Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.68 KB, 21 trang )

Những nội dung cơ bản của Luật doanh nghiệp 1999
I. Lịch sử hình thành Luật Doanh nghiệp 1999.
1. Sự xuất hiện của công ty ở Việt Nam và đặc điểm các công ty ở Việt nam tr-
ớc khi ban hành Luật Doanh nghiêp.
1.1. Sự xuất hiện của công ty ở Việt Nam.
Các công ty ở Việt Nam xuất hiện cùng với sự phát triển của hoạt động thơng
mại. Dới thời kỳ Pháp thuộc, do Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hình thức và
hoạt động của các công ty dới dạng các hội buôn đợc điều chỉnh bởi Luật Thơng
mại Pháp. Luật lệ về công ty đợc quy định lần đầu tiên tại Việt Nam trong Dân
luật thi hành tại các toà án Nam án Bắc kỳ 1913, trong đó có quy định về hội
buôn. Theo đạo luật này, các công ty (hội buôn) đợc chia thành hai loại : hội ngời
và hội vốn. Trong hội hợp vốn chia thành hội vô danh (Công ty cổ phần) và hội hợp
cổ (Công ty hợp vốn cổ phần đơn giản). Trong hội ngời chia thành hội hợp danh
(công ty hợp danh), hội hợp t (công ty hợp vốn đơn giản) và hội đồng lợi. Trong
luật này cha có công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 1944, chính quyền Bảo đại xây
dựng Bộ luật Thơng mại trung phần với những quy định về công ty cũng tơng tự
nh trong Dân luật năm 1913.
Sau năm 1954, đất nớc chia làm hai miền. ở miền Bắc, Việt Nam xây dựng
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.
Thời kì này tuy các đơn vị kinh tế quốc doanh có tên gọi là công ty nhng khái
niệm công ty ở đây không đợc hiểu theo bản chất pháp lí mà đợc hiểu theo hình
thức kinh doanh. Nhà nớc không khuyến khích phát triển kinh tế t nhân, không có
liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế, t nhân không đợc phép đầu t vào
những dự án lớn, không có cạnh tranh thực sự nên cũng không có rủi ro. Tất cả
những hạn chế này đã triệt tiêu mọi điều kiện khách quan cho sự ra đời của các
công ty.
Tuy nhiên, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã đề ra đờng lối
mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng,
có sự quản lý của Nhà nớc, nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty ra đời.
Ngày 21-12-1990, Quốc hội Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã


thông qua Luật công ty, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự ra đời và phát triển của
hai loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Và tiếp đến là Luật Doanh nghiệp 1999 điểm sáng mới giúp hoàn thiện hơn
nữa môi trờng pháp lý, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự ra đời và phát triển của
một loại hình công ty hoàn toàn mới ở Việt Nam đó là công ty hợp danh.
1.2. Đặc điểm các công ty ở Việt Nam trớc khi ban hành Luật Doanh nghiệp.
Trớc khi Luật Doanh nghiệp đợc ban hành, các công ty ở Việt Nam có đặc
điểm nh sau:
Thứ nhất, công ty phải do hai hay nhiều thành viên góp vốn thành lập.
Đặc điểm này xuất phất từ quan niệm truyền thống về công ty là công ty phải có
sự liên kết giữa hai hay nhiều chủ thể. Đặc điểm này cũng chỉ rõ công ty hoàn
toàn khác với các doanh nghiệp một chủ nh doanh nghiệp Nhà nớc, doanh
nghiệp t nhân đồng thời chỉ rõ bản chất pháp lí của công ty là sự liên kết giữa
các thành viên bằng việc cùng nhau góp vốn thành lập.
Thứ hai, về chế độ sở hữu tài sản của các thành viên. Vì công ty đợc thành
lập dựa trên sự góp vốn của các thành viên nên tài sản của công ty là tài sản
chung của tất cả các thành viên, các thành viên công ty có quyền sở hữu một
phần tài sản trong khối tài sản chung của công ty tơng ứng với phần vốn mình
đã góp và phần vốn này có quyền chuyển nhợng, dới đặc điểm này giúp ta phân
biệt với doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp tập thể và doanh nghiệp t nhân.
Thứ ba, tính chịu trách nhiệm hữu hạn của các thành viên công ty. Nh vậy
khi xảy ra vấn đề chịu trách nhiệm tài sản thì trách nhiệm lớn nhất của các thành
viên công ty chỉ giới hạn số vốn đã góp vào công ty. Khác với công ty, doanh
nghiệp t nhân không có sự tách bạch giữa tài sản cá nhân và tài sản doanh nghiệp,
nên khi xảy ra vấn đề chịu trách nhiệm tài sản doanh nghiệp t nhân phải lấy toàn
bộ tài sản cá nhân của mình để hoàn thành nghĩa vụ chi trả.
2. Thực trạng hệ thống pháp luật ở Việt Nam về công ty.
Việc thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể công ty ở Việt Nam kể từ khi đất
nớc thực sự đi vào công cuộc đổi mới đợc điều chỉnh bởi Luật công ty ban hành
năm 1990 cùng với một số văn bản và một số quy định liên quan nh Nghị định

