Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nguyên tắc quản lý nhà nước về tài chính bảo hiểm xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.73 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN

NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ TÀI CHÍNH BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM
***************

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BHXH
1. Khái niệm BHXH
2. Bản chất và chức năng của BHXH
3. Nguyên tắc hoạt động của BHXH
4. Hệ thống các chế độ BHXH
II. QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BHXH
1. Khái niệm quản lý tài chính BHXH
2. Nội dung quản lý tài chính BHXH
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lý tài chính
III. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI
CHÍNH BHXH Ở VIỆT NAM
1. Nguyên tắc quản lý thu
2. Nguyên tắc quản lý chi
3. Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư
4. Nguyên tắc cân đối quỹ
IV. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH BHXH Ở
MỘT SỐ NƯỚC
1. Cộng hòa liên bang Đức


2. Trung Quốc

2


Nguyên tắc quản lý nhà nước
về tài chính bảo hiểm xã hội
ở Việt Nam
Trên thế giới hiện nay có 4 loại hình bảo hiểm gồm: Bảo hiểm
thương mại, Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm thất
nghiệp. Mỗi loại hình bảo hiểm có điểm khác nhau về đối tượng bảo hiểm,
đối tượng tham gia bảo hiểm, chính sách quản lý….nhưng có chung mục
đích chủ yếu là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những người
tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất
nước.
BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi nó
liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt
động của BHXH không nhằm mục đích sinh lời mà mang tính chất nhân
văn, nhân đạo cao cả. BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách
an sinh xã hội. Hoạt động của nó chịu sự chi phối của Luật BHXH cũng
như định hướng chính sách kinh tế - xã hội của mỗi nước. BHXH ra đời từ
giữa thế kỷ 19. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp Quốc được thành
lập và đến năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thuộc Liên Hợp
Quốc ký công ước Giơ ne vơ về “ BHXH cho người lao động” và khuyến
nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tùy khả năng và điều
kiện kinh tế- xã hội của mình. Từ đó, BHXH đã phát triển ở hầu hết các
nước trên thế giới.
Ở Việt nam, sau cách mạng tháng 8, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946,
Chính phủ đã ban hành 1 loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp
ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước. Trong suốt

3


những năm tháng kháng chiến chống xâm lược cho đến khi đất nước thống
nhất, BHXH đã góp phần rất lớn trong việc ổn định thu nhập, ổn định cuộc
sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn
trong động viên sức người, sức của cho thắng lợi của dân tộc…Ngày
29/6/2006, Quốc hội thông qua Luật BHXH. Chính sách BHXH Việt Nam
và tổ chức quản lý hoạt động có nhiều biến đổi tích cực, phù hợp điều kiện
đất nước, đặc biệt là đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp, hoàn toàn do Ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo chuyển sang cơ
chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc thu cân bằng thu
chi. Nhà nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lý thông qua BHXH
Việt Nam. Trong hoạt động tổ chức quản lý thì quản lý tài chính là một
mảng lớn, cần được chú trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có vững thì
các chế độ trợ cấp mới được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến tình
trạng thâm hụt Ngân sách Nhà nước. Nhà nước đã tổ chức quản lý thống
nhất tài chính BHXH với những nguyên tắc riêng, đảm bảo cho quỹ BHXH
được hoạt động hiệu quả nhất.

I. Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội
.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội.

BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động do bị ốm, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp,
tàn tật, tuổi già, tử tuất; mất việc làm dựa trên cơ sở hình thành và sử dụng
một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và
gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm sau:


4


- Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động
giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
của người lao động tham gia BHXH.
- Đối tượng tham gia BHXH: người lao động và người sử dụng lao
động.
2. Bản chất và chức năng của BHXH.
a.Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội. Đặc
biệt là trong nền kinh tế hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối
quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát
triển. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và phức tạp, vì vậy
có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH.
- Bên tham gia BHXH (người lao động và người sử dụng lao động),
bên BHXH ( cơ quan chuyên trách nhà nước) và bên được hưởng BHXH
(người lao động và gia đình họ) là ba chủ thể trong mối quan hệ của
BHXH.
- Biến cố làm giảm hoặc mất khả năng của người lao động có thể là
rủi ro ngẫu nhiên ( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp), cũng có thể là rủi
ro không hoàn toàn ngẫu nhiên ( tuổi già, thai sản….), đồng thời có thể xảy
ra trong hoặc ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi này sẽ được thay thế hoặc bù
đắp từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH
đóng và có thêm hỗ trợ của NSNN.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người
lao động trong trường hợp bị giảm, mất thu nhập hoặc mất việc làm.
b. Chức năng của BHXH.


