Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Chính sách dầu tư vào Việt Nam của Malaysia và định hướng giải pháp cho Việt Nam đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.63 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ

BÀI TẬP LỚN
Bộ Môn: KINH TẾ QUỐC TẾ 2
Đề tài: “CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ VÀO VIỆT NAM CỦA MALAYSIA VÀ
ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020”
Sinh viên KTQT 54D:
Hoàng Thị Hà
Lê Thị Thúy Hà

Hà nội ngày 11/1/2015
1. Tính tất yếu của đề tài


Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế diễn
ra ngày càng sâu rộng, đã và đang mang lại những cơ hội tốt cùng với những thách
thức không nhỏ cho mỗi quốc gia trong thòi gian qua, đòi hỏi mỗi quốc gia cần
phải chủ động và tích cực tham gia để khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh của
đất nước, đạt tới vị trí thuận lợi và ngày càng tăng trong phân công lao động quốc
tế và quan hệ kinh tế quốc tế. Điều này có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển
mạnh mẽ và có hiệu quả các quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm thương mại quốc tế,
đầu tư quốc tế, hợp tác quốc tế về khoa học – công nghệ, các dịch vụ quốc tế. Trên
ý nghĩa đó, việc nghiên cứu thực trạng, chỉ ra các chính sách đầu tư của các nước
vào Việt Nam để đưa ra giải pháp cho việc phát huy các thế mạnh, nâng cao năng
lực giải quyết các vẫn đề của thực tiễn, thu hút nguồn vốn FDI cho tăng trưởng
phát triển kinh tế là rất cần thiết.
2. Mục đích
Ở Việt Nam, thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) luôn là một kênh quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, cải


thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm trực tiếp cho người lao động và hàng triệu
việc làm gián tiếp khác, là yếu tố thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, nâng cao
phương thức quản lý kinh doanh, tạo động lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong từng
ngành... Tuy nhiên, việc thu hút ĐTNN tại nước ta hiện vẫn còn một số hạn chế,
như: hệ thống pháp luật còn nhiều quy định chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu nhất
quán; tính cạnh tranh môi trường đầu tư Việt Nam giảm so với nhiều nước trong
khu vực… Chính vì vậy, việc hoàn thiện và kịp thời điều chỉnh chính sách về đầu
tư tại Việt Nam là rất quan trọng và mang nhiều ý nghĩa thực tiễn.
3. Đối tượng, phạm vi
Trong tổng số các quốc gia và lãnh thổ có vốn đầu tư tại Việt Nam, Malaysia là
một nước có những dự án và quy mô vốn gây chú ý với giới phân tích đầu tư
những năm gần đây. Vậy chính sách đầu tư của Malaysia vào Việt Nam là gì, cần
có những giải pháp nào để tận dụng cũng như phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn
2

2


này cho nước ta trong thời gian tới, câu trả lời sẽ được trình bày trong bài tiểu luận
sau đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận dưới sự hướng dẫn của : TS - Nguyễn Thường Lạng - Giảng viên bộ
môn Kinh Tế Quốc Tế, với sự tham gia thực hiện của nhóm gồm 2 sinh viên lớp
Kinh Tế Quốc Tế 54D. Do điều kiện thời gian và trình độ nhóm có hạn, nên khó
tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được thêm những ý
kiến đóng góp của thầy giáo và các bạn để rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung
thêm kiến thức để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Bài có sử dụng các phương
pháp nghiên cứu :
- Phương pháp kế thừa: Luận văn thu thập, tổng hợp, phân tích và đánh giá các tài
liệu có sẵn từ những nghiên cứu trước đây, kế thừa có chọn lọc những tài liệu đó.

- Phương pháp phân tích – so sánh: Luận văn nghiên cứu, phân tích Chính sách tài
chính trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước Châu Á từ đó rút
ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5. Kết cấu
Bài tiểu luận gồm 3 chương :
Chương 1 : Những lý luận chung
Chương 2 : Thực trạng và chính sách đầu tư của Malaysia vào Việt Nam
Chương 3 : Định hướng và giải pháp cho Việt Nam tới năm 2020

CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG
1. Cơ sở lý luận
Đầu tư quốc tế bao gồm hai hình thức đó là đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI –
Foreign Portfolio Investment) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct
Investment) Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều dù cho FPI có xu hướng tăng lên.
1.1. Đầu tư gián tiếp ( FPI)


Khái niệm

3

3


Là loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người sở hữu vốn mua cổ
phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác thông qua quỹ đầu tư chứng
khoán và các định chế tài chính trung gian khác để đầu tư vào nước tiếp nhận và
nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lí đối tượng bỏ vốn đầu tư.
1.2. Đầu tư trực tiếp



Khái niệm :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI - Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở
sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ
sở sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI : Đầu tư trực tiếp
nước ngoài ( FDI ) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước ( nước chủ đầu tư ) có
được một tài sản ở một nước khác ( nước thu hút đầu tư ) cùng với quyền quản lý
tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở
nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư
thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay
“chi nhánh công ty”. Tuy có các khái niệm khác nhau nhưng đều thống nhất ở
điểm sau :

-

FDI là hình thức đầu tư quốc tế.
Cho phép các nhà đầu tư tham gia điều hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận

-

đầu tư tùy theo tỷ lệ góp vốn.
Quyền sở hữu gắn liền với quyền sử dụng tài sản đầu tư, nhà đầu tư có thể có lợi
hơn nếu kinh doanh hiệu quả và ngược lại phải chịu rủi ro nếu kinh doanh thua lỗ.
Ngoài các đặc trưng cơ bản của một đầu tư nói chung, một số đặc trưng có tính
chất đặc thù của FDI là:


-

Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia điều hành hoặc tự điều hành dự án.
Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài.
4

4


-

Dự án đầu tư quốc tế chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật (luật
pháp quốc gia và quốc tế). Trong quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư thì các
quốc gia đều phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với

-

thông lệ quốc tế.
Hầu hết các dự án FDI đều gắn liền với quá trình chuyển giao
Hiện nay, trên thế giới các công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài được thực hiện
dưới ba hình thức đầu tư chủ yếu: Hình thức doanh nghiệp liên doanh (EFV); Hình
thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) và Hình thức doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài (WFOE).


