ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
Nguyễn Đệ
TỔ CHỨC XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI HOA Ở NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
Nguyễn Đệ
TỔ CHỨC XÃ HỘI
CỦA NGƯỜI HOA Ở NAM BỘ
Chuyên ngành: Dân Tộc học
Mã số: 5.03.10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS-TS. Phan Xuân Biên
2. TS. Nguyễn Duy Bính
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
MỤC LỤC
Trang
Dẫn luận
01
Chương một: Một số vấn đề về lý thuyết và người Hoa ở Nam Bộ
22
I. Cơ sở lý luận và cách tiếp cận
22
II. Khái quát về người Hoa ở Nam Bộ
31
2.1. Sự di dân và phân bố cư trú
31
2.2. Những nét chính về hoạt động kinh tế
46
III. Văn hóa Hoa ở Nam Bộ
57
Chương hai: Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ trước 1975
65
I. Tổ chức làng (xã) Minh Hương, Thanh Hà
65
II. Tổ chức đồng hương
72
2.1. Bang
72
2.2. Hội quán
83
III. Hội
95
3.1. Hội Họ (Hội Tông thân)
3.2. Hội nghề nghiệp
95
100
Chương ba: Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ
từ năm 1975 đến nay
115
I. Vò trí của người Hoa trong xã hội mới
115
II. Sự kế tục của những hình thức liên kết truyền thống
121
2.1. Tổ chức đồng hương
122
2.2. Hội họ (Hội Tông thân)
126
2.3. Hội nghề nghiệp
132
2.4. Tổ chức liên kết các hội đoàn người Hoa
135
2.5. Tổ chức Bảo trợ
140
III. Sự vận hành của tổ chức xã hội người Hoa
143
3.1. Hoạt động trong nội bộ Hội
145
3.2. Hoạt động xã hội
151
Kết luận
160
Tài liệu tham khảo
168
Phụ lục
185
Phụ lục 1: Một số tổ chức xã hội của người Hoa ở Tp.HCM
186
Phụ lục 2: Điều lệ của một số tổ chức xã hội người Hoa
192
Phụ lục 3: Một số văn bản của chính quyền miền Nam
210
trước 1975
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Quá trình đònh cư của người Hoa ở Việt Nam, Nam Bộ nói riêng là
quá trình hội nhập về kinh tế, văn hóa, chính trò, xã hội vào Việt Nam.
Trong quá trình ấy, tùy theo mục đích, nhu cầu… mà trước hết là việc đảm
bảo cho sự sống, phát huy tinh thần đoàn kết tương trợ, giúp nhau ổn đònh
cuộc sống và phát triển trên vùng đất Nam Bộ, những di dân Hoa đã liên
kết lại thành những tập hợp người dựa trên những mối quan hệ nhất đònh
với tên gọi, qui chế hoạt động riêng, đó là những tổ chức xã hội, thường
được gọi chung là hội đoàn.
Tổ chức xã hội của người Hoa là một yếu tố phản ánh khá rõ nét
đặc trưng văn hóa tộc người. Bởi trên thực tế tổ chức xã hội của họ có
mối quan hệ khăng khít với mọi hoạt động trong đời sống như kinh tế,
văn hóa, giáo dục, đạo đức đến tinh thần, ý thức cộng đồng. Nói cách
khác, đó là các tổ chức qui tụ những người gắn bó với nhau từ tâm lý, tập
quán, truyền thống, lối sống đến sinh hoạt xã hội của những di dân người
Hoa.
Tổ chức xã hội của người Hoa vừa có tính khép kín nhằm bảo tồn
văn hóa truyền thống tộc người vừa có tính mở để giao lưu và hội nhập.
Những hình thức liên kết cộng đồng hiện diện trong mọi mặt đời sống xã
hội của người Hoa. Nó giúp giải quyết các nhu cầu, đồng thời khơi dậy
tính tích cực, tinh thần cộng đồng cao trong sinh hoạt xã hội của mỗi
thành viên. Thông qua tổ chức xã hội, người Hoa thể hiện tính cách, sức
mạnh của cộng đồng, thiết lập và điều hòa các mối quan hệ xã hội cũng
như cơ chế quản lý xã hội. Đó là sự quản lý không dựa trên lãnh thổ (đơn
vò hành chính) mà thông qua các mối liên kết xã hội. Do vậy, tổ chức xã
hội tộc người là một đối tượng của dân tộc học, phản ảnh quá trình tộc
người của người Hoa trên đất Nam Bộ.
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Hoa
ở Việt Nam, Nam Bộ nói riêng. Trong đó, không ít tài liệu có đề cập tới
các hình thức tổ chức xã hội cụ thể của người Hoa, nhưng không phải là
đối tượng nghiên cứu chính và chủ yếu thuộc các thời kỳ lòch sử trước
năm 1975. Cho đến nay, một công trình riêng biệt, chuyên sâu để qua đó
có cái nhìn một cách toàn diện, hệ thống, có thể làm rõ tính chất, vai trò
của tổ chức xã hội người Hoa trong đời sống xã hội. Qua làn cơ sở khoa
học và thực tiễn giúp chính quyền, các cơ quan, ban ngành chức năng
trong việc hoạch đònh chủ trương, chính sách nhằn bảo tồn văn hóa truyền
thống tộc ngøi và phát huy hiệu quả xã hội của các tổ chức xã hội người
Hoa, nhất là trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa được thực hiện. Vì vậy,
nghiên cứu tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ là việc làm có ý
nghóa thiết thực, góp phần làm sáng tỏ đặc trưng của văn hóa tộc người
Hoa, là cơ sở khoa học và thực tiễn trong bảo tồn những giá trò văn hóa
truyền thống và yêu cầu của tiến bộ xã hội.