222- HĐBT, ngày 23 tháng 7 năm 1991....
Nhìn chung Luật công ty ban hành 1999 và đợc sửa đổi năm 1994 đã phần
nào đáp ứng đợc nhu cầu của các nhà kinh doanh và nhu cầu thực tiễn. Các văn
bản này thực sự đã thể chế hoá kịp thời đờng lối phát triển kinh tế do Đảng và Nhà
nớc ta khởi xớng, ghi nhận những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động công ty trong
nền kinh tế thị trờng. Bên cạnh đó các nhà kinh doanh đã mạnh dạn bỏ vốn đa vào
kinh doanh đem lại lợi ích không chỉ cho cá nhân mà còn cho xã hội. Sự xuất hiện
và phát triển của các công ty Trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trong những
năm vừa qua cho thấy rõ ràng các văn bản luật về công ty hiện hành là thực sự tạo
đợc môi trờng pháp lý lành mạnh cho hoạt động của công ty.
Tuy nhiên, trớc yêu cầu của công cuộc đổi mới cùng với sự phát triển của điều
kiện kinh tế xã hội và pháp lý, hệ thống các văn bản pháp luật về công ty đã bắt
đầu bộc lộ điểm hạn chế, đặc biệt là những quy định hành chính phiền hà, kém
hiệu quả và nhiều tình huống phát sinh trong thực tế không có những quy định
pháp luật điều chỉnh. Để tiếp tục hoàn thiện môi trờng pháp lý để phát huy nội lực
phát triển kinh tế và từng bớc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Nhà nớc ta tiến
hành sửa đổi các văn bản quy định hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hoạt
động của công ty nói riêng.
Ngày 12-6-1999, Quốc hội khoá IX, kì họp thứ năm đã thông qua Luật Doanh
nghiệp. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2000, thay thế cho cho Luật
công ty và Luật doanh nghiệp t nhân và Luật sửa đổi một số điều của hai luật này.
Luật doanh nghiệp đợc ban hành với mục tiêu cải thiện hơn nữa môi trờng pháp lý
cho doanh nghiệp để huy động nội lực thúc đẩy và phát triển hơn nữa tiềm năng
của khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hớng đảm bảo
quyền tự do kinh doanh, tạo môi trờng thuận lợi cho đầu t kinh doanh, tạo bộ
khung pháp lý đồng bộ và thống nhất, tiến tới hình thành một một luật thống nhất
về doanh nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của các nhà đầu t, phù hợp với
mức phát triển cao hơn và đa dạng hơn của hoạt động kinh doanh cũng nh xu hớng
hội nhập , đồng thời tăng cờng hiệu lực giám sát và kiểm soát của Nhà nớc đối với
hoạt động kinh doanh.