5


- Chức năng cơ bản nhất là thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập,
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH. Phân phối lại giữa người lao động có thu nhập cao và
thấp, người lao động khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu
phải nghỉ làm…. BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Nhờ BHXH, người lao động yên tâm lao động, gắn bó công việc,
góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động , nâng cao năng
suất lao động. Chức năng này như đòn bẩy kinh tế kích thích người lao
động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động
xã hội.
- Giải quyết mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao
động.
3. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.
3.1 Mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng trợ cấp
BHXH
BHXH đã trở thành quyền cơ bản của con người.
3.2 Mức hưởng trợ cấp BHXH phải tương quan với mức đóng góp.
BHXH là một trong những hình thức phân phối lại thu nhập giữa
những người tham gia bảo hiểm nên cần thiết phải xác định mức hưởng
công bằng, hợp lý. Mức đóng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
mức hưởng, thường mức đóng và mức hưởng bị nhà nước khống chế ở
mức trần nhất định.
3.3 Số đông bù số ít.
Khi gặp phải rủi ro, người tham gia bảo hiểm này sẽ được bù đắp

một khoản thu nhập thay thế nói chung thường là cao hơn nhiều so với
6


khoản khí BHXH mà họ đóng góp do BHXH đã thực hiện trên cơ sở số
đông bù số ít.
3.4 Nhà nước thống nhất quản lý BHXH.
BHXH là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã
hội, vì vậy Nhà nước phải quản lý hoạt động BHXH để đảm bảo ổn định
và công bằng cho xã hội, đảm bảo tính thống nhất và là yêu cầu khách
quan, nhất là trong giai đoạn đầu thực hiện BHXH theo yêu cầu của cơ chế
thị trường.
3.5 Kết hợp hài hòa các lợi ích, mục tiêu và phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước.
Ngoài mục đích đảm bảo thu nhập cho người lao động còn phải tính
đến lợi ích chung và lợi ích của người sử dụng lao động, kết hợp với mục
tiêu xã hội. Vì vậy, kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu đó là cơ sở
thiết kế hệ thống, điều kiện để tổ chức thành công BHXH.
4. Hệ thống các chế độ BHXH
Theo khuyến nghị của ILO nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm
1952 tại Gionevo, hệ thông các chế độ BHXH gồm:
4.1 Chăm sóc y tế
4.2 Trợ cấp ốm đau
4.3 Trợ cấp thất nghiệp
4.4 Trợ cấp tuổi già
4.5 Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiêp
4.6 Trợ cấp gia đình
4.7 Trợ cấp sinh đẻ
4.8 Trợ cấp khi tàn phế
4.9 Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)


7


Tùy điều kiện kinh tế- xã hội mà mỗi nước tham gia công ước
Giownevo thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, ít nhất phải thực
hiện được 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ: 4.3, 4.4,
4.5, 4.8, 4.9.
Ở Việt nam, BHXH bắt buộc thực hiện vơi 5 chế độ:
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp hưu trí
- Trợ cấp tử tuất
5. Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội( BHXH)
5.1 Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội, nguồn quỹ
Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài
NSNN.
Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ
ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro.
Quỹ được hình thành từ các nguồn sau:
- Người sử dụng lao động đóng
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (cá nhan và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư
một phần quỹ nhàn rỗi…)
5.2 Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội
Quỹ bảo hiểm xã hội mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của
một quỹ, ngoài ra do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc
trưng riêng có sau:

- Nguyên tắc: cân bằng thu chi.
8


- Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả.
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH
là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro
dẫn đến mất hay giảm thu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng
góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là
có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như
vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc
chắn được hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham
gia BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít
lần ( với chế độ ốm đau), thậm chí không được hưởng (chế độ thai sản).
- Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính, nguồn quỹ tích lũy lâu dài.
Chức năng của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao
động và để thực hiện chức năng này, chính BHXH cũng phải tự bảo vệ
mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn, về nguyên
tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ.
Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả
ngay mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài
( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy
đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt
ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn
phải bảo toàn về mặt giá trị.
Nguồn quỹ này được đóng góp và tích lũy lại trong suốt quá trình lao
động.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, nội dung vật chất của tài chính BHXH. Là
khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chinh doanh nghiệp hình


9


thành hệ thống tài chính quốc gia. Chúng có quan hệ chặt chẽ vơi nhau và
đều chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước.
- Sự ra đời và phát triển quỹ phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế- xã
hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.