-

Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển nhận đầu tư
Tạo điều kiện để tăng thêm nguồn vốn đầu tư và cải thiện cán cân thanh toán quốc


-

tế
Góp phần chuyển giao và phát triển công nghệ
Góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
Thúc đẩy xuất nhập khẩu
Hình thành liên kết các ngành công nghiệp
Ngoài các vai trò kể trên, FDI trong một chừng mực nào đó có thể góp phần nâng
cao chất lượng môi trường, xóa bỏ độc quyền, tăng cường an ninh quốc gia, phát



triển văn hóa – xã hội…
Yếu tố của môi trường đầu tư ở nước chủ nhà ảnh hưởng tới dòng FDI
Môi trường đầu tư ở nước chủ nhà là tổng hòa các yếu tố có ảnh hưởng đến công
cuộc đầu tư của những nhà đầu tư nước ngoài ở nước nhận đầu tư. Nó bao gồm các
yếu tố: Tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lý – điều kiện tự
nhiên, trình độ phát triển kinh tế và các đặc điểm văn hóa - xã hội. Một môi trường
đầu tư được gọi là thuận lợi nếu các yếu tố nói trên tạo được sức hấp dẫn cho các
nhà đầu tư nước ngoài. Mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư sẽ tạo ra các cơ
hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài.


-

Chính sách tài chính trong thu hút FDI
Khái quát chung về chính sách tài chính thu hút FDI

5


5


Nhóm chính sách liên quan đến tài chính – tín dụng thu hút FDI bao gồm: “Các
quy định ưu đãi về các loại thuế như thuế xuất-nhập khẩu, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, các trường hợp miễn và giảm thuế, hoàn thuế, hoãn
thuế vấn đề chuyển vốn, lợi nhuận và thu nhập hợp pháp về nước, quy định về
chống rửa tiền và hối lộ ở nước ngoài… Tuy nhiên, đối với các nước là thành
viên của WTO, các quy định khuyến khích phải hết sức thận trọng để tránh vi
phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử”
-

Chính sách ưu đãi thuế trong thu hút FDI
a) Vai trò của chính sách ƣu đãi thuế trong thu hút FDI
Ưu đãi đầu tư là một công cụ chính sách nhằm thu hút đầu tư hoặc định hướng đầu
tư theo những mục tiêu phát triển nhất định, đang được áp dụng tương đối phổ biến
trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Tác động kích thích của các ưu đãi thuế vừa mang tính chất như giảm nhẹ gánh
nặng thuế, vừa mang tính chất áp dụng các mức thuế suất phân biệt.
Chính sách thuế có tác dụng rất quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển.
Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư.
b) Các loại ưu đãi thuế để thu hút FDI
+ Miễn thuế TNDN đối với việc chuyển nhượng vốn
+ Miễn, giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Miễn, giảm các loại thuế thu nhập khác
+ Miễn hoặc giảm thuế hàng tư liệu sản xuất nhập khẩu (vốn)
+ Miễn thuế đối với việc chuyển nhượng bản quyền
+ Miễn hoặc giảm thu được do chiếm giữ lợi tức thu được từ các khoản vay
nước ngoài

+ Miễn các loại thuế và chi phí khác
Tùy theo phạm vi sử dụng rộng hay hẹp, có thể chia các loại ưu đãi thuế thành hai
nhóm khác nhau: mang tính chất ngành và mang tính chất cá biệt.

-

Sự cần thiết của việc điều chỉnh chính sách thuế trong thu hút FDI
+ Sự thay đổi của môi trường đầu tư ở nước chủ nhà
+ Sự thay đổi của môi trường đầu tư quốc tế

6

6


+ Sự bất cập của bản thân chính sách thuế thu hút FDI: (i) chính sách thuế thu hút
đầu tư không hoặc kém khả thi và không mang lại những kết quả mong đợi, (ii) sự
bất đối xứng thông tin và sự hợp tác hạn chế của các cơ quan nhà nước có liên
quan đến FDI, (iii) hạn chế về khả năng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
tham gia một cách tích cực vào các hợp tác kinh doanh với các nhà đầu tư nước
ngoài, (iv) chính sách thuế thu hút FDI bị lạc hậu, không phù hợp với thông lệ
quốc tế hoặc bị bất cập bởi các cam kết của nước chủ nhà trong quá trình hội nhập
quốc tế.
2. Cơ sở thực tiễn


Malaysia và toàn cầu hóa
Sau khi được Anh trao trả độc lập vào năm 1957, Malaysia vẫn còn là một nước
nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp. Vào thời gian
này nông nghiệp chiếm 50% lực lượng laođộng và 70% trị giá xuất khẩu. Thu

nhập dựa vào hai sản phẩm chính là cao su và thiếc.
Để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, Chính phủ Malaysia đã
đề ra chính sách phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, nhanh chóng chuyển nền
kinh tế phụ thuộc vào nông nghiệp sang nền kinh tế có lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và dịch vụ chiếm ưu thế. Malaysia tranh thủ được nguồn vốn và kỹ thuật
tiên tiến của nước ngoài thông qua việc thu hút đầu tư.
Những năm gần đây, Malaysia nhận thức rõ thế giới đang chuyển sang thời đại
kinh tế tri thức trên cơ sở cách mạng khoa học - công nghệ và trong điều kiện toàn
cầu hoá. Nhân tố này đặt các nước trước những cơ hội và thách thức vô cùng to
lớn. Toàn cầu hoá tạo điều kiện để tranh thủ nguồn lực quốc tế cho phát triển
nhưng cũng dẫn đến cạnh tranh gay gắt, nguy cơ làm suy yếu chủ quyền và thể chế
quốc gia. Việc hình thành các tập đoàn siêu quốc gia làm tăng xu hướng độc
quyền, gây bất lợi cho các nước đang phát triển với nền kinh tế kém hiệu quả và
sức cạnh tranh còn yếu. Khoa học - công nghệ đang đẩy nhanh sự chuyển dịch từ
7