Luật Doanh nghiệp 1999 với nhiều quy định mới, đầy đủ, chi tiết và chặt chẽ
về việc thành lập , các loại hình công ty, chuyển đổi hình thức và giải thể công ty,
chắc chắn sẽ tăng cờng hiệu quả hoạt động cho công ty ở Việt Nam
3. Sự cần thiết ban hành Luật Doanh nghiệp 1999.
Luật Doanh nghiệp 1999 đợc ban hành trên cơ sở sửa đổi, bổ sung một cách
cơ bản và toàn diện các quy định của Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân và
hợp nhất hai luật này thành một đạo luật chung nhằm tạo khuôn khổ pháp lý điều
chỉnh chung hoạt động chung của hầu hết các Luật Doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Sau hơn 10 năm đổi mới, trình độ phát triển về kinh tế - xã hội ở nớc ta đã
đạt đợc mức cao hơn đáng kể so với trớc đây. Khung pháp lý và thể chế quản lý
nhà nớc đã từng bớc phát triển và đang trong quá trình hoàn hiện. Chính sự phát
triển đó đã tạo ra ba lý do chủ yếu thúc đẩy việc ban hành Luật Doanh nghiệp trên
cơ sở hợp nhất Luật công ty ( sửa đổi ) và Luật doanh nghiệp t nhân ( sửa đổi ).
Một là, Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định nớc ta đã chuyển
sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, Nghị quyết Đại hội lần
thứ VIII của Đảng đã chủ trơng:
Luôn luôn nêu cao phơng châm dựa vào nguồn lực trong nớc là chính, đi đôi
với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, động viên mọi ngời, mọi nhà, mọi cấp,
mọi ngành cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dành vốn cho đầu t
phát triển.
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Tiếp tục hoàn thiện môi trờng kinh doanh theo pháp luật là một trong những
giải pháp để thực hiện chủ trơng nói trên.Về lĩnh vực này, Nghị quyết hội nghị lần
thứ IV Ban chấp hành Trung Ương khoá VIII đã chỉ rõ: Sửa đổi, bổ sung các văn
bản pháp quy về loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể, xây dựng luật
thống nhất áp dụng cho các loại chủ thể kinh doanh

Hai là, trong hơn 10 năm qua, khung pháp lý nói chung và khung pháp lý về
doanh nghiệp nói riêng đã không ngừng đợc hoàn thiện và phát triển thêm. Luật
dân sự, Luật Thơng mại, Luật khuyến khích đầu t trong nớc, Luật Doanh nghiệp
Nhà nớc, Luật Hợp tác xã... đã đợc ban hành. Luật về đầu t nớc ngoài cũng đợc bổ
sung, sửa đổi theo hớng từng bớc thu hẹp sự khác sự, tiến tới hình thành một khung
pháp lý bình đẳng đối với doanh nghiệp trong nớc và doanh nghiệp có vốn đầu t n-
ớc ngoài. Điều này cũng phù hợp với các cam kết quốc tế của nớc ta khi tham gia
ASEAN, AFTA, chơng trình AIA, AICO, APEC, ký kết hiệp định Thơng mại với
Hoa Kỳ về đối xử quốc gia bình đẳng, công khai, minh bạch và đang đàm phán để
ra nhập WTO.
Vì vậy một số quy định trong Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân hiện
hành đã không còn tơng thích với nội dung tơng ứng của một số luật khác có liên
quan, đặc biệt là Luật khuyến khích đầu t trong nớc, Luật dân sự, Luật Thơng mại.
Điều đó đang góp phần tạo ra sự không nhất quán trong giải thích và thi hành luật,
hạn chế hiệu lực của các quy định pháp luật có liên quan.
Ba là, sau 10 năm đổi mới, nền kinh tế nớc ta đã có sự phát triển nhất định và
đạt đợc mức tăng trởng cao hơn so với mức của những năm đầu thập kỷ 90 này. Số
lợng doanh nghiệp tham gia thị trờng đã tăng lên đáng kể, cơ chế thị trờng đã hoạt
động với quy mô và cờng độ lớn hơn, mức độ mở cửa của nền kinh tế nớc ta với
bên ngoài cũng đã tăng lên. Do đó, số lợng giao dịch, loại giao dịch, quy mô giao
dịch kinh doanh tăng lên gấp nhiều lần, loại hình hoạt động kinh doanh và tính
chất của các loại giao dịch cũng đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Trong khi đó, Luật
công ty và Luật doanh nghiệp t nhân đợc ban hành trong những năm đầu của thời
kỳ đổi mới, khi chúng ta cha hiểu biết nhiều và cha có kinh nghiệm thực tế về kinh
tế thị trờng. Vì vậy, một số nội dung của hai luật nói trên , đặc biệt là Luật công ty
đã không còn phù hợp với mức độ phát triển mới và thực tế đã thay đổi.
Những thiếu sót và hạn chế của Luật công ty và Luật doanh nghiệp t nhân
hiện hành đã góp phần làm cho khung pháp lý của nớc ta cha tạo điều kiện phát
huy tối đa nội lực cho phát triển kinh tế đất nớc. Những thiếu sót và hạn chế này
thực sự đã làm giảm tính linh hoạt của các nhà đầu t phù hợp với khả năng và điều

