Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Triết học đạo đức của immanuel kant và ảnh hưởng của nó đối với triết học đức thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.95 KB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ MỸ DUNG

TRIẾT HỌC ĐẠO ĐỨC CỦA
IMMANUEL KANT VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC ĐỨC
THẾ KỶ XIX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ MỸ DUNG

TRIẾT HỌC ĐẠO ĐỨC CỦA
IMMANUEL KANT VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC ĐỨC
THẾ KỶ XIX
Chuyên ngành
Mã số

: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
: 62.22.80.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. VŨ TÌNH

TP. HỒ CHÍ MINH - 2008


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung
nêu trong luận án là trung thực và
chưa từng được ai công bố.

Tác giả luận án

Ngô Thò Mỹ Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................ 1
2. Tổng qua tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án ............................................. 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ........................... 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án .............. 13
6. Cái mới của luận án .................................................................... 13
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án ....................... 14
8. Kết cấu của luận án ..................................................................... 14
Chương 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT


TRIỂN



TƯỞNG

TRIẾT

HỌC

IMMANUEL KANT ..................................................... 16
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Immanuel Kant .................... 16
1.2. Các thời kỳ phát triển của triết học Immanuel Kant ............ 33
1.3. Vò trí của triết học đạo đức trong triết học Immanuel
Kant ...................................................................................... 50
Kết luận chương 1 ........................................................................ 56
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC ĐẠO
ĐỨC IMMANUEL KANT ............................................ 58
2.1. Cơ sở xác đònh giá trò đạo đức .............................................. 58
2.2. Mệnh lệnh tuyệt đối và những đặc trưng cơ bản của
nó .......................................................................................... 66
2.3. Đạo đức học ứng dụng .......................................................... 80
Kết luận chương 2 .......................................................................105


Chương 3: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC ĐẠO ĐỨC
IMMANUEL KANT ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC
ĐỨC THẾ KỶ XIX .....................................................107
3.1. Sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Immanuel Kant

đối với triết học Johann Gottlieb Fichte ..............................108
3.2. Sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Immanuel Kant
đối với triết học Georg Wilhelm Friedrich Hegel................124
3.3. Sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Immanuel Kant
đối với triết học Marx ..........................................................135
3.4. Sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Immanuel Kant
đối với triết học Hermann Cohen ........................................147
Kết luận chương 3 .......................................................................152

KẾT LUẬN ........................................................................................156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................161
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ ĐƯC
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .......................................175


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như Engels đã nói, một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lý luận, mà muốn phát triển năng
lực tư duy đó thì cho tới nay, không có cách nào khác hơn là nghiên cứu
toàn bộ lòch sử triết học thời trước [41, 487]. Việc nghiên cứu tư tưởng triết
học đạo đức Kant có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn về lòch sử tư tưởng
triết học nói chung và triết học cổ điển Đức nói riêng, góp phần nâng cao
năng lực tư duy lý luận.
Sự hình thành và phát triển của mỗi học thuyết triết học gắn liền với
hoàn cảnh lòch sử đã sản sinh ra nó và dòng chảy chung của lòch sử tư
tưởng văn minh nhân loại. Trong lòch sử triết học, nhất là thời kỳ trước
Marx, không có chủ nghóa duy vật nào là triệt để và cũng không có chủ

nghóa duy tâm nào lại không tìm thấy trong nó những hạt nhân tiến bộ.
Triết học Marx ra đời không chỉ chòu sự qui đònh của những điều kiện lòch
sử, kinh tế – xã hội Đức những năm 40 của thế kỷ XIX, mà còn là sự kế
thừa và phát triển những tư tưởng văn hóa tinh thần nhân loại, được đúc
kết trong các học thuyết triết học từ cổ đại đến cận đại. Vì vậy, việc
nghiên cứu lòch sử triết học trước Marx, trong đó có triết học đạo đức Kant,
là cần thiết bởi khó có thể hiểu hết giá trò và ý nghóa của triết học Marx
nói riêng và chủ nghóa Marx nói chung nếu nghiên cứu chúng trong sự tách
rời với những vấn đề trên.