Với những lý do, mục đích như đã nêu, chúng tôi chọn vấn đề tổ
chức xã hội của người Hoa để nghiên cứu và làm luận án tiến só với đề
tài Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ.
2. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghóa khoa học
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống tổ chức xã hội của người
Hoa giúp làm sáng tỏ về cấu trúc, thiết chế xã hội của một tộc người,
hiểu được những đóng góp của người Hoa cho xã hội và văn hóa Việt
Nam nói chung, văn hóa vùng Nam Bộ nói riêng. Mặt khác, luận án còn
góp phần làm phong phú những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa
tộc người và thiết chế xã hội tộc người ở Việt Nam.
2.2. Ý nghóa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở khoa học và thực tiễn
giúp chính quyền, cơ quan chức năng ở các đòa phương có đông người
Hoa sinh sống trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách nói chung,
trong đó có việc bảo tồn và phát huy vốn văn hóa dân tộc Hoa – một yếu
tố trong nền văn hóa Việt Nam nói chung, của vùng văn hóa Nam Bộ nói
riêng.
3. Lòch sử nghiên cứu vấn đề
Tính đến nay, đã có nhiều công trình viết về người Hoa ở Việt
Nam, Nam Bộ của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Nhìn chung,
các tác phẩm đề cập nhiều về các vấn đề: lòch sử di cư của người Hoa
vào Việt Nam nói chung, đến Nam Bộ nói riêng. Các lónh vực sinh hoạt
kinh tế, thương mại; chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam,
của chính quyền thực dân Pháp, chính quyền Sài Gòn đối với người Hoa;
đời sống sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội… được các tác giả
trong và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, riêng về tổ
chức xã hội của người Hoa, chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
biệt nào, chỉ có một số công trình đề cập một cách khái quát trong các
thời kỳ trước năm 1975 với hai hình thức liên kết chủ yếu là Bang và Hội.
Như vậy, công trình nghiên cứu về người Hoa nói chung đã được công bố
tính đến nay là không ít, nhưng ở đây chúng tôi không thể nêu tất cả
những tư liệu về người Hoa mà chúng tôi đã tiếp cận được trong quá trình
nghiên cứu làm luận án mà chỉ điểm lại những công trình mà nội dung có
liên quan đến đề tài luận án.
Từ thời Nguyễn, đã có những tư liệu đề cập đến người Hoa ở Việt
Nam và Nam Bộ nói riêng về nhiều khiá cạnh khác nhau. Đó là những ấn
phẩm của Quốc sử quán triều Nguyễn như Đại Nam liệt truyện [132,133],
Đại Nam thực lục [134,135]…; của cá nhân như Phủ biên tạp lục của Lê
Qúi Đôn [54], Gia Đònh thành thông chí của Trònh Hoài Đức [55,56,57];
v.v… Tuy nhiên, đó không phải là những công trình chuyên khảo hoặc
nghiên cứu, trình bày sâu về những hình thức liên kết xã hội của người
Hoa mà chỉ ghi lại những sự kiện, hiện tượng xảy ra dưới các đời chúa –
vua Nguyễn, trong đó có một số liên quan đến người Hoa.
Trước năm 1975, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã
công bố những công trình nghiên cứu về người Hoa của mình. Có thể
điểm lại một số tác phẩm:
Người Hoa ở miền Nam Việt Nam của Tsai Maw Kuey [150]. Nội
dung tác phẩm là khá toàn diện về đời sống xã hội của người Hoa khi đề
cập đến lòch sử di cư, sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội của người Hoa ở
miền Nam. Trong đó, tác giả trình bày khá kỹ hoạt động kinh tế nhằm
qua đó làm rõ vò trí về kinh tế của người Hoa trong xã hội. Với các tổ
chức xã hội, tác giả cũng dành một phần đề cập về sự ra đời, hoạt động
của 5 nhóm cộng đồng nói các ngôn ngữ: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc
Kiến, Hẹ (Hakka), Hải Nam qui tụ lại trong các bang có cùng tên gọi; các
hội thân tộc, hội ái hữu và một số hiệp hội nghề nghiệp.
Tác giả Khuông Việt với loạt bài Người Tàu ở Nam Kỳ và Lược
khảo chế độ cai trò người Minh Hương ở Nam Kỳ công bố trên tạp chí Đại
Việt [162, 163], không chú trọng vấn đề tổ chức xã hội của người Hoa mà
tập trung vào chính sách của vua Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp
đối với người Hoa nói chung, trong đó có một số qui đònh liên quan đến
bang, hội của người Hoa nói riêng.