7


nền kinh tế dựa trên đầu vào là vốn, lao động, nguyên liệu là chính sang nền kinh
tế dựa trên trí tuệ là chính. Điều này làm cho những lợi thế hiếm hoi của các nước
đang phát triển (lao động, tài nguyên) giảm nhanh giá trị, làm tăng nguy cơ phụ
thuộc vào các nước công nghiệp phát triển. Toàn cầu hoá cũng tạo sức ép lớn về
hội nhập trong khi các nước đang phát triển chịu nhiều bất lợi và chưa chuẩn bị tốt.
Trong điều kiện đó, hội nhập vội vàng, thiếu chuẩn bị sẽ gây nguy hại cho kinh tế
trong nước, nhưng hội nhập quá chậm sẽ làm cho kinh tế trì trệ, thiếu sức cạnh
tranh, bị lỡ mất các cơ hội, dẫn tới nguy cơ sụp đổ. Toàn cầu hoá, nhất là về tài
chính, có thể làm cho khủng hoảng ở một số nơi lan nhanh sang các nơi khác ở
phạm vi toàn cầu với những hậu quả khôn lường.
Malaysia cũng thấy được chiến lược phát triển vừa qua với trọng tâm là đầu tư và

xuất khẩu đã phát huy hiệu quả, giúp kinh tế Malaysia tăng trung bình 9,3% suốt
thời kỳ 87 - 97. Nhưng khủng hoảng 97 - 98 buộc Malaysia chuyển hướng chiến
lược: Phục hồi kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu với việc thực hiện một loạt tài
chính tiền tệ, áp dụng tỷ giá cố định, kiểm soát ngoại hối, thực hiện kế hoạch dài
hạn cơ cấu lại cả khu vực tài chính và các công ty. Nhờ vậy, năm 1999 Malaysia
tăng trưởng kinh tế 5,6% và năm 2000 đạt mức tăng trưởng 5,8%. Trọng tâm chiến
lược của Malaysia hiện nay là duy trì tăng trưởng thông qua giải quyết những vấn
đề trung hạn nhằm đảm bảo sự tăng trưởng có cơ sở sâu rộng và bền vững, trong
điều kiện hình thành thị trường toàn cầu và công nghệ mới phát triển nhanh.
Malaysia nhận thức hiện nay có hai vấn đề cơ bản phải giải quyết:
a, Chiến lược tăng trưởng dựa chủ yếu vào đầu tư không còn đủ sức giúp Malaisia
đạt những mục tiêu phát triển đề ra do đầu tư không thể thúc đẩy được tăng trưởng
như mong muốn. Vì vậy, Malaysia phải áp dụng chính sách công nghiệp và chính
sách phát triển hướng vào sử dụng có hiệu quả hơn tất cả các nguồn lực mà quan
trọng nhất là nhân lực.
b, Sự thay đổi nhanh của thị trường thế giới và khủng hoảng vừa qua cho thấy
những nguy cơ của việc quá phụ thuộc vào một số ít những sản phẩm hoặc thị
8

8


trường xuất khẩu. Công nghiệp điện tử đã đóng góp quan trọng trong suốt thập kỷ
qua nhưng nay Malaysia không thể để phụ thuộc mà phải tìm ra những lĩnh vực
khác để thúc đẩy tăng trưởng. Về phía Chính phủ, nhiệm vụ quan trọng hiện nay là
nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xử lý tốt rủi ro, đảm bảo thực
hiện nhất quán và hiệu quả các chính sách.
Với nhận thức như vậy, Malaysia có những bước đi chủ động, thận trọng, vừa phát
triển kinh tế trong nước, vừa đẩy mạnh hội nhập để tạo điều kiện và không gian
phát triển, đồng thời tích cực chuẩn bị cơ sở chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CỦA MALAYSIA
Theo thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 11/2014, các nhà đầu tư
Malaysia có 478 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 10,74 tỷ USD, đứng thứ 8
trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư tại Việt Nam.
Quy mô vốn bình quân 1 dự án của Malaysia là 22,5 triệu USD/dự án, cao hơn so
với mức bình quân chung 1 dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay (là 14,3
triệu USD/dự án).
Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia cho đến năm 1985 không có gì
nổi bật. Nhưng kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách cải cách mở cửa, quan hệ
kinh tế thương mại giữa hai nước đã có được những thay đổi đáng kể. Có thể nhận
rõ điều này qua các số liệu dưới đây:
1 Giai đoạn 1985 - 1994
1.1 Kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Malaysia từ 1985 đến 1994:
Năm
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991

9

Xuất khẩu của
Việt Nam sang Malaysia
(tr USD)
12,30
15,64

12,90
26,00
40,00
45,50
66,11

Nhập khẩu của
Việt Nam từ Malaysia
(tr USD)
0,49
1,37
3,20
6,00
11,00
6,25
24,64

Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu
(tr USD)
12,79
17,01
16,10
32,00
51,00
51,85
90,75

9



1992
1993
1994

123,87
150,00
172,00

38,68
67,00
126,50

172,55
217,00
298,00

Nguồn: Bộ thương mại

Như vậy tốc độ tăng trưởng kim ngạch buôn bán hai chiều nửa đầu những
năm 90 là khoảng 20% mỗi năm. Điều này thể hiện tác động tích cực của các hiệp
định mới được ký kết: Hiệp định về đầu tư (ký 1 - 1992), hiệp định về thương mại
(ký 8 - 1992) và hiệp định về thanh toán (ký 3 - 1993). Do tiềm lực kinh tế và nhu
cầu phát triển kinh tế của mỗi nước khác nhau nên cơ cấu xuất nhập khẩu cũng có
sự thay đổi. Việt Nam từ xuất khẩu sang Malaysia nhiều hơn nhập khẩu nhưng cho
đến cuối giai đoạn này đã có sự cân bằng trong cán cân thương mại. Xu hướng này
phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của mỗi nước và thuận lợi cho sự phát triển
quan hệ kinh tế thương mại giữa hai quốc gia.
Các mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia giai đoạn này
là nông sản, hải sản, hàng thủ công mỹ nghệ và nguyên liệu. Gạo và cao su là hai

mặt hàng chủ lực, ngoài ra có thể kể đến các mặt hàng khác như: ngô, lạc nhân,
đậu đỗ các loại, hoa hồi, ớt khô, gốm sứ, thiếc, hàng sơn mài.
Gạo của Việt Nam với lợi thế về giá cả đã chiếm vị trí đáng kể trong khối
lượng gạo nhập của Malaisia, trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo chính
sang Malaysia cùng với các nước như Ấn Độ, Thailan, Myanma. Năm 1994, Việt
Nam xuất sang Malaysia khoảng 200 nghìn tấn gạo, với giá trị kim ngạch đạt xấp
xỉ 41,6 triệu USD.
Tuy nhiên, thực tế giai đoạn này cho thấy vấn đề chất lượng gạo xuất khẩu
nói chung của nước ta là một trở ngại lớn đáng chú ý.Vấn đề này cho đến nay vẫn
chưa thực sự được khắc phục. Tỷ lệ gạo chất lượng trung bình và thấp là chủ yếu
làm cho giá gạo của Việt Nam thấp hơn khá nhiều so với giá gạo xuất khẩu của các
nước khác như: Thailan, Ấn Độ. Giá gạo của Việt Nam thấp hơn của Thailan từ 10
đến 50 USD/ tấn đối với gạo cùng phẩm cấp.
Bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khác dẫn đến việc giá gạo của
Việt Nam thấp là việc quản lý gạo và chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu gạo. Giai
10