II. Quản lý tài chính BHXH.
1. Khái niệm chung về quản lý tài chính BHXH.
Quản lý là những hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng quản lý nhất định để
điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người, từ đó có thể duy
trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lý ở đây là tài
chính BHXH. Tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính,
chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc
gia. Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các
nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình
họ khi gặp rủi ro, từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lý tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính
BHXH như một công cụ quản lý xã hội của nhà nước. Nhà nước thông qua
hoạt động tài chính để thực hiện mục tiêu quản lý xã hội, đó là đảm bảo
cuộc sống cho nhân dân trước những rủi ro làm giảm hoặt mất khả năng
lao động hay khi về già, giúp người lao động yên tâm lao động sản xuất,
góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi
quốc gia, mỗi thể chế xã hội. Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lý tài chính
BHXH là quản lý thu chi BHXH. Như vậy quản lý tài chính BHXH chủ
yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được
thực hiện một cách bình thường và làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ

BHXH được thực hiện cách bình thường trước những biến động của môi
trường. Biến động ở đây là những biến động về đối tượng tham gia, đối
10


tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi trường kinh tế…những
biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến việc thu
chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
2.Nội dung quản lý tài chính BHXH
Nội dung của quản lý tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn và xác
định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lý
và lấy đó làm căn cứ để ta quyết định cụ thể thu chi BHXH đảm bảo mục
tiêu của nhà nước đặt ra
Bốn nội dung cơ bản:
- Quản lý thu BHXH
- Quản lý chi BHXH
- Quản lý hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ
- Quản lý cân đối quỹ BHXH
3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lý tài chính
Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lý tài chính
BHXH nói riêng thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới
hoạt động của đối tượng quản lý là rất cần thiết. Các tác động của môi
trường có thể mang đến những thách thức cũng như những cơ hội cho
chính bản thân các hoạt động tài chính của BHXH. Muốn quản lý tốt, nhà
quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra những quyết định phù hợp
và có lý nhất cho đối tượng quản lý. Các tác động của môi trường thường
được chia làm hai loại tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác động
từ môi trường trong hệ thống.
Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ
môi trường kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra là

những ảnh hưởng của môi trường thế giới. Tuy nhiên tác động của các
nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. Các chính sách, quyết
11


định của Nhà nước tác động trực tiếp tới hoạt động quản lý. Môi trường
kinh tế như GDP, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh
tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức sống tối thiểu, các dịch vụ công
cộng… Đây là các yếu tố tác động tới thu, chi, cân đối quỹ BHXH sao cho
phù hợp, đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Bên cạnh đó còn
có các yếu tố như văn hóa, lối sống, truyền thống, trình độ nhận thức…nó
tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân
trong xã hội. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “ lá lành đùm lá
rách, lá rách ít đùm là rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai
BHXH nên được mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể
trên tác động tới nội dung của những quy định trong các chế độ quản lý tài
chính BHXH Việt Nam.
Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý
thực tự giác của các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là
chủ sử dụng lao động. Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH,
điều kiện làm việc, trang thiết bị phục vụ công tác,…cũng ảnh hưởng trực
tiếp đến công tác quản lý tài chính BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở
vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì công tác quản lý tài chính
BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả.

III. Nguyên tắc quản lý nhà nước về tài chính
BHXH ở Việt Nam.
Khi thực hiện quản lý quỹ tài chính BHXH cần chú ý 2 nguyên tắc
chủ yếu sau :
- Quá trình quản lý tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so

sánh và cân đối trong trạng thái động: bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến
động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động

12


một cách thường xuyên nên trong quản lý, đặc biệt là khâu lập kế hoạch
phải chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành bảo
hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo ngược chu kì kinh doanh
tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau.. tuy có sự hỗ trợ của NSNN,
song quản lý tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN
và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: như trên đã đề cập thì
ngành bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời
gian hưởng có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần
đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lý. Để đảm bảo nguyên
tắc này cơ quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu
chi và quản lý quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu
quả.
1. Nguyên tắc quản lý thu BHXH
Quản lý thu giữ vài trò quan trọng và quyết định đến sự thành công
của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để
đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Nội dung thu gồm 2
khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu
lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như:
thu từ các quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là
nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là
khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó
mang tính thụ động. Do vậy mà công tác quản lý thu chỉ tập trung vào
nguồn thu từ 2 đối tượng chính là người lao động và người sử dụng lao