Với loạt bài Người Hoa kiều tại Việt Nam trên tạp chí Văn hóa
Nguyệt san [44], tác giả Tân Việt Điểu đã giới thiệu khái quát về quá
trình hình thành cộng đồng cư dân Hoa, tổ chức xã hội của người Hoa ở
Việt Nam, chủ yếu là các bang với chế độ bang trưởng.
Tác giả Cheng Chung Ho (Trần Kinh Hòa) với Mấy điều nhận xét
về Minh Hương xã và các cổ tích tại Hội An và bài Làng Minh Hương và
phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên trên tạp chí Đại học [72], tạp chí
Việt Nam Khảo cổ Tập san [71] đã cho thấy những nét cơ bản về quá
trình hình thành, đặc điểm của hình thức tổ chức, thiết chế xã hội đầu tiên
của người Hoa ở miền Nam, cung cấp những kiến thức cơ bản để tìm hiểu
về làng Minh Hương, Thanh Hà ở Nam Bộ.
Loạt bài Lược khảo về vấn đề Hoa kiều tại Đông Nam Á của tác giả
Trần Văn Đónh, như: Hoa kiều tại Indonêsia [45], Hoa kiều tại Nam
Dương [46], Hoa kiều tại Mã-Lai [47], Hoa kiều tại Thái Lan [48], Hoa
kiều tại Phi-luật-tân [49], Hoa kiều tại Miến Điện và Đông Dương [50],
v.v… trên tạp chí Nghiên cứu Hành chánh và Quê Hương, tuy không đề
cập về tổ chức xã hội của người Hoa một cách cụ thể, nhưng là nguồn tư
liệu giúp tác giả luận án có cái nhìn tổng quan về người Hoa trong khu
vực khi tìm hiểu về người Hoa ở Nam Bộ – Việt Nam trong mối tương
quan chung của người Hoa với những quốc gia khác ở Đông Nam Á.
Một số luận văn của học viên trường Quốc gia Hành chánh ở Sài
Gòn trước 1975 tuy không đề cập nhiều đến tổ chức xã hội người Hoa,
nhưng cũng là nguồn tài liệu giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về đời sống sinh
hoạt văn hóa – xã hội của người Hoa ở miền Nam trước năm 1975, như:
Sự đóng góp của người Việt gốc Hoa trong sinh hoạt xã hội Việt Nam của
Trần Thanh Long [107], Nghiệp đoàn Việt Nam của Trầm Hữu Quân
[131], Người Việt gốc Hoa và kinh tế Việt Nam của Nguyễn Văn Sang
[137], Vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam của Lưu Trường Khương [99],…
Từ khi đất nước thống nhất (1975) đến nay, hoạt động nghiên cứu
về các dân tộc ở Việt Nam nói chung được chú trọng, theo xu hướng ngày
càng chuyên sâu hóa. Riêng với tộc người Hoa, liên quan đến vấn đề tổ
chức xã hội, có thể điểm lại những công trình nghiên cứu của các tác giả:
Công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học do Phan An chủ
biên: Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh [2] đề cập về quá trình hình
thành, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí của một số cơ sở tín
ngưỡng cộng đồng, trong đó có một số ngôi chùa (Hội quán) do người
Hoa xây dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Châu Hải trong ấn phẩm Các nhóm cộng đồng người Hoa ở
Việt Nam [64] đã giới thiệu những nét chính về quá trình di cư của người
Hoa đến Việt Nam; các hình thức liên kết; sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã
hội của người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á. Có thể nói, tác phẩm đã
phác họa cho người đọc một bức tranh về người Hoa trên diện rộng: Việt
Nam và Đông Nam Á mà qua đó có thể nhận thấy sự gắn kết của người
Hoa ở Việt Nam qua những hình thức tổ chức: làng xã của người Minh
Hương, bang và hội mà cơ bản là 5 bang Quảng Đông, Triều Châu, Phúc
Kiến, Hẹ (Hakka), Hải Nam và hội thân tộc. Tác giả có những phân tích,
đánh giá nhằm làm rõ vai trò của người Hoa trong đời sống sinh hoạt kinh
tế, văn hóa, xã hội. Qua đó cho thấy những nét cơ bản về tính chất, đặc
điểm trong liên kết của người Hoa ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Trần Khánh, tác giả có khá nhiều công trình nghiên cứu về người
Hoa ở Đông Nam Á và Việt Nam, nhưng phần nhiều lấy hoạt động kinh
tế của người Hoa làm đối tượng nghiên cứu chính và qua đó đề cập một
cách khái lược về các hình thức liên kết của người Hoa trong lónh vực
kinh tế – xã hội trước đây, như: Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các
nước Đông Nam Á [92], Tìm hiểu tổ chức xã hội và nghiệp đoàn truyền
thống của người Hoa ở Việt Nam trong lòch sử [96], Người Hoa trong xã
hội Việt Nam thời Pháp thuộc và dưới chế độ Sài Gòn [97],…
Công trình Người Hoa tại Việt Nam của Nguyễn Văn Huy [91] đề
cập đến rất nhiều vấn đề, trong đó những vấn đề cơ bản như: nhập cư,
quốc tòch, dân số, chính sách đối với người Hoa của chính quyền qua các
thời kỳ, vò trí của người Hoa trong nền kinh tế Việt Nam. Tổ chức xã hội
của người Hoa chỉ được đề cập một cách khái lược trong phần Phụ lục
(Phụ lục 4) – Một số số liệu về người Hoa trước năm 1975, với 2 loại hình
là bang và hội. Về Bang, tác giả giới thiệu những nét chính, thế mạnh
trong hoạt động kinh tế của mỗi Bang trong 5 bang ngôn ngữ của người
Hoa ở Việt Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hẹ (Hakka) và
Hải Nam. Về hội, tác giả chỉ điểm qua về hội thân tộc, hội ái hữu và một
số tổ chức trong lónh vực kinh tế.
