Mỹ Lehman Brothers tuyên bố phá sản vào ngày
15/9/2008). Nếu như ở cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997-1998
nền kinh tế Việt Nam gần như không bị ảnh hưởng vì chưa hội nhập nhiều với thế
giới, thì thời điểm này, khi nước ta đã gia nhập WTO, tác động từ cuộc khủng
hoảng toàn cầu đến với nền kinh tế gần như ngay lập tức.Các đối tác thương mại
lớn của Việt Nam như Mỹ và các nước châu Âu gặp khủng hoảng đã thực thi chính
sách thắt lưng buộc bụng, đương nhiên kéo theo sự sụt giảm hàng hóa nhập khẩu

từ Việt Nam và làm cho giá cả trong nước bắt đầu sụt giảm từ quý IV/2008, đồng
thời với sự sụt giảm của giá cả thế giới. Các nhà điều hành của các quốc gia trên
thế giới ngay lập tức đưa ra những giải pháp để đối phó với cuộc khủng hoảng và
Việt Nam không phải ngoại lệ. Chính phủ Việt Nam phản ứng với cú sốc kinh tế
này bằng cách chuyển hướng nền kinh tế từ bình ổn sang hỗ trợ hoạt động kinh tế
vào tháng 11/2008 và kéo theo đó là hàng loạt các giải pháp kích cầu.
Mặc dù đã có nhiều biện pháp hỗ trợ kinh tế song tăng trưởng GDP của quý
I/2009 vẫn chỉ tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 200S. Dấu hiệu hồi phục đến sau đó,
khi GDP gia tăng 4,5% trong quý II và 5,8% trong quý III, giúp tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong chín tháng đầu năm tăng 4,6% so với cùng kỳ năm 2008. Để kích
thích tăng trưởng kinh tế, Chính phủ đã ban hành những chính sách hỗ trợ cho vay
bằng VND và điều chỉnh trần lãi suất huy động xuống 8%/năm, làm giảm khoảng
chênh lệch lãi suất giữa USD và VND. Điều này lại làm gia tăng nhu cầu ngoại tệ
của các doanh nghiệp và dân chúng, người tachuyển sangvay VND và dùng
VNDđể mua ngoại tệ. Tình hình tương đối bất ổn khiến Ngân hàng Nhà nước phải


×