động. Nội dung của quản lý thu lại tập trung vào 3 đối tượng chính là :
quản lý đối tượng tham gia BHXH, quản lý quỹ lương của doanh nghiệp,

13


quản lý tiền thu BHXH. Để đảm bảo việc quản lý thu được dễ dàng, nhà
nước đặt ra những nguyên tắc cụ thể như sau :
1.1 Đảm bảo đúng đối tượng, đúng mức thu:
Để đảm bảo tính công bằng và nguyên tắc số đông bù số ít, nguyên
tắc san sẻ rủi ro thì việc đảm bảo đúng đối tượng, đúng mức thu là việc hết
sức quan trọng.
Mỗi loại hình bảo hiểm đều có đối tượng bảo hiểm, đối tượng tham
gia khác nhau và thường được quy định rõ ràng trong các văn bản quy
phạm pháp luật của nhà nước. BHXH Việt Nam có đối tượng là thu nhập,
đối tượng tham gia là người lao động và người sử dụng lao động. Hiện nay,
BHXH Việt Nam chia đối tượng này thành 2 loại: đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện và đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Để có thể thu
đúng đối tượng cần phải thực hiện 1 số công việc sau:
- Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ
phận và cá nhân để quản lý, theo dõi, đôn đốc thu BHXH đến từng cá nhân
tham gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản lý sẽ làm
cho việc thu BHXH được dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tượng thu thiếu,
bỏ qua không thu, thu trùng….Việc phân cấp, phân công quản lý đối tượng
tham gia BHXH phải được yêu cầu của công tác thu BHXH đề ra, ví dụ
như: BHXH Việt Nam thực hiện công tác quản lý đối với BHXH các tỉnh,
thành phố.
- Tiến hành cấp và ghi sổ BHXH cho từng người lao động để theo
dõi ghi chép kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng BHXH của họ theo
từng thời gian (tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị đóng, ngành nghề

công tác để sau này làm căn cứ xét hưởng các chế độ BHXH cho họ. Hiện
nay, BHXH Việt nam đang sử dụng phương pháp này để quản lý đối tượng
tham gia BHXH. Đây không chỉ là cách quản lý về số lượng mà còn quản
14


lý cả về thời gian công tác, ngành nghề công tác, mức đóng, từ đó làm căn
cứ để thu và chi BHXH. Theo quy định của Việt nam hiện nay quy trình
cấp sổ do cơ quan BHXH cấp tỉnh thực hiện gồm 6 bước, đảm bảo tính
thống nhất trong toàn quốc, tránh những hiện tượng khai man, trường hợp
giả giấy tờ để trục lợi từ BHXH.
Không phải đối tượng tham gia nào cũng có cùng mức sống, mức thu
nhập, phải căn cứ vào mức lương cơ bản để có mức thu phù hợp. Mức thu
BHXH đối với người tham gia BHXH được quy định tại điều 36, điều lệ
BHXH Việt Nam ban hành kèm theo nghị định số 12/cp ngày 26/1/1995
của Chính phủ, cụ thể :
- Các cơ quan, các doanh nghiệp đóng BHXH thì phần đóng góp
phải dựa trên quỹ lương , quỹ lương này bao gồm toàn bộ là lương cứng và
các khoản phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ lương này phải chi trả cho tất
cả các đối tượng tham gia đóng góp BHXH. Đóng 15% tổng quỹ lương
hàng tháng của người lao động trong đơn vị tham gia BHXH.
- Đối với người lao động cơ chế thu là 5% cũng bao gồm cả lương
cứng và các khoản phụ cấp ngoài lương khác.
Tùy theo từng khu vực công tác, lĩnh vực công tác mà có những mức
thu khác nhau. Nhà nước có những quy định riêng cho từng khu vực, từng
lĩnh vực để đảm bảo mức thu phù hợp.
1.2 Đảm bảo hình thức thu, thời gian thu, nộp bảo hiểm, quyết toán
để đảm bảo tính công bằng giữa các đơn vị tham gia bảo hiểm
Các đơn vị, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm sẽ thực hiện nộp phí
thông qua tài khoản của BHXH, vì vậy BHXH khó nắm bắt được tình hình

thu và khó đảm bảo tính công bằng cho các đơn vị tham gia. Vì vậy nhà
nước quản lý hình thức thu, thời gian thu, nôp bảo hiểm, quyết toán như
sau:
15


- Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tượng
khoán thu để được hưởng hoa hồng. Tuy nhiên, ở Việt nam, phương thức
thu chủ yếu là khoán thu. Đại lý thu của BHXH chủ yếu là các chủ sử dụng
lao động. Chủ sử dụng lao động thu của người lao động sau đó chuyển toàn
bộ đóng góp của cả người lao động và người sử dụng lao động cho cơ quan
BHXH. Thực hiện như vậy sẽ thuận lợi cho cơ quan BHXH, vì chính
người lao động quản lý trực tiếp lao động của mình, thông qua quỹ lương
của doanh nghiệp người sử dụng lao động khấu trừ luôn phần phí đóng
BHXH của người lao động theo % mức tiền lương của họ. Đại lý có thể là
cơ quan, tổ chức ,hiệp hội, đoàn thể có liên quan như bưu điện, ngân
hàng....song các đại lý này không phổ biến. Như vậy quản lý quỹ lương
của doanh nghiệp vừa quản lý đối tượng tham gia vừa quản lý được số thu
của BHXH Việt nam
- Tại Việt Nam hình thức thu nộp chủ yếu là chuyển khoản thông qua
ngân hàng. BHXH Việt Nam hình thành các “ tài khoản chuyên thu”, các
tài khoản này được mở tại các Ngân hàng nhà nước hoặc tại Kho bạc. Để
đảm bảo thống nhất, BHXH Việt Nam đưa ra nguyên tắc: không thu tiền
mặt, hiện vật hay ngân phiếu, trong trường hợp đặc biệt người sử dụng lao
động nộp tiền mặt hoặc ngân phiếu thì cơ quan BHXH phải có hướng dẫn
cụ thể để người sử dụng lao động nộp trực tiếp vào tài khoản chuyên thu
BHXH. Định kỳ hàng tháng người sử dụng lao động sau khi trả lương cho
ngườ lao động sẽ nộp số tiền BHXH bằng cách chuyển khoản từ tài khoản
của họ ở một ngân hàng hay kho bạc sang tài khoản chuyên thu BHXH.
Sau đó cơ quan BHXH cấp huyện và cấp tỉnh sẽ phải chuyển số thu này

lên cơ quan BHXH cấp trên mà không sử dụng tiền thu để chi trả bất cứ
việc gì. BHXH huyện sẽ chuyển khoản vào ngày 10 và 25 hàng tháng,
ngày làm việc cuối cùng của năm phải chuyển toàn bộ số tiền thu lên
16


BHXH tỉnh. BHXH tỉnh định kỳ chuyển số thu lên BHXH Việt Nam vào
ngày 10,20 và ngày cuối cùng của tháng. BHXH Việt Nam định kỳ chuyển
số thu vào quỹ BHXH mở tại kho bạc nhà nước.
- Để đảm bảo nguyên tắc đúng thời hạn, BHXH Việt Nam có quy
định nộp trong vòng 30 ngày. Nếu quá thời gian sẽ bị xử phạt.
- Quyết toán thu BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm đó
số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi
quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào
mức bình quân
- Về nguyên tắc các cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng
quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải ăn
khớp với nhau và phải thực sự cân đối: giữa người lao động, người sử
dụng lao động, loại hình doanh nghiệp, loại hình thu.
- Ngoài việc thu đúng người lao động và người sử dụng lao động,
BHXH phải lập kế hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách Nhà nước
cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm sau đó mới được quyết toán
1.3 Tiền thu lập quỹ được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính
nhà nước.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với ngân sách nhà nước, được
quản lý thống nhất theo chế độ tài chính nhà nước, quỹ BHXH có thể nói
là hạt nhân của hoạt động BHXH. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ những
nguồn thu BHXH, bên cạnh đó cũng phải tăng cường quản lý đối với số
tiền BHXH thu được để hình thành quỹ
Quỹ BHXH cần được quản lý thống nhất ở BHXH Việt Nam, vì vậy

tất cả sự đóng góp của người tham gia BHXH đều phải tiến hành chuyển
về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện
nguyên tắc trên, các đơn vị BHXH các tỉnh, thành phố, huyện được mở các
17