Tác phẩm Xã hội người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh sau năm
1975 – Tiềm năng và phát triển của tác giả Mạc Đường [59], dù không đề
cập một cách cụ thể về cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, lòch sử ra
đời,… của tổ chức xã hội người Hoa, nhưng tác giả đã cung cấp cho người
đọc nhiều kiến thức cơ bản về xã hội người Hoa khi đi sâu phân tích
những biến đổi xã hội sau năm 1975 ở vùng người Hoa, sự hình thành và
phát triển ý thức công dân của họ,… Do vậy, đây là nguồn tư liệu giá trò
khi tìm hiểu về tổ chức xã hội của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh
và cả ở Nam Bộ.
Ấn phẩm Thương nhân Trung Hoa họ là ai? của hai tác giả Vương
Triệu Tường và Lưu Văn Trí [156], do Cao Tự Thanh dòch đã cung cấp
cho độc giả những kiến thức khá sâu rộng về nhiều mặt của tầng lớp
thương nhân và nền văn minh thương nghiệp Trung Hoa thời phong kiến,
như hoạt động kinh doanh, đặc điểm, thế giới tinh thần và sinh hoạt văn
hóa, tổ chức xã hội và hoạt động xã hội,… của thương nhân. Tuy công
trình không phải là chuyên khảo về người Hoa ở Việt Nam hay Nam Bộ
nói chung, về tổ chức xã hội của người Hoa nói riêng, nhưng ít nhiều đề
cập đến một số hình thức liên kết của thương giới người Hoa trước đây,
như thương bang, hội quán. Do vậy, đây là một nguồn tư liệu cung cấp
cho người đọc những hiểu biết cơ bản về nguồn gốc ra đời, chức năng của
hội quán, công sở của thương giới người Trung Hoa trước đây, là cơ sở để
tìm hiểu về hội quán, công sở của người Hoa ở Việt Nam, Nam Bộ.
Luận cứ khoa học cho việc xác đònh chính sách đối với cộng đồng
người Khơme và người Hoa ở Việt Nam là một đề tài khoa học công nghệ
cấp Nhà nước do Phan Xuân Biên làm chủ nhiệm [22] là một nguồn tư
liệu tham khảo rất giá trò trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận án.
Tuy đề tài không đi sâu nghiên cứu mà chỉ điểm qua một số tổ chức xã
hội cơ bản của người Hoa ở Việt Nam trước đây, nhưng việc đi tìm luận
cứ khoa học để làm cơ sở xác đònh chính sách là một quá trình các tác giả
tiến hành nghiên cứu toàn diện về người Hoa, trong đó có tổ chức xã hội
của họ, từ đó có những đánh giá về thực trạng kinh tế, xã hội, văn hóa
của người Hoa. Đặc biệt, đây là công trình đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề
mang tính lý luận, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam xã hội
chủ nghóa về vò trí của người Hoa trong cộng đồng dân tộc, xã hội Việt
Nam.
Trong luận án Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối
với người Hoa ở quận 5 – Thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) [51], tác
giả Ngô Quang Đònh đã trình bày khá chi tiết về chính sách của Đảng đối
với người Hoa trong khoảng thời gian 20 năm từ 1975 – 1995. Tuy luận
án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở đòa bàn quận 5 – Thành phố Hồ Chí
Minh, nhưng chính sách đối với người Hoa của Đảng ta là thống nhất trên
toàn quốc và người Hoa ở quận 5 là một bộ phận. Để làm rõ được quá
trình thực hiện chính sách của Đảng đối với người Hoa ở quận 5, tác giả
đã tiến hành nghiên cứu về chính sách của Đảng đối với người Hoa Việt
Nam nói chung và việc triển khai thực hiện ở quận 5 nói riêng qua các
thời kỳ cụ thể. Trên cơ sở đó rút ra những nhận xét và kiến nghò. Do vậy,
đây là nguồn tài liệu có tính khoa học và thực tiễn, làm sáng tỏ nhiều vấn
đề về quan điểm của Đảng ta đối với đồng bào Hoa, là tài liệu tham khảo
quan trọng đối với chúng tôi trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận án
của mình.