10


đoạn này Việt Nam thiếu một tổ chức thống nhất công tác xuất khẩu gạo, có rất
nhiều đơn vị cùng tham gia xuất khẩu gạo dẫn đến tình trạng phá giá gây thiệt hại
lớn cho nền kinh tế trong nước.
Tuy còn nhiều khiếm khuyết nhưng Việt Nam cũng đã có được những
thành công nhất định trên thị trường xuất khẩu gạo và là một nước cung cấp gạo
chủ yếu cho Malaysia.
Một mặt hàng quan trọng khác trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
sang Malaysia giai đoạn này là cao su. Malaysia là một nước có diện tích trồng cao
su cũng như sản lượng cao su lớn trên thế giới . Tuy nhiên mỗi năm, Việt Nam đã
xuất khẩu lượng lớn cao su sang Malaysia. Nguyên nhân là do Malaysia có lợi thế

của một nước có công nghiệp cao su tương đối phát triển nên đã tăng cường nhập
khẩu cao su nguyên liệu thô của Việt Nam và một số nước khác để tái chế rồi xuất
khẩu. Như vậy, mặt hàng cao su của ta không chỉ làm tăng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam mà còn góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Malaysia.
Malaysia tăng cường mua cao su của Việt Nam để đảm bảo những hợp đồng lớn
với các nước khác.
Sản lượng cao su của Việt Nam giai đoạn này không ngừng tăng lên. Cao
su sơ chế năm 1990 đạt 57,9 nghìn tấn. Trong đó xuất khẩu sang Malaysia chiếm
10 đến 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Malaysia. Giai đoạn
này, cao su thực sự là một trong những mặt hàng xuất khẩu mang tính chiến lược
trong danh mục hàng hoá xuất khẩu sang Malaysia của Việt Nam còn có dầu thô,
hạt tiêu, chè, lạc nhân, hàng thủ công mỹ nghệ,... nhưng với số lượng không nhiều.
Một điều chúng ta dễ dàng nhận thấy đó là sự thiếu hài hoà trong cơ cấu xuất nhập
khẩu giữa hai nước trong thời gian này. Việt Nam nhập từ Malaysia chủ yếu là
hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp đòi hỏi trình độ cao hơn mà Việt Nam
chưa tự đáp ứng được. Đây chính là những mặt hàng xuất khẩu mà Malaysia có ưu
thế: xăng dầu, khí ga hoá lỏng, thiết bị linh kiện điện tử, nguyên liệu cho công
11

11


nghiệp thực phẩm và thực phẩm chế biến,... Nguyên nhân là do nền kinh tế của
chúng ta kém phát triển hơn nước bạn, sản phẩm trong nước chế tạo chất lượng
thấp. Malaysia cũng là một nước mới phát triển, trình độ kỹ thuật công nghệ chưa
phải ở đỉnh cao. Để phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá, Việt Nam
cần những công nghệ hiện đại mà Malaysia chưa đáp ứng được, bên cạnh đó chủ
trương của Nhà nước ta là hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng mà trong nước có thể
sản xuất được nên đã hạn chế phần nào việc phát triển quan hệ thương mại giữa hai
nước.

Mặc dù vậy, nhìn tổng quan về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
Malaysia thời gian này ta thấy có sự phát triển tương đối cả về tổng kim ngạch
cũng như về cơ cấu mặt hàng. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia mà còn làm gắn bó hơn quan hệ chính trị, ngoại giao giữa
hai nước, tăng cường hợp tác trong khu vực và trên quốc tế.
1.2 QUAN HỆ HỢP TÁC ĐẦU TƯ VIỆT NAM - MALAYSIA TRƯỚC NĂM
1995
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời từ năm 1987 nhưng cho đến
năm 1990, quan hệ hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và Malaysia mới thực sự có
những bước tiến đáng kể. Giai đoạn này các nhà đầu tư Malaysia rất chú trọng tới
việc phát triển quan hệ hợp tác đầu tư với Việt Nam, coi đây là một thị trường tiềm
năng. Do đó, chỉ trong thời gian ngắn, đầu tư của Malaysia tại Việt Nam đã tăng
nhanh cả về số lượng dự án và tổng vốn đầu tư. Tính đến tháng 1/5/1995 Malaysia
có 44 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 897 triệu USD, đứng thứ
7 trong số các nước trên thế giới đầu tư tại Việt Nam. Năm 1993 là năm mà số
lượng dự án đầu tư cũng như tổng vốn đầu tư đạt mức cao nhất.
Trong cơ cấu đầu tư, Malaysia chú trọng đến các lĩnh vực công nghiệp
(chiếm 52,28%), dầu khí (chiếm 13,95%),...và chủ yếu tập trung tại hai trung tâm
thương mại của Việt Nam là Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Về hình thức đầu
12

12


tư, các dự án đầu tư có 100% vốn của Malaysia chiếm một tỷ trọng đáng kể (39%
tổng số vốn đầu tư của các dự án). Các dự án cũng có tốc độ triển khai tương đối
tốt. Vốn thực hiện chiếm 36% tổng số vốn đăng ký.
Về tình hình đầu tư của Malaysia tại Việt Nam giai đoạn này có thể kết
luận, Malaysia có thiện chí làm ăn lâu dài tại Việt Nam và coi Việt Nam là một
người bạn tin cậy trong lĩnh vực hợp tác đầu tư. Mặc dù đã có những bước tiến

nhanh trong lĩnh vực này nhưng vẫn còn rất nhiều tiềm năng, triển vọng to lớn đối
với hoạt động đầu tư của Malaysia tại Việt Nam cần được khai thác.
Những dự án có tổng vốn đầu tư trên 10 triệu USD của Malaysia tại Việt Nam tính
đến 1/7/1995:

13

13


Số
Giấy
Phép

Stt

Ngày
cấp

Ngành
kinh doanh

Hình thức
đầu tư
Hợp đồng hợp tác
kinh doanh
Liên doanh

1


239

10/09/91

Khai thác dầu

2

578

06/04/93

3

698

20/10/93

4

701

26/10/93

5

757

30/12/93


Khách sạn, cho thuê
nhà ở và VP
Xây dựng, kinh doanh,
CSHT
Sản xuất bao bì thuỷ
tinh
Dệt may

6

839

12/04/94

7
8
9

847
908
976

23/04/94
06/07/94
01/09/94

10

1264


09/06/95

11

1324

21/07/95

Khách sạn, cho thuê
nhà ở và VP
Ô tô
Khách sạn
Lương thực, thực phẩm
chế biến
Sản xuất kết cấu thép,
kim loại
Khách sạn