tài khoản chuyển thu BHXH ở hệ thống ngân hàng và kho bạc nhà nước,
các đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu tiền nộp BHXH ở ku vực quản
lý của mình và định kỳ chuyển số tiền thu được lên cấp trên, từ đó tiền thu
BHXH được tập trung thống nhất tại 1 cơ quan cao nhất là BHXH Việt
Nam. Trong quá trình thu BHXH và lưu chuyển số tiền thu BHXH từ đơn
vị cơ sở lên BHXH Việt Nam, các đơn vị không được phép sử dụng tiền
thu BHXH cho bất cứ một nội dung nào khác, việc quy định như vậy
nhằm tránh những thất thoát số tiền thu BHXH của các đơn vị thống nhất
nguyên tắc trong quá trình hình thành quản lỹ quỹ BHXH.
2. Nguyên tắc quản lý chi BHXH
Chi BHXH là một hoạt động thường xuyên và liên tục của cơ quan
BHXH, chi BHXH là một hoạt động đa dạng và phức tạp. Có thể hiểu hoạt
động chi quỹ BHXH như sau: chi BHXH là các khoản chi phí cần thiết để
thực hiện các hoạt động của BHXH và các hoạt động khác có liên quan đến
công tác BHXH. Chi BHXH là hoạt động quan trọng trong công tác
BHXH.
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi
quản lý và chi khác. Trong đó có thể nói 2 khoản chi đầu là rất lớn, đặc
biệt là chi cho các chế độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự đảm
bảo cuộc sống của chính sách BHXH
Nguyên tắc quản lý chi BHXH:
2.1 Chi đúng đối tượng, đúng mục đích
- Cũng như quản lý thu, để đảm bảo nguyên tắc chi đúng đối tường,
quản lý chi cũng theo phân cấp, theo đó cơ quan BHXH cấp tỉnh, huyện có

trách nhiệm thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ cho các đối tượng hưởng
BHXH : đúng đối tượng, đúng chính sách.

18


- Chi cho các chế độ BHXH dài hạn, loại chi này bắt nguồn từ việc
bảo hiểm nguồn thu nhập của người lao động khi về già, mất sức hay bị
chết. Đặc điểm của những chế độ BHXH này là thực hiện sau quá trình lao
động, quan hệ phân phối là quan hệ mang tính chất hoàn trả, lợi ích thu
được tương ứng với phần đóng góp. Vì vậy, việc chi cho chế độ này phải
cân đối với thu trừ những trường hợp đồng tiền bị mất giá hay nền kinh tế
có sự biến đối lớn mà ngân sách nhà nước phải tài trợ.
- Chi cho từng chế độ ngắn hạn phải được cân đối trong phạm vi
từng năm, nguồn tài chính này thì BHXH thường để lại cho các cơ quan,
doanh nghiệp tự chi.
- Chi quản lý BHXH mang tính chất hành chính sự nghiệp, vì vậy
người ta thường căn cứ vào thang bảng lương của công nhân viên chức nhà
nước, căn cứ vào thủ tục hành chính như các đơn vị hành chính sự nghiệp
khác.
- Chi cho hoạt động đầu tư, phần chi này thường căn cứ vào những
dự án điển hình trong các hoạt động đầu tư để thanh toán chi đầu tư.
- Các khoản chi khác: chi tiếp khách, chi cho việc chia lãi…..
Có 2 khoản chi lớn: chi chế độ và chi hoạt động bộ máy.
- Quản lý hoạt động chi chế độ: để đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế
độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lý, tổ chức thực
hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Các điều kiện hưởng được
quy định cụ thể trong các văn bản. Đối tượng hưởng được xem xét và kiểm
tra nhằm tránh tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lý chi cho các
chế độ cũng cần được phân loại và phân cấp quản lý để dễ quản lý và thực

hiện chi trả cho thuận tiện.
Quản lý đối tượng chi trả là công tác thường xuyên của cơ quan
BHXH, tránh tình trạng đối tượng chi trả không còn tồn tại mà nguồn kinh
19