Tác phẩm Bia chữ Hán trong Hội quán người Hoa tại Thành phố Hồ
Chí Minh do Litana và Nguyễn Cẩm Thúy chủ biên [103], tập trung
nghiên cứu nội dung của các văn bia chữ Hán còn lưu giữ ở các Hội quán
người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua nội dung của các văn bia đã
cung cấp nhiều tư liệu đáng tin cậy về người Hoa nói chung, về quá trình
di dân và đònh cư trên đất Nam Bộ; một số vấn đề có liên quan đến Hội
quán như lòch sử hình thành, mối quan hệ giữa Hội quán và chùa,…
Đònh cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm
1945) do Nguyễn Cẩm Thúy chủ biên [143] đã khắc họa về những làn
sóng di cư của người Hoa vào Việt Nam, Nam Bộ; hoạt động kinh tế,
nghề nghiệp, văn hóa tín ngưỡng,… Riêng phần tổ chức xã hội của người
Hoa, tác phẩm chỉ đề cập một cách khái lược về sự ra đời, cấu trúc của
Minh Hương xã và các hình thức liên kết của người Hoa trên các lónh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng. Trong khi điểm lại những hình
thức tổ chức xã hội, gồm hệ thống Bang hình thành trên cơ sở cùng ngôn
ngữ, đòa phương và các hội hay hiệp hội kinh tế, văn hóa, chính trò, tác
phẩm cũng làm nổi lên những đặc điểm cơ bản của người Hoa trong các
mối liên kết xã hội đó. Tác giả Nguyễn Cẩm Thúy còn có một số bài viết
đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á: Làm thế nào để huy động
nguồn lực kinh tế của người Hoa cho sự phát triển bền vững của các nước
Asean [144], Người Hoa trong hợp tác kinh tế Asean – Trung Quốc [145],…
Tuy không phải là những chuyên khảo về tổ chức xã hội của người Hoa,
nhưng qua những tư liệu này có thể hiểu rõ hơn về vò trí kinh tế, đặc điểm
trong sự liên kết nhất là trên lónh vực kinh tế của người Hoa để từ đó tác
động đến đời sống sinh hoạt văn hóa – xã hội của họ.
Tác giả Trần Hồng Liên trong Văn hóa người Hoa ở Nam Bộ – Tín
ngưỡng và tôn giáo [105], khắc họa bức tranh khá sinh động về đời sống
sinh hoạt tinh thần mà cụ thể là tín ngưỡng và tôn giáo của người Hoa ở
Nam Bộ nói chung, trong đó có đề cập đến quá trình hình thành của một
số Hội quán của người Hoa ở các đòa phương thuộc Nam Bộ, như Thành
phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bạc Liêu, An Giang và Đồng Nai.
Người Hoa ở Nam Bộ của tác giả Phan An [3] là công trình tập hợp
những bài viết mà tác giả đã thực hiện trước đó cho các chương trình, đề
tài nghiên cứu khác nhau về người Hoa ở Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí
Minh. Do vậy, nội dung tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề: kinh tế, văn
hóa, xã hội, nguồn nhân lực,… của người Hoa, trong đó từ trang 41 đến 48,
tác giả nêu khái quát về hình thức tổ chức Bang và Hội của người Hoa.
Gần đây nhất, tác giả Phan An với tư cách chủ biên công trình Góp phần
tìm hiểu văn hóa người Hoa ở Nam Bộ [5] đã cung cấp cho người đọc
những hiểu biết cơ bản về nhiều khía cạnh của văn hóa tộc người Hoa ở
Nam Bộ, trong đó có phần nghiên cứu, giới thiệu về Minh Hương xã nói
chung và làng Minh Hương ở Chợ Lớn – một dạng tổ chức xã hội từ buổi
đầu của người Hoa ở Nam Bộ nói riêng.
Cùng với các ấn phẩm tiếng Việt hay tiếng nước ngoài đã được
dòch sang Việt ngữ, còn có nhiều ấn phẩm của các tác giả người nước
ngoài viết về người Hoa ở Đông Nam Á, trong đó có người Hoa ở Việt
Nam, Nam Bộ nói riêng và ít nhiều đề cập đến đời sống sinh hoạt xã hội
của họ, như:
Minority groups in the republic of Vietnam (Những nhóm tộc người
thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa) của Joann L.Schrock [170], đề cập đến tất
cả các tộc người thiểu số ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Trong đó,
tác giả trình bày khá toàn diện về người Hoa: lòch sử hình thành cộng
đồng cư dân Hoa ở Việt Nam và miền Nam nói riêng, văn hóa vật chất,
văn hóa tinh thần, hôn nhân, gia đình, thiết chế xã hội,… Tuy nhiên, là
công trình giới thiệu về tất cả các tộc người thiểu số ở miền Nam trên
nhiều khía cạnh, nên những nội dung đề cập về người Hoa nói riêng cũng
chỉ dừng lại ở mức khái quát.
Trong tác phẩm A study of oversea Chinese identity problem (Nghiên
cứu về bản sắc người Hoa hải ngoại), tác giả Huang Jian Chen [169] đề
cập đến nhiều vấn đề về đời sống sinh hoạt văn hóa – xã hội của người
Hoa, như tín ngưỡng tôn giáo, phong tục tập quán, tổ chức xã hội của
người Hoa.