Tổng vốn
đầu tư
(tr USD)
65
44

Liên doanh

24

Liên doanh


22

100% vốn
nước ngoài
Liên doanh

42,707

Liên doanh
Liên doanh
Liên doanh

50
48,5
15

Liên doanh

14,18

Liên doanh

10,18

29,95

Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư

2. Giai đoạn 1995 đến nay
2.1 QUAN HỆ MẬU DỊCH SONG PHƯƠNG GIỮA VIỆT NAM VÀ MALAYSIA

TỪ 1995 ĐẾN NAY
Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Malaysia phát triển mạnh trong
những năm gần đây. Kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng hơn 10 lần so với
những năm đầu thập kỷ 90. Theo Thống kê của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim
ngạch buôn bán hai chiều 5 năm gần đây tăng khoảng 10%/năm. Có được kết quả
14

14


đó là nhờ sự nỗ lực cố gắng từ phía hai chính phủ. Mặc dù người hồi giáo ở
Malaysia đã quen dùng hàng Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc nhưng chính phủ
Malaysia đã tạo điều kiện để hàng hóa Việt Nam có thể xâm nhập thị trường này.
Malaysia đã công bố danh mục 171 mặt hàng giảm thuế cho Việt Nam trong khuôn
khổ hợp tác giành cho các nước mới gia nhập ASEAN, được chính phủ Việt Nam
rất hoan nghênh. Chế độ ưu đãi này nhằm khuyến khích hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào Malaysia. Bên cạnh đó doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất sang
Malaysia những mặt hàng với thuế suất từ 0 - 5%. Về phía Việt Nam, Chính phủ
đã có những cải cách lớn về chính sách thương mại như: thông qua luật nhằm giảm
mức thuế nhập khẩu tối đa xuống 50% (với 6 mặt hàng ngoại tệ); cho phép các
doanh nghiệp trong nước được phép xuất khẩu hàng hoá trực tiếp không cần giầy
phép xuất khẩu (với những ngoại lệ sau đây: gạo, chất nổ, sách, đá quý, đồ cổ,...)
nếu hàng hoá xuất khẩu có liên quan đến hoạt động kinh doanh của họ; xoá bỏ điều
kiện vốn tối thiểu (200 nghìn USD) và điều kiện nhân sự để cho phép các doanh
nghiệp đã đăng ký tham gia nhập khẩu nếu như hoạt động nhập khẩu có liên quan
đến hoạt động kinh doanh của họ; tự do hoá việc phân bổ hạn ngạch xuất khẩu gạo
cho khu vực tư nhân bằng cách lần đầu tiên phân bổ hạn ngạch cho các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh; cho phép tư nhân nhập khẩu phân bón. Trong cuộc họp
Uỷ ban hỗn hợp (UBHH) hai nước vừa được tổ chức tại Kuala Lumpur tháng 3
năm 2002, hai bên nhất trí cố gắng đưa kim ngạch hai chiều lên 1,75 tỷ USD vào

năm 2005.
Những năm cuối của thập kỷ 90, khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra ở
Thái Lan gây hiệu ứng dây chuyền đối với các nước trong khu vực. Mặc dù Việt
Nam được coi là một trong những nước ít chịu ảnh hưởng nhưng quan hệ thương
mại giữa hai nước thì đã phải chịu tác động gián tiếp từ những hậu quả mà cuộc
khủng hoảng này gây ra cho nền kinh tế Malaisia. Nếu năm 1996, tổng kim ngạch
buôn bán giữa hai nước đạt 575,64 triệu USD, tăng 18,6% so với năm 1995 là
15

15


396,83 thì năm 1997, tổng kim ngạch chỉ đạt 485,49 triệu USD, tăng có 2% so với
năm 1996. Năm 1998, cũng không có cải thiện gì đáng kể. Năm 1999, thương mại
hai chiều đạt 550 triệu USD, tăng 4%. Cán cân thương mại của Việt Nam với
Malaysia do vậy cũng thường xuyên ở trong tình trạng nhập siêu.
Năm 2000, tổng kim ngạch lên tới 798,39 triệu USD, tăng hơn 50% so với
năm 1999. Đây là bước đột phá nhờ nỗ lực của cả hai bên kể từ sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ. Năm 2001 là năm có nhiều biến động trên thị trường quốc
tế và khu vực. Đối với hầu hết các quốc gia ASEAN, nơi mà tăng trưởng kinh tế
tuỳ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu, sự suy giảm cầu hàng hoá và dịch vụ đồng thời
ở hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Nhật Bản trong năm này đã đẩy các
quốc gia này vào tình thế cực kỳ khắc nghiệt. Tăng trưởng kinh tế năm 2001 của
Malaysia chỉ đạt 1,5%, thấp hơn so với dự kiến hồi đầu năm và giảm hơn một nửa
so với năm 2000. Nhu cầu đối với các sản phẩm điện tử của Malaysia giảm sút
không chỉ khiến quốc gia này lao đao mà còn làm cho mặt hàng điện tử của ta
không thể xuất khẩu sang đất nước này trong năm 2001. Tuy nhiên tổng kim ngạch
buôn bán hai nước vẫn đạt 808 triệu USD, đây là một dấu hiệu rất đáng mừng.
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Malaysia từ 1995 đến 2001:
(Đơn vị tính: triệu USD)

Xuất khẩu
Của Việt Nam
Sang Malaysia
126,70
150,88
161,20
141,60
180,00
413,48
338,00

Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001

Nhập khẩu
của Việt Nam
từ Malaysia
270,13
323,76
324,29
386,80
370,00
384,91
471,00


Tổng
kim ngạch
396,83
474,64
485,49
528,40
550,00
798,39
808,00

Nguồn: Tổng cục hải quan

Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia:
(Đơn vị tính: USD)
Tên
Hàng
Gạo
Cà phê

16

Năm
1997
63500889
73233687

1998
41251
1587265


1999
36422295
1816031

2000
46278176
3253568

2001
40631272
2226582

16


Cao su
Chè
Dầu thô
Giầy dép
Hải sản
Dệt may
TCMN
Hạt tiêu
Lạc nhân
Rau quả
Than đá
L.kiện VT
Hạt điều


3241692

42551993
23040842

817241
3473859
5086257

5303861

487014
577299

1465244

11467

7623356
57676
97301296
1684126
8114416
7543
429967
486974
3937174
1461219
193770
8928857

62096

4020055
136499
207720235
1589559
11433880
25694782
970669
1219033
4414779
1392327
429273
4083863
297290

7105787
241457
120109017
2485347
11166510
28268123
1059992
412256
4019977
1372937
391021
2481172
144558


Nguồn: Bộ thương mại.