phí chi trả vẫn được cấp gây ra tổn thất cho quỹ BHXH, dẫn đến tình trạng
trục lợi BHXH của các đơn vị, cá nhân.
- Quản lý chi hoạt động bộ máy: chi quản lý là khoản chi cho bộ
máy, trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm
thiết bị và tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức. Mức chi này
được quy định trong điều lệ BHXH hoặc được lập trong NSNN. Khoản chi
này được quản lý chặt chẽ để tránh lãng phí không cần thiết, đảm bảo
nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả.
2.2 Chi gián tiếp
Tại Việt nam hiện nay phương thức chi trả gián tiếp thông qua hệ
thống đại lý chi trả là phổ biến nhất. Hệ thống đại lý chi trả hầu hết là quan
hệ dựa trên hợp đồng lao động và thường là chính người sử dụng lao động,
cán bộ xã phường, bưu điện hoặc ngân hàng. Thường các đại lý chi trả là
người sử dụng lao động được BHXH Việt Nam sử dụng cho việc chi trả
cho các trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, tại nạn…rất tiện lợi. Các đại lý còn
lại phù hợp vơi các chế độ dài hạn. Với điều kiện Việt nam thì phương
thức này là hợp lý, chi phí thấp, tiện lợi với người được hưởng trợ cấp.
2.3 Hoạt động chi theo văn bản pháp luật, theo đúng các quy định,
chế độ hạch toán thống kê hiện hành của nhà nước.
Cuối năm, cơ quan BHXH tiến hành cân đối thu chi, nếu chi không
hết thì phải lập báo cáo gửi lên cơ quan cấp trên, nếu thiếu chi thì cơ quan
BHXH có thể vay ngân hàng để chi cho đủ các chế độ, sau đó thanh toán
vào tháng tới, quý tới.
3. Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư

Quỹ BHXH tại 1 thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là
cơ sở những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Quỹ thu trước, chi
sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội cũng
20


như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát
triển quỹ trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề
đầu tư có thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt
quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là nguồn thu bổ
sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho
NSNN.
Quá trình đem số dư tạm thời nhàn rỗi của quỹ BHXH đầu tư sinh lời
phải tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc về an toàn và hiệu quả để hạn chế
tối đa rủi ro. Bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm và mục đích hoạt động
của quỹ BHXH, hoạt động đầu tư vốn nhàn rỗi còn phải đảm bảo nguyên
tắc thanh khoản và lợi ích xã hội.
3.1 An toàn
Nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH
là an toàn (không chỉ bảo toàn được số vốn đầu tư mà còn phải giữ được
giá trị thực sự của vốn), nhằm trước hết là bảo toàn được quỹ, đảm bảo
quyền lợi chính đáng của người lao động về chi trả BHXH.
Nếu hoạt động đầu tư để xảy ra tình trạng không an toàn, gánh nặng
sẽ đè lên vai Nhà nước và nguy hại hơn là dẫn đến sự mất ổn định về xã
hội - chính trị, mất lòng tin của người dân.
Do hậu quả của việc mất quỹ BHXH là rất nghiêm trọng nên quỹ
BHXH không được đầu tư vào lĩnh vực rủi ro cao, mạo hiểm lớn; không
nên tập trung đầu tư vào một ít dự án hoặc công trình, mà nên phân tán đầu
tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau (cả trong nước và nước ngoài) để giảm
thiểu rủi ro trong đầu tư. Ngoài ra, quỹ BHXH cần được Chính phủ ưu tiên

đầu tư vào các lĩnh vực có lợi nhuận cao.
3.2 Tính hiệu quả

21


Nguyên tắc thứ hai khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là tính hiệu
quả. Nguyên tắc này rất quan trọng vì nếu đầu tư không sinh lời thì không
thể thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ, và ảnh hưởng tới độ an toàn
của quỹ cũng như khả năng chi trả trong tương lai. Để thực hiện được
nguyên tắc này, cần thiết phải xác định được danh mục đầu tư, các lĩnh vực
đầu tư chủ yếu. Đối với từng dự án đầu tư, phải đánh giá chính xác nhất
hiệu quả kinh tế dựa trên một hệ thống các chỉ tiêu khoa học, từ đó mới có
được quyết định đầu tư đúng đắn, mang lại lợi nhuận cao.
3.3 Tính thanh khoản
Nguyên tắc thứ ba là phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng
vốn (dễ luân chuyển vốn). Quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là
quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ
BHXH. Do vậy, đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình thức nào cũng phải
đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền mặt để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ chi trả cho người lao động.
Thủ tục thanh toán cũng là một vấn đề cần xem xét khi quyết định
đầu tư, đảm bảo thủ tục không không quá phức tạp, dẫn đến tồn khoản.
Ngoài ra, đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH còn phải đảm bảo lợi ích kinh tế
và xã hội, bởi BHXH là một chính sách xã hội quan trọng của Nhà nước.
Tuỳ theo tính chất và nội dung đầu tư mà các nguyên tắc trên có tầm
quan trọng khác nhau. Chẳng hạn, khi đầu tư dài hạn thì nguyên tắc “dễ
luân chuyển vốn” không quan trọng bằng nguyên tắc “an toàn” và “hiệu
quả”. Ngược lại, đầu tư ngắn hạn thì nguyên tắc “dễ luân chuyển vốn” phải
được ưu tiên hàng đầu.