Công trình Southeast Asian Chinese The Socio – Cultural dimension
(Người Hoa ở Đông Nam Á khía cạnh văn hóa – xã hội) của Leo
Suryadinata. Đây là ấn phẩm tập hợp nhiều bài viết của các tác giả người
Trung Quốc và một số nước khác viết về cộng đồng người Hoa ở Đông
Nam Á, là những nguồn tài liệu tham khảo phong phú khi tìm hiểu về
người Hoa ở khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Chúng tôi tìm hiểu một số bài viết đề cập đến quá trình hình thành phát
triển về mặt dân số, đời sống sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng cư
dân Hoa ở một số nước, như:
The Chinese in the Philippines: Continuity and change (Người Hoa ở
Philippine: Tính liên tục và biến đổi) của Teresita Ang See [173]. Với
việc đề cập đến những đặc điểm của thế hệ di dân Hoa đầu tiên và thế
hệ sinh ra lớn lên tại nước sở tại, việc dạy Hoa ngữ, hoạt động đầu tư của
người Hoa – Philippin vào Trung Quốc… tác giả đã cho thấy những yếu
tố kế thừa và thay đổi trong nhận thức, sinh hoạt xã hội của người Hoa ở
đây.
Chinese society in Brunei: A survey (Xã hội người Hoa ở Brunei:
một cuộc khảo sát) của Niew Shong Tong [172]. Từ kết quả khảo sát, với
những bảng số liệu thống kê cụ thể ở những khoảng thời gian nhất đònh,
tác giả đã phân tích những đặc điểm của sự tăng trưởng dân số (từ 1911 –
1991), sự phân bố cư trú trong cơ cấu dân số chung, hoạt động kinh tế, cơ
cấu nghề nghiệp… của người Hoa ở Brunei hay ở một đòa phương (quận
huyện) và cung cấp cho người đọc những hiểu biết cơ bản về sự hình
thành và phát triển nhất là về dân số, kinh tế của người Hoa ở đất nước
này.
Chinese clan associations in Singapore: Social change and
continuity (Các hội dòng họ người Hoa ở Singapore: biến đổi xã hội và
tính liên tục) của Cheng Lim Keak [167]. Bài viết này đã cung cấp cho
người đọc nhiều thông tin về các tổ chức hội dòng họ của người Hoa ở
Singapore, như bối cảnh ra đời, vai trò của nó trong đời sống xã hội, mối
quan hệ giữa chính quyền sở tại với tổ chức, những biến đổi của hội dòng
họ nhất là từ giữa thập niên 80 (thế kỷ XX)... Đây là nguồn tư liệu bổ ích
khi nghiên cứu về tổ chức xã hội của người Hoa ở Việt Nam, Nam Bộ nói
riêng, trong đó có các hội dòng họ.
The Chinese in Singapore: From colonial times to present (Người
Hoa ở Singapore: từ thời thuộc đòa đến nay) của Chiew Seen Kong [168].
Qua phân tích cùng những bảng số liệu cụ thể về dân số người Hoa trong
cơ cấu dân cư Singapore từ 1824 – 1990; tỷ lệ dân số của các nhóm theo
phương ngữ, chủ yếu là Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam,
Hẹ; quá trình đòa phương hóa và an cư của người Hoa; phân bố nghề
nghiệp của lực lượng lao động, lực lượng lao động người Hoa trong ngành
công nghiệp,… Tác giả đã cung cấp cho người đọc bức tranh khá toàn diện
và sinh động về sự phát triển dân số, đời sống sinh hoạt kinh tế, sự hòa
nhập của cộng đồng cư dân Hoa ở Singapore.
Ngoài những ấn phẩm đã nêu, còn có nhiều công trình nghiên cứu
khác là những sách hoặc luận án, như: Tín ngưỡng dân gian của người
Hoa ở Nam Bộ của Võ Thanh Bằng [21], Hôn nhân và gia đình của người
Hoa ở Nam Bộ của Nguyễn Duy Bính [25], Tín ngưỡng và tôn giáo người
Hoa Quảng Đông ở Tp.HCM của Nguyễn Thò Hoa Xinh [165], Người Hoa
ở Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh của Nghò Đoàn [52], Hoạt động
kinh tế của người Hoa từ Sài Gòn đến Thành phố Hồ Chí Minh của Trần
Hồi Sinh [138]…; bài viết cho các hội thảo khoa học, đăng tải trên các tạp
chí chuyên ngành về người Hoa ở Việt Nam, Nam Bộ nói chung mà
chúng tôi đã được tiếp cận nhưng không thể liệt kê hết trong khuôn khổ
một luận án. Tất cả đều là những nguồn tư liệu tham khảo giá trò giúp
chúng tôi hoàn thành luận án này.