17

17


Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam nhập khẩu từ Malaysia:
(Đơn vị tính: USD)
Tên hàng
Bông
Chất dẻo NL
Dầu mỡ ĐTV
Đường
Kính xây dựng
Linh kiện ĐT, VT
Máy, tbị, p.tùng
Ô tô chiếc
Phân bón
Sắt thép
Tân dược
Thuốc trừ sâu
Xăng dầu
Xe máy CKD, IKD
Clinhker

1997

22169
738624

1631474

378834

1998

2498895
7559574
498157
2875050
124950

1999
607517
13045688
43659835
24940
30684
26223272
31775310
43400
2092319
5111935
3049674
236775
10431376
2939818

2000


2001
24798935

7403
53800474
31962604
132000
2649969
2731017
30748547
4623419

46295237
31798816
22897
6656923
1995317
3370646
61207742
1795254

Nguồn: Bộ thương mại

Sáu tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu của ta sang Malaysia đạt
166,2 triệu USD, tăng 2,4%, nhập khẩu đạt 249,5 triệu USD, tăng 34,2% so với
cùng kỳ năm 2001. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta vẫn là những mặt hàng
truyền thống như: gạo, cà phê, cao su, chè, dầu thô, lạc nhân... Kim ngạch một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của ta sang thị trường này có nhiều biến
động trong 6 tháng đầu năm 2002. Trong đó, cao su tăng 154% so với cùng kỳ năm
2001 do nguồn cung cấp cao su trên thế giới cho Malaysia tạm thời giảm.Trong khi

đó nhu cầu cao su của thế giới lại có dấu hiệu phục hồi làm tăng nhu cầu nhập
khẩu để sản xuất cao su xuất khẩu của Malaysia. Để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất
khẩu cao su cần chú trọng đa dạng hoá sản phẩm, không nên tăng thêm diện tích
cao su. Đối với số diện tích đã có cần tập trung chăm bón để nâng cao năng suất và
hạ giá thành. Những khu vực đã quá hạn khai thác thì phá bỏ, cải tạo đất và đưa
18

18


giống tốt vào trồng lại, bảo đảm cho mủ chất lượng cao; giầy dép tăng 87,5% so
với cùng kỳ năm 2001 nhưng vẫn chưa tương xứng với năng lực sản xuất. Nếu các
doanh nghiệp Việt Nam duy trì, nâng cao chất lượng, uy tín đồng thời đầu tư công
nghệ, tăng trị giá sản phẩm xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh thì khả năng kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường nước bạn sẽ tăng nhanh hơn vào
thời gian tới; gạo giảm 45%, mặc dù giá bình quân so với cùng kỳ năm 2001 tăng
khoảng 21 - 23 USD/tấn FOB nhưng do lượng xuất sang thị trường này giảm tới
54,36%.Trong khi giá gạo xuất khẩu của chúng ta có xu hướng tăng thì giá gạo thế
giới vẫn khá ổn định, không có biểu hiện tăng mạnh (gạo 25% của Thailan là 173
USD/tấn, của Pakistan là 158 USD/tấn, của ấn Độ là 130 USD/tấn). Theo Bộ
thương mại, sở dĩ giá lúa của ta liên tục đứng ở mức cao trong các tháng vừa qua là
do năm nay không có gạo gối đầu từ năm ngoái, từ tháng 3 đến nay một lượng gạo
lớn ở các tỉnh phía Nam đã được mang ra bán ở miền Bắc. Về cơ bản vụ lúa Đông
Xuân 2001 - 2002 đã được tiêu thụ hết, số gạo còn lại trong dân không đáng kể nên
lượng gạo xuất khẩu bị hạn chế. Thị trường Malaysia, chúng ta có thể tăng xuất
khẩu nhưng do giá gạo trong nước cao hơn giá xuất khẩu nên đã dẫn tới giảm về
lượng nói trên; linh kiện máy tính giảm 48%, nguyên nhân chính là do: thị trường
bão hoà, chất lượng hàng hoá chưa ổn định và chưa phát triển đồng bộ hàng điện
tử, công nghiệp, máy vi tính - phần mềm so với điện tử dân dụng. Nhưng xét một
cách tổng quan chúng ta vẫn có thể tăng xuất khẩu mặt hàng này nếu khắc phục

được những tồn tại về khả năng cạnh tranh như giá, chất lượng và điều kiện giao
hàng.
Một số mặt hàng khác như: hải sản giảm 14% do giá bán giảm, nguồn hàng
thiếu ổn định, lạc nhân tăng 126,6%; rau quả giảm 14,9% do vướng mắc về thủ tục
từ phía bạn đồng thời nguồn hàng cũng gặp khó khăn nhất là dứa cung ứng cho các
nhà máy chế biến. Về lâu dài, cần sớm hình thành các vùng nguyên liệu tập trung
để quản lý tốt hơn chất lượng sản phẩm, loại trừ việc sử dụng thuốc thực vật bị
19

19


cấm, đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch để giảm sức ép tiêu thu trong thời gian
ngắn đầu vụ; hạt tiêu tăng 16,26% nhưng với tăng về lượng là chủ yếu. Để nâng
cao hiệu quả xuất khẩu, phấn đấu đưa giá tiêu của ta trên thị trường này tiến gần
hơn giá tiêu bình quân của các đối thủ cạnh tranh khác cần có sự cải tạo về giống,
kỹ thuật để đảm bảo chất lượng đồng đều của sản phẩm.
Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta sang thị trường này là
những mặt hàng nguyên liệu thô và nông lâm hải sản sơ chế. Tuy nhiên hàng của ta
có hạn chế là do kỹ thuật sơ chế chưa tốt nên sản phẩm không được đồng đều và
do vậy còn nhiều hạn chế trong tiếp cận và duy trì thị phần. Đồng thời do giá cả,
chất lượng, bao gói, khả năng đảm bảo ổn định nguồn hàng, duy trì tín nhiệm của
khách hàng, cước phí vận tải cao,...nên sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn
thấp.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam sang
Malaysia 6 tháng đầu năm 2002, so sánh với 6 tháng đầu năm 2001:
Tên hàng

Cao su
Dầu thô

Cà phê
Gạo
Giầy dép
Hải sản
Dệt may
Rau quả
TCMN
Hạt tiêu
Lạc nhân
Máy tính, LK
SP gỗ
SP nhựa
Tổng XK 6 tháng