3.4 Thực hiện được lợi ích xã hội
Là 1 quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá
trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra
22


sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. các hình
thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng
đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu
tư khác với mục tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là 1 chính sách
quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi nước.
Hiện nay BHXH Việt Nam quản lý ngân sách dựa trên các tài khoản
mở tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam và tại kho
bạc Nhà nước. Theo quy định này thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để
đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng
là hoạt động hữu hiệu để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa đây
là một nguồn thu rất lớn của BHXH Việt nam. Đối với hoạt động đầu tư
tăng tưởng quỹ phải đảm bảo các yêu cầu an toàn, bảo tồn giá trị và có hiệu
quả kinh tế- xã

3. Nguyên tắc cân đối quỹ
Sau nghị định 12/Cp được thực hiện, quỹ BHXH Việt nam mới
chính thức đi vào hoạt động và được quản lý thống nhất, hạch toán độc lập
với NSNN. BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo
hiểm thương mại , BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục
đích lớn nhất là ổn định cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng
thu chi là trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện
BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế thường phải có sự hỗ trợ của
NSNN, đồng thời quỹ phải tìm cho mình những nguồn thu khác để đảm
bảo cân bằng quỹ. Quản lý cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng

nhằm phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện
pháp khắc phục kịp thời

23


III Kinh nghiệm quản lý tài chính BHXH của một
số nước
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính
sách BHXH, trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao
động, ốm đau, thai sản là nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%,
ít nhất là chế độ thất nghiệp có khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực
hiện các chế độ là tùy thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trj, xã
hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện nay là đang thực hiện
ngày càng đầy đủ các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của ngành BHXH
trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần học
hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước.
1. Quản lý tài chính BHXH của Cộng hòa liên bang Đức
So với các nước trên thế giới, cộng hòa liên bang Đức là nước có lịch
sử phát triển được coi là sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và
thực hiện từ những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở đức bao
gồm 6 chế độ sau:
+ Bảo hiểm thất nghiệp
+ Bảo hiểm y tế
+ Bảo hiểm chăm sóc sức khỏe cho người già và người tàn tật
+ Bảo hiểm ốm đau
+ Bảo hiểm tai nạn lao động
+ Bảo hiểm hưu trí
Hoạt động BHXH của cộng hòa liên bang đức thực hiện theo 3 trụ
cột chính là:

+ Hệ thống BHXH bắt buộc
+ Hệ thống BHXH tư nhân

24


+ Hệ thống BHXh ở các xí nghiệp
Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự
quản, bảo đảm tài chính theo phương pháp thu bù chi. Hệ thống BHXH tư
nhân và hệ thống BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo bộ luật lao động
của liên bang. Tự chịu là hình thức quản lý tương đối độc lập so với chỉ
đạo của cơ quan quản lý nhà nước cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ
chế quản lý chung của quỹ hưu trí . Cơ quan quản lý cao nhất là một hội
đồng, hội đồng này bổ nhiệm ban điều hành, từ ban điều hành sẽ điều hành
mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong năm của quỹ hưu trí
viên chức liên bang diễn ra như sau:
+ Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của chính phủ liên bang, tổ
chức BHXH , tổng cục thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới
theo phương pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi,
trên cơ sở này xác định tỷ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một
văn bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các
đối tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của bộ máy quản lý và còn một
khoản để dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định của nền kinh tế mà
khoản dự trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng do quỹ đảm
bảo trong một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoảng 0,8 tháng. Cách
này có những ưu điểm: hạn chế được những tác động của môi trường kinh
tế, dễ dàng cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh
nặng cho NSNN…
+ Cộng hòa liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện
cùng một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách

nhiệm thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở các nước
này là những công chức nhà nước (những người được đề cử vào bộ mày
quản lý nhà nước) không phải đóng BHXH nhưng họ được nhận lương hưu
25


×