Nhìn chung, tất cả những ấn phẩm mà chúng tôi đã được tiếp cận
cho thấy, tộc người Hoa là đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Trong khi trình bày kết quả nghiên cứu của mình ở các lónh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội,… trong mối tương quan chung, các tác giả có
những đề cập nhất đònh về các hình thức liên kết trong xã hội người Hoa,
nhưng không phải là đối tượng nghiên cứu chính. Do vậy, một công trình
có hệ thống về tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ là cần thiết,
nhằm qua đó góp phần làm sáng tỏ hơn về văn hóa tộc người của một tộc
người góp phần làm nên sắc thái riêng cho vùng văn hóa Nam Bộ nói
riêng và ở Việt Nam nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tổ chức xã hội
của người Hoa. Tuy nhiên, tổ chức xã hội là một phạm trù rất rộng, ở
người Hoa sự liên kết xuất hiện trong mọi lónh vực của đời sống xã hội,
luận án chỉ tập trung tìm hiểu một số dạng tập hợp người cơ bản của
người Hoa ở Nam Bộ. Cụ thể:
- Làng (xã) Minh Hương.
- Bang (tổ chức mang tính đồng hương – đồng phương ngữ).
- Hội (tổ chức mang tính nghề nghiệp, gia đình – họ tộc).
Trong nhiều mặt hoạt động: kinh tế, văn hóa, xã hội của các hội
đoàn từ sau năm 1975, luận án chỉ tập trung tìm hiểu mảng hoạt động xã
hội để nêu lên những chuyển biến tích cực so với các giai đoạn trước đây
của hội đoàn và qua đó là mức độ hòa nhập vào xã hội hiện tại của người
Hoa.
Về không gian, luận án tập trung nghiên cứu về tổ chức xã hội của
người Hoa ở Nam Bộ. Đây là vùng đất rộng lớn, gồm hai khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ, hiện nay được phân làm 18 tỉnh, thành phố: Bà
Ròa Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Sa Đéc,
Bạc Liêu, An Giang, Cà Mau, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng và Trà
Vinh. Trên khu vực Nam Bộ rộng lớn đó, Thành phố Hồ Chí Minh là đòa
phương có người Hoa cư trú đông nhất không chỉ so với các đòa phương
trong khu vực mà là cả nước. Đây cũng là nơi người Hoa cư trú lâu đời,
những yếu tố văn hóa tộc người cho đến hiện nay vẫn còn được bảo lưu
đậm nét. Do vậy, chúng tôi chọn Thành phố Hồ Chí Minh làm đòa bàn
nghiên cứu chính, đồng thời tiến hành khảo sát ở một số đòa phương: Bạc
Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng, Bình Dương và Đồng
Nai để có cái nhìn tổng quan về tổ chức xã hội của người Hoa.
Về thời gian, luận án tập trung tìm hiểu tổ chức xã hội của người
Hoa từ khi tổ chức làng (xã) Minh Hương, Thanh Hà được thành lập đến
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với cư dân Hoa ở Nam Bộ, sự liên kết xã hội, hình thành những tổ
chức khác nhau từ khá sớm, thực hiện những chức năng như, bảo tồn văn
hóa truyền thống tộc người, quản lý xã hội, tương thân tương ái,… Đặc
biệt, ở người Hoa, các hình thức liên kết xuất hiện trong mọi lónh vực của
đời sống xã hội và gắn bó mật thiết với con người qua các thời kỳ lòch sử.
Do đó, nghiên cứu về tổ chức xã hội của người Hoa là nghiên cứu về văn
hóa tộc người, phải dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghóa duy vật biện chứng, duy vật lòch sử và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về tổ chức quần chúng trong xã hội.
Sự ra đời, tồn tại của các tổ chức xã hội người Hoa vừa mang tính lòch sử
vừa mang tính xã hội rộng rãi, nên khi tìm hiểu về nó, nhất thiết phải đặt
nó trong các mối quan hệ nhiều chiều của xã hội ở một thời đoạn lòch sử
nhất đònh.
Mặt khác, tổ chức xã hội ra đời từ nhu cầu thực tiễn của các bộ
phận cư dân trong những bối cảnh xã hội nhất đònh, do vậy tính chất của
những tổ chức này được qui đònh bởi đònh chế của xã hội hiện hành. Do
đó, tránh đònh kiến mà phải có cái nhìn khách quan khi xem xét, đánh giá
về những mặt tích cực, những đóng góp của nó cho cộng đồng, xã hội.
Tổ chức xã hội tộc người là đối tượng của Dân tộc học, do vậy
phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp chuyên ngành Dân tộc
học. Trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án, chúng tôi đã
tiến hành thu thập, tổng hợp, phân tích các nguồn tư liệu thành văn. Đó là
những ấn phẩm của cá nhân hay tập thể, tổ chức trong và ngoài nước viết
về người Hoa nói chung, ở Việt Nam, Nam Bộ nói riêng từ trước đến nay.