6 tháng
đầu năm 2001
(USD)
(1)
3196597
57849618
1059945
23346351
626506
4757990
13643406
617488
5633030
252919
1679202
81045

1910373
1234297
162561443

6 tháng
đầu năm 2002
(USD)
(2)
8122174
80725955
1058478
12808033
1174562
4103454
11166920
709656
469965
293566
3805611
449769
5455452
1316629
66230471

Tăng /giảm
(%)
(2)/(1)
154,00
39,54
-0,09

45,00
87,50
-13,74
22,17
14,90
-16,70
16,26
126,60
-47,85
186,60
6,60
2,4

Nguồn: Bộ thương mại

Về nhập khẩu, các mặt hàng ta nhập từ thị trường này là những mặt hàng thiết yếu
phục vụ sản xuất và những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, một phần để
tái xuất khẩu sau khi đã có thêm phần giá trị gia tăng do sử dụng lao động trong
20

20


nước như mặt hàng linh kiện điện tử, máy tính, linh kiện xe máy, sắt thép chuyên
dụng, xăng dầu tinh lọc,...Nhìn vào bảng thống kê dưới đây cho thấy một số mặt
hàng có kim ngạch tăng cao như: Phân bón tăng 95% (đạt 2,7 triệu USD) so với
cùng kỳ năm 2001. Khối lượng phân bón nhập khẩu tăng nhanh chủ yếu do giá
phân bón của Malaysia vẫn ở mức thấp (phân U rê khoảng 110USD/tấn), các
doanh nghiệp chuẩn bị lực lượng cho vụ hè - thu. Bên cạnh đó sản xuất phân bón
của các doanh nghiệp trong nước giảm khoảng 13% (tuỳ từng loại phân, riêng phân

Lân giảm 21% do giá thành cao hơn hàng nhập khoảng 10 - 12 USD/tấn); linh kiện
điện tử tăng 85% đạt 25,5 triệu USD, đặc biệt máy, thiết bị, phụ tùng tăng 112,66%
đạt 25,18 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này tăng chủ yếu ở các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và để phục vụ gia công hàng xuất khẩu là chính.
Một số mặt hàng lại có chiều hướng giảm mạnh về kim ngạch như: xăng dầu giảm
560% so với cùng kỳ năm 2001 do giá xăng dầu tiếp tục tăng, ảnh hưởng đến sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, mặc dù nhà nước đã có 4 lần điều chỉnh
thuế suất thuế nhập khẩu giúp các doanh nghiệp đảm bảo kinh doanh, cung ứng
xăng dầu. Đồng thời một số doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu không
mua được ngoại tệ nên việc nhập khẩu rất khó khăn; thuốc tân dược giảm 71,8% so
với cùng kỳ năm 2001 do nhà nước có các quyết định mới quản lý chặt chẽ việc
nhập khẩu tân dược. Linh kiện xe máy giảm 26,96% do một số chủ trương mới của
Chính phủ. Đây là một trong những thị trường cung cấp linh kiện xe máy lớn cho
Việt Nam, tuy nhiên, việc giảm khối lượng nhập khẩu từ thị trường này chưa làm
xuất hiện tình trạng tăng giá đột biến trên thị trường nội địa.
Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam từ Malaysia
6 tháng đầu năm 2002, so sánh với 6 tháng đầu năm 2001:

21

21


Tên hàng

Chất dẻo NL
Linh kiện ĐT
Máy, TB, PT
NPL dệt may
Phân bón

Sắt thép
Tân dược
Xăng dầu
L.kiện xe máy
Tổng NK 6 tháng

6 tháng đầu 2001
(USD)
(1)

9100170
16963382
11841103
4430515
1385755
1004748
2778990
41322383
839508
219216461

6 tháng đầu 2002
(USD)
(2)

12946246
25504381
25182024
6200467
2701683

953645
784655
18142246
6150225
294506663

Tỷ lệ tăng/giảm
(%)
(2)/(1)

42,26
85,00
112,66
39,95
95,00
-5,07
-71,80
-560,00
-26,96
34,20

Nguồn: Bộ thương mại.

2.2 ĐẦU TƯ CỦA MALAYSIA VÀO VIỆT NAM TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY
2.2.1 So sánh môi trường đầu tư của Việt Nam với các nước ASEAN khác:
Về dung lượng thị trường, với số dân 79715410 người (nguồn: Niên giám
thống kê năm 2002 - tính đến tháng 7/2002), Việt Nam là nước đông dân thứ hai
sau Indonesia trong ASEAN. Song, vì GDP bình quân đầu người của Việt Nam
thấp nhất trong khối nên khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế chỉ đạt hơn 19
tỷ USD một năm, đứng thứ 5 trong 6 nước xem xét là Indonesia, Thailan,

Malaysia, Philippin, Việt Nam và Singapo. Đặc biệt, riêng Singapo là nước có thu
nhập bình quân đầu người cao nhất nhưng lại có số dân ít nhất nên dung lượng thị
trường nhỏ (6,8 tỷ đôla) và được xếp đứng cuối cùng trong bảng xếp hạng.
Về tiềm năng thị trường, các nước ASEAN đều có tốc độ tăng trưởng hàng
năm cao hơn của thế giới và của các nước đang phát triển. Từ đầu thập kỷ 80, hầu
hết các quốc gia ASEAN đều duy trì một tốc độ tăng trưởng cao nhất và Phillipin
có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Việt Nam cũng duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng
khoảng 7%/năm. Tỷ lệ tích luỹ nội bộ cao nhất là Singapo (trên 50%), Thailan và
Malaysia tích luỹ khoảng 30%, Indonesia khoảng 15%, Việt Nam có tỷ lệ tích luỹ
nội bộ thấp nhất trong số các nước ASEAN. Với tỷ lệ tích luỹ nội bộ thấp như vậy,

22

22


Việt Nam sẽ phải là nước dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài mạnh mẽ nhất để duy trì
được một tốc độ tăng trưởng cao bền vững.
Về tính ổn định của nền kinh tế, sự thay đổi trong chỉ số hàng hoá tiêu dùng
của Việt Nam là biến động lớn nhất và ổn định nhất là Singapo, tiếp đến là
Malaysia, Thailan, Indonesia và Phillipin. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ hồi năm 97 - 98, Việt Nam là một trong số ít các nước hầu như không
phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của nó.
Về khả năng chuyển đổi đồng ngoại tệ, trong ASEAN, trừ đồng tiền của
các nước là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanma, còn lại các đồng tiền của các
nước khác đều có khả năng chuyển đổi và buôn bán tự do trên các thị trường ngoại
hối trong và ngoài nước. Riêng Brunei và Singapo còn có một thoả thuận riêng,
cho phép đồng tiền của hai nước này có thể chuyển đổi ngang. Về dự trữ ngoại tệ,
tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam cũng thấp hơn rất nhiều so với các nước
ASEAN khác, trừ Lào, Myanma và Campuchia.