kiện của mình. Đây cũng chính là nguyên nhân làm giảm hiệu lực quản lý Nhà nớc
đối với doanh nghiệp.
Tóm lại, việc ban hành Luật Doanh nghiệp với phạm vi điều chỉnh đợc mở
rộng, nội dung đầy đủ linh hoạt, bao quát hơn, phù hợp với yêu cầu tăng cờng quản
lý Nhà nớc, yêu cầu đa dạng của các nhà kinh doanh và xu thế hội nhập và thúc
đẩy thêm việc huy động nội lực và sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
I. Những nội dung cơ bản của Luật Doanh nghiệp 1999.
Ngày 26/6/1999, Chủ tịch nớc đã ký lệnh số 51/CTN công bố Luật Doanh
nghiệp đã đợc Quốc hội khoá X, tại kỳ họp thứ V thông qua ngày 12/6/1999, Luật
này có hiệu lực từ ngày 01/01/2000 và thay thế Luật công ty và Luật Doanh nghiệp
t nhân ngày 12/1990.
Luật Doanh nghiệp gồm 10 chơng, 124 Điều với nội dung tơng đối hoàn
chỉnh và chi tiết. Bổ sung nhiều nội dung cơ bản mà hai luật nói trên cha quy định.
So với hai luật trớc Luật Doanh nghiệp có nhiều điểm mới, thể hiện qua nhiều nội
dung chủ yếu sau:
1. Phạm vi điều chỉnh
Phạm vi áp dụng của Luật Doanh nghiệp đợc mở rộng bao gồm cả Doanh
nghiệp Nhà nớc sau khi cổ phần hoá, kể cả trờng hợp Nhà nớc có cổ phần chi phối
tại doanh nghiệp, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau
khi chuyển đổi thành công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ trớc
đến nay các doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cha rõ hoạt
động theo luật nào.
2. Đối tợng đợc thành lập, góp vốn và quản lý doanh nghiệp
Từ một số rất ít các đối tợng quy định tại Điều 9, Điều10, hầu nh tất cả
các cá nhân, tổ chức đều đợc quyền góp vốn vào doanh nghiệp cũng nh quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp. Điều này tạo sự thống nhất với các luật hiện
hành có liên quan đến vấn đề này nh: Bộ Luật dân sự, Luật khuyến khích đầu t
trong nớc, đồng thời góp phần huy động tối đa mọi nguồn lực hiện có trong xã
hội vào phát triển sản xuất kinh doanh.
3. Các loại hình doanh nghiệp


Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và dân c bỏ vốn đầu t để kinh doanh
hoặc mở rộng quy mô, ngành nghề kinh doanh tạo điều kiện cho các nhà đầu t lựa
chọn loại hình kinh doanh phù hợp với điều kiện và lợi ích của họ, Luật Doanh
nghiệp bổ sung hai loại hình doanh nghiệp mới là loại hình công ty hợp danh và
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Luật mới này còn góp phần làm tăng
hiệu lực quản lý của Nhà nớc đối với doanh nghiệp, nhất là các loại hình doanh
nghiệp trớc đây cha có luật điều chỉnh.
4. Quyền và nghĩa vụ của ngời đầu t
Luật Doanh nghiệp quy định cụ thể và đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của
ngời đầu t. Luật Doanh nghiệp đa ra các quy định giúp các nhà đầu t thiết lập cơ
chế vốn linh hoạt đa dạng, qua đó các nhà đầu t có thể cùng nhau thoả thuận và lựa
chọn cách thức góp vốn phù hợp với điều kiện và lợi ích của họ. Bên cạnh đó, Luật
Doanh nghiệp cụ thể cơ chế và cách thức để ngời góp vốn có thể tham gia vào việc
quyết định các vấn đề quản lí doanh nghiệp, giám sát việc quản lý doanh nghiệp.
Do vậy, quyền tham gia qyuết định và giám sát của nhà đầu t với việc quản lý, kinh
doanh ở doanh nghiệp đợc đảm bảo, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu t ở doanh
nghiệp đợc bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Đồng thời bảo vệ đợc quyền, lợi ích hợp
pháp của chủ nợ.
5. Cơ cấu tổ chức và quản lý
Với chủ chơng coi việc tổ chức quản lý là công việc nội bộ của công ty,
Luật chỉ đa ra các khung để các nhà đầu t tự lựa chọn và áp dụng dựa trên tính
chất và địa vị pháp lý của doanh nghiệp mình. Luật Doanh nghiệp đa ra các quy
định cụ thể về thẩm quyền triệu tập cũng nh điều kiện và thể thức tiến hành họp
Hội đồng thành viên, Đại hội đồng, nguyên tắc thông qua quyết định của cơ quan
này. Lần đầu tiên Luật Doanh nghiệp đa ra chế định về kiểm soát các giao dịch
lớn. Đây là quy định tạo điều kiện xây dựng một phơng thức quản lý minh bạch, là
cơ sở pháp lý để các cổ đông thiểu số giám sát và thực hiện các quyền nhằm bảo
vệ lợi ích pháp lý của họ.
Tổ chức lại doanh nghiệp bao gồm: chia tách, hợp nhất, sát nhập và chuyển

đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp là một nội dung hoàn toàn mới. Luật
Doanh nghiệp có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và cách thức thực hiện, trong
đó chú ý tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời lao động, chủ nợ, ngời
đầu t, đặc biệt là ngời đầu t thiểu số và những bên có liên quan khác trong quá
trình chia tách, hợp nhất, sát nhập và chuyển đổi doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở
pháp lý quan trọng giúp các nhà đầu t phân bổ rủi ro một cách hợp lý, tăng độ an
toàn và bền vững trong kinh doanh.
6. Thủ tục thành lập và quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp
Về thủ tục thành lập doanh nghiệp, các quy định trong Luật Doanh nghiệp
đơn giản hơn rất nhiều so với Luật công ty, Luật doanh nghiệp t nhân trớc đó. Cụ
thể là Luật Doanh nghiệp đã bỏ chế độ xin giấy phép thành lập, chỉ thực hiện đăng
ký kinh doanh với thủ tục và hồ sơ gọn nhẹ, đơn giản. Đây là một t tởng rất mới,
Luật Doanh nghiệp đã cụ thể hoá nguyên tắc tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật và từng bớc xoá bỏ cơ chế xin - cho đang tồn tại khá phổ biến trong
đời sống kinh tế xã hội nớc ta hiện nay.
Hơn thế, Luật Doanh nghiệp còn bỏ yêu cầu về vốn pháp định đối với việc
kinh doanh trong đại bộ phận các ngành nghề của nền kinh tế.

×