Chúng tôi cũng thực hiện khảo sát ở những đòa phương thuộc Nam Bộ có
đông người Hoa để tìm hiểu về hệ thống tổ chức xã hội hiện hành của họ
về: sự ra đời, cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động,… trước đây cũng như
hiện nay. Ngoài tìm hiểu qua chính quyền, các cơ quan, ban ngành chức
năng ở các đòa phương, chúng tôi còn gặp gỡ, trao đổi với những cá nhân
hay nhóm người Hoa, đã và đang đảm nhận những chức vụ khác nhau
trong các Ban Chấp hành (Ban Quản trò) một số tổ chức, đơn vò: Hội
Tương tế người Hoa thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), Hội Tương tế
người Hoa thò xã Sóc Trăng (tỉnh Sóc Trăng), Hội Châu Quang huyện
Vónh Châu (tỉnh Sóc Trăng), Hội Tương tế người Hoa thành phố Cà Mau,
Hội Tương tế người Hoa thò xã Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu), Hội Tương tế
người Hoa thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang), Hội quán Phước Kiến
(thò xã Thủ Dầu Một – Bình Dương), Hội quán Nghóa An (chùa Ông,
Tp.HCM), Hội quán Tuệ Thành (chùa Bà, Tp.HCM), Hội quán Nhò Phủ
(chùa Ông Bổn, Tp.HCM), Hội quán Phước Kiến (Phụng Sơn tự, thành
phố Biên Hòa), Hội họ Trần (Tp.HCM), Hội họ Tạ (Tp.HCM), Hội họ Lý
(thò xã Thủ Dầu Một – Bình Dương), Hội Bảo trợ dạy môn Hoa văn
Tp.HCM, chủ đoàn lân Đoàn Thắng đường (Tp.HCM),…
Từ nguồn tư liệu thành văn và thu thập được qua khảo sát thực tiễn,
chúng tôi hệ thống, so sánh đối chiếu hệ thống tổ chức xã hội giữa các
đòa phương và giưã các thời kỳ. Ngoài ra, các phương pháp khoa học
mang tính liên ngành, như thống kê, phân tích,… cũng được sử dụng để
hoàn thành luận án này.
6. Bố cục của đề tài
Từ những nhận thức đã phân tích trên đây, luận án góp phần làm
sáng tỏ vai trò của tổ chức xã hội trong đời sống xã hội của cộng đồng cư
dân Hoa và những tác động của nó đối với xã hội nói chung. Qua đó, xác
đònh những yếu tố tích cực cần trân trọng, phát huy và những hạn chế cần
khắc phục để góp phần vào công cuộc xây dựng một xã hội “công bằng,
dân chủ, văn minh” như chủ trương chung của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Để giải quyết các vấn đề đặt ra, cấu trúc của luận án ngoài phần
Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính được
trình bày trong 03 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý thuyết và người Hoa ở Nam Bộ.
Đề cập những nét chính về cơ sở lý luận, cách tiếp cận nghiên cứu
thực hiện đề tài này. Trình bày khái lược quá trình di cư, sự phân bố cư
trú của người Hoa ở Nam Bộ, đời sống sinh hoạt kinh tế, những nét cơ
bản của văn hóa Hoa ở Nam Bộ.
Chương II: Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ trước năm
1975
Trình bày về những tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ từ thời
nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc và thời kỳ chính quyền Sài Gòn đến trước
năm 1975. Chú ý tìm hiểu sự ra đời, biến đổi, thích nghi với môi trường
xã hội của các tổ chức qua các giai đoạn.
Chương III: Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ từ 1975 đến
nay
Trình bày về những tổ chức xã hội của người Hoa từ sau ngày giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước (1975) đến nay. Phần này tập trung
vào những nội dung chính: cơ cấu tổ chức, nội dung – hình thức hoạt động
(chủ yếu là hoạt động xã hội), vai trò của các hội đoàn người Hoa trong
đời sống xã hội, những biến đổi so với thời kỳ trước 1975.
7. Những đóng góp của luận án
Từ những nguồn tư liệu thư tòch và khảo sát thực tế ở những đòa bàn
hiện có đông người Hoa sinh sống, luận án đã khái quát về lòch sử ra đời,
phát triển của những dạng tập hợp người cơ bản của người Hoa ở khu vực
Nam Bộ; đề cập đến những nội dung hoạt động chủ yếu, những yếu tố kế
thừa và biến đổi, vai trò của, ảnh hưởng nó đối với người Hoa và với xã
hội trong quá trình tồn tại của các tổ chức ở những giai đoạn lòch sử nhất
đònh của Việt Nam, Nam Bộ nói riêng.
Luận án có thể xem là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có
hệ thống về các loại hình liên kết của người Hoa ở Nam Bộ trong lòch sử
và hiện nay. Qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống về tổ chức xã hội,
góp phần vào công cuộc nghiên cứu chung, làm phong phú những vấn đề
lý luận và thực tiễn về văn hóa tộc người và thiết chế xã hội tộc người ở
Việt Nam.
Tuy luận án không đưa ra những kiến nghò cụ thể về việc bảo tồn,
phát huy những giá trò văn hóa Hoa nói chung, hay công tác quản lý, phát
huy tiềm năng của cộng đồng cư dân Hoa thông qua những tổ chức có
tính đại diện của họ, nhưng những phân tích về vai trò, chức năng, ảnh
hưởng của các tổ chức xã hội trong cộng đồng cư dân Hoa nói riêng và
với xã hội nói chung là cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc đònh hướng
bảo tồn và phát huy những giá trò văn hóa tộc người Hoa – một bộ phận
trong nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” như chủ