Về mức độ phát triển cơ sở hạ tầng, xét theo mức tiêu dùng năng lượng
bình quân đầu người thì Việt Nam đạt thấp nhất (thấp hơn 5 lần của Phillipin, 800
lần của Singapo và 1000 lần của Brunei). Số đầu người trên một máy điện thoại ở
Singapo đạt mức cao nhất (2,1 người /1máy) và ở Việt Nam đat mức thấp nhất
(154 người /1máy), tỷ lệ này ở đối với Malaysia, Thailan, Phillipin và Indonesia
lần lượt là 7/1, 19/1, 37/1 và 54/1. Những so sánh cụ thể về cơ sở hạ tầng như sân
bay, bến cảng, năng lượng, vận tải, viến thông... của Việt Nam với các nước
ASEAN khác cho thấy mức độ phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn thua
kém rất nhiều nước ASEAN khác.
Về chi phí lao động, Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi
dào, nguồn lao động dư thừa với giá rẻ. Mức lương lao động ở Việt Nam là thấp
nhất trong số các nước thành viên ASEAN, do đó có nhiều khả năng để thu hút đầu
tư vào những ngành sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh tiền lương
với năng suất lao động thì lợi thế của Việt Nam về chi phí rẻ và dồi dào sẽ không
23

23


được như mong đợi. Indonesia có mức lương cao hơn Việt Nam 10% song năng
suất lao động lại cũng cao hơn Việt Nam 10%, do đó sẽ có lợi thế hơn Việt Nam
nếu xét về chi phí sản xuất.
Về chính sách đầu tư, Việt Nam không phải là quốc gia có chính sách đầu
tư hấp dẫn nhất trong quan hệ so sánh về khung thể chế, khuyến khích về thuế, tính
đơn giản trong thủ tục đầu tư,...Singapo là nước có chính sách đầu tư tự do nhất,
tiếp đến là Thailan và Malaysia, Việt Nam và Phillipin.
Về mức độ phát triển của hạ tầng xã hội, Việt Nam đã ban hành khung thể
chế pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tai Việt Nam biểu hiện ở Luật đầu tư
nước ngoài 1987 và đến nay đã được sửa đổi 3 lần. Đây có thể coi là một trong số
các Luật đầu tư thông thoáng nhất trong khu vực. Tuy nhiên, giữa Luật và các văn

bản dưới luật lại không có sự thống nhất rõ ràng, làm ảnh hưởng đến tâm lý đầu tư.
Trên thực tế, tính hiệu lực của các Luật là rất thấp trong quan hệ so sánh với tính
hiệu lực của các Luật đầu tư của các nước trong khu vực.
Như vậy Việt Nam có lợi thế nhất về chi phí lao động so với các quốc gia
khác, song lại kém về môi trường đầu tư như cơ sở hạ tầng, hạ tầng cơ sở kỹ thuật,
tỷ lệ tích luỹ nội bộ, thuế và ngay cả về mức độ mở của chính sách đầu tư Việt
Nam vẫn đứng sau Singapo, Thailan và Malaysia.
2.2.2 Qui mô và cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam từ năm 1995 đến nay
Để tăng cường thu hút đầu tư từ Malaysia, trong những năm qua chính phủ
Việt Nam đã có những nỗ lực tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư như:
Sửa đổi Luật khuyến khích đầu tư trong nước, cho phép các tổ chức và cá nhân
trong nước và nước ngoài mua cổ phần hoặc đóng góp vốn vào các doanh nghiệp
trong nước gồm các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa; thông qua nghị
định mới về đầu tư nước ngoài, đưa ra những khuyến khích bổ sung cho các nhà
đầu tư và ban hành qui chế thực hiện cho từng ngành; Chính phủ bắt đầu các cuộc
đối thoại giữa khu vực nhà nước và tư nhân để hiểu rõ hơn các hạn chế mà các nhà
24

24


đầu tư nước ngoài và tư nhân phải đương đầu, một đường dây nóng đã được thiết
lập để giải quyết những vấn đề khiếu nại.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng thực tế cho thấy, thu hút đầu tư của
Malaysia vào nước ta những năm qua đã gặp rất nhiều khó khăn và kết quả không
được như mong muốn. Điều này không nằm ngoài xu hướng suy giảm chung của
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam những năm cuối thập kỷ 90. Nguyên nhân của
những biến động bất thường trong đầu tư của Malaysia vào Việt Nam sẽ được đề
cập ngay trong phần 2.3.
Tính đến 20 - 12 - 2001, Malaysia đứng thứ 12 trong 41 nước và vùng lãnh

thổ đầu tư vào Việt Nam với 102 dự án và tổng số vốn đăng ký là 1,018 tỷ USD,
vốn thực hiện là 1,034 tỷ USD. Cơ cấu đầu tư của Malaysia vào Việt Nam hiện nay
như sau:
- Công nghiệp:
- Khách sạn:
- Dầu khí:
- Khu chế xuất:
- Xây dựng:
- Ngân hàng:
- Viễn thông:

52,28%
17,39%
13,95%
8,55%
5,42%
1,59%
0,82%

Một số dự án có vốn đầu tư lớn của Malaysia tại Việt Nam tính đến 31/12/2001
Tên dự án

Lĩnh vực đầu tư

Cảng quốc tế
Vũng Tàu
Ô tô Nissan

BOT
Sản xuất ô tô và phụ tùng


E - HSIN Việt Nam

Sản xuất dây điện, dây

Vốn đầu tư
(triệu USD)
191,1

Địa bàn đầu tư
Bà Rịa Vũng Tàu
Đà Nẵng

110

Việt Nam - Malaysia
Ltd
Nhựa và Hoá chất
Phú Mỹ
Đầu tư và Phát triển
Du lịch Hạ Long
Petronas Carigaliover

tráng men
Khách sạn

Đồng Nai
93,6
Hà Nội
79


PVC

Bà Rịa - Vũng Tàu
70

Khách sạn 5 sao

Quảng Ninh
68

Dầu khí

Ngoài khơi
65

Khách
sạnGrandImperialSaigon

25

Khách sạn

TP. Hồ Chí Minh
58,6

25



×