2

Với việc đề cao vai trò hoạt động lý tính của con người, nghiên cứu
con người như một chủ thể hoạt động tích cực trong mối quan hệ với tự
nhiên và xã hội, triết học Kant nói chung và triết học đạo đức của ông nói
riêng, đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong lòch sử tư tưởng triết học
phương Tây. Từ đấy về sau, mọi trào lưu triết học đều ít nhiều xoay quanh
những những vấn đề mà Kant đã đặt ra.
Cách đặt vấn đề của Kant về con người và vò trí con người trong thế
giới, về tự do và phẩm giá con người, cũng như việc khẳng đònh rằng con
người là “mục đích cuối cùng của mọi mục đích” (“Endzweck aller
Zwecke”), đã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nền
triết học cổ điển Đức, khơi dậy nguồn cảm hứng cho các trào lưu triết học
phương Tây từ thế kỷ XIX đến nay như triết học Marx, chủ nghóa Kant
mới, triết học hiện sinh và một số học thuyết triết học chính trò phương Tây
hiện đại.
Tiếp tục những vấn đề mà triết học đạo đức Kant đã đặt ra, các nhà
triết học Đức thế kỷ XIX (J. G. Fichte, G. W. F. Hegel, K. Marx, F.
Engels, H. Cohen…) đã xem con người là trung tâm của mọi vấn đề triết

học, nghiên cứu con người như một chủ thể của quá trình hoạt động thực
tiễn, từ đấy hướng con người sống và hành động vì con người và tương lai
của loài người, mặc dù cách giải quyết những vấn đề trên có thể rất khác
nhau.
Việc nghiên cứu bản chất con người gắn liền với khái niệm tự do và
đời sống đạo đức, tâm linh, tình cảm, của con người trong triết học đạo đức
Kant, đã khơi dậy nguồn cảm hứng cho các nhà hiện sinh (M. Heidegger,


3

K. Jaspers, J.- P. Sartre,…) đi tìm bản chất con người trong đời sống nội tâm
của chính mình. Kế thừa Kant, các nhà triết học hiện sinh đều đề cao tự
do, xem nó là đặc trưng cơ bản làm nên phẩm giá và bản chất con người,
mặc dù khái niệm tự do được hiểu khác nhau.
Nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người của triết học đạo đức
Kant, xem con người “mọi lúc là mục đích, chứ không bao giờ chỉ là
phương tiện” đã trở thành cơ sở lập luận cho một số học thuyết triết học
chính trò hiện đại (“Một học thuyết về sự công bằng” (“A Theory of
Justice”) (1971) của J. Rawls (1921), hay “Công bằng xã hội” (“Just
Community”) của L. Kohlberg (1927 – 1987)). Kế thừa Kant, Rawls và
Kohlberg đều cho rằng công bằng chỉ có thể trở thành hiện thực khi mọi
người đều bình đẳng về quyền tự do cơ bản và giá trò của mỗi người là giá
trò của một con người.
Trong thời đại ngày nay, những tư tưởng nhân văn của triết học đạo
đức Kant vẫn còn nguyên giá trò. Việc xem con người là “mục đích của
chính mình” (“Selbstzweck”) và là “mục đích cuối cùng của mọi mục
đích”, cũng như nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người của triết học đạo
đức Kant, giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn ý nghóa của cuộc sống con người,
hướng chúng ta sống và hành động vì con người.

Đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
đònh hướng xã hội chủ nghóa, không nằm ngoài mục đích vì con người. Con
người là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực của phát triển. Phát triển
con người, về thực chất, là phát triển và hoàn thiện nhân cách. Và để phát
triển, hoàn thiện nhân cách con người thì ngoài việc giáo dục ý thức đạo


4

đức, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần
phải có một nhà nước pháp quyền với những chính sách kinh tế – xã hội cụ
thể để con người có thể sống xứng đáng với phẩm giá làm người.
Mặc dù những tư tưởng của Kant về việc xây dựng một nhà nước
pháp quyền còn nhiều hạn chế bởi thế giới quan duy tâm và sự qui đònh
của tính lòch sử thời đại, nhưng những vấn đề mà nó đặt ra về quyền và
trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân và xã hội, cũng như của xã hội
đối với mỗi người thông qua hệ thống quyền lực nhà nước, vẫn còn có
những giá trò nhất đònh đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam.
Sự khẳng đònh quyền con người (Menschenrecht) xuất phát từ quyền
tự do và phẩm giá làm người, cũng như việc cần thiết phải xây dựng nhà
nước tốt nhất ở mọi dân tộc, hướng tới một nền hòa bình vónh cửu trong
tương lai của triết học Kant là những tư tưởng mang tính nhân văn sâu sắc,
thể hiện hiện khát vọng của toàn nhân loại.
Việc nghiên cứu những tư tưởng triết học đạo đức Kant, một mặt,
giúp chúng ta hiểu biết thêm về những giá trò đạo đức mang tính nhân văn
chung của toàn nhân loại, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận, mặt
khác, còn đưa ra những gợi ý thiết thực nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm
về quyền và phẩm giá con người trong bối cảnh cuộc sống có nhiều biến
động của chúng ta hiện nay.

Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi đã
chọn: “Triết học đạo đức của Immanuel Kant và ảnh hưởng của nó đối với
triết học Đức thế kỷ XIX” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình.


5

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Triết học Kant là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và là
chủ đề của nhiều cuộc hội thảo quốc tế diễn ra hàng năm trên thế giới.
Năm 2004, kỷ niệm hai trăm năm ngày mất của Kant, hội thảo quốc tế về
triết học Kant được tổ chức tại Đức, Ý, Trung Quốc, Việt Nam, v.v…, trong
đó các bài báo cáo về triết học đạo đức của ông chiếm đa số. Tuy cùng
nghiên cứu về triết học đạo đức Kant nhưng do đứng trên thế giới quan và
lập trường tư tưởng khác nhau nên các nhà nghiên cứu đã lập luận, đưa ra
những đánh giá khác nhau về nội dung và ý nghóa của triết học đạo đức
Kant.
Ở Đức, triết học đạo đức Kant được nghiên cứu sâu rộng theo nhiều
chiều hướng khác nhau. Các nhà triết học của chủ nghóa Kant mới (mà đại
biểu là Friedrich Albert Lange, Hermann Cohen và Wilhelm Windelband)
đã chú trọng nhiều đến tư tưởng nhân văn của triết học đạo đức Kant, từ đó
đi đến kết luận rằng triết học đạo đức Kant là nền tảng lý luận của chủ
nghóa xã hội. Trong các tác phẩm “Lập luận của Kant về đạo đức học”
(“Kants Begruendung der Ethik”) (1877), Nxb. Reclam, Stuttgart, tái bản
năm 1983, và “Đạo đức học của ý chí thuần túy” (“Ethik des reinen
Willens”) (1904), Nxb. Reclam, Stuttgart, tái bản năm 1989, Cohen đã đưa
ra nhận đònh rằng sự tiến bộ của lòch sử là sự tiến bộ của những quan niệm
đạo đức và nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người trong triết học đạo
đức Kant: không bao giờ được xem con người chỉ như là phương tiện mà



6

luôn là mục đích, là tư tưởng xã hội chủ nghóa, là cương lónh đạo đức để
xây dựng chủ nghóa xã hội trong tương lai.
Trong các tác phẩm “Mệnh lệnh tuyệt đối của Kant là nguyên tắc của
hành động đúng“ (“Kants Kategorischer Imperativ als Kriterium der
Richtigkeit des Handelns) của Schnoor Christian, Nxb. Tuebingen, xuất bản
năm 1989, cũng như tác phẩm “Triết học đạo đức của Kant” (“Kants
Moralphilosophie”) của Steigleder, Klaus, Nxb. Stuttgart/Weimar, xuất
bản năm 2002; “Đặt nền móng cho siêu hình học của đạo đức. Một sự bình
luận tổng hợp” (“Grundlegung zur Metaphysik der Sitten. Ein kooperativer
Kommentar”) do Otfried Hoeffe chủ biên, Nxb. Suhrkamp, Frankfurt am
Main, xuất bản năm 2000; hay “Lập luận của Kant về triết học thực tiễn“
(“Kants Begruendung der praktischen Philosophie”) của Freudiger, Juerg,
Nxb. Bern, xuất bản năm 1993…, các nhà triết học Đức đã phân tích nội
dung cơ bản của triết học đạo đức Kant (mệnh lệnh tuyệt đối, nhân phẩm
con người, cái thiện tối cao, vấn đề hạnh phúc, tự do, tự chủ), từ đấy đưa ra
những nhận đònh về giá trò và ảnh hưởng nó đối với thời đại.
Phân tích về ảnh hưởng của triết học Kant đối với nền triết học
Phương Tây, các nhà triết học Đức nhất trí rằng, hầu hết các học thuyết
triết học cận, hiện đại đều bắt đầu từ Kant, dù đó là triết học lý luận hay
triết học thực tiễn. Có những học thuyết dùng triết học Kant làm cơ sở lý
luận cho học thuyết của mình, cũng có học thuyết dùng nó để tranh luận
hay bác bỏ những quan điểm đối lập. Những nhận đònh này được thể hiện
rõ trong tác phẩm “Immanuel Kant. Cuộc sống, tác phẩm, ảnh hưởng”
(“Immanuel Kant. Leben, Werk, Wirkung”), của Sandvoss E. R., Nxb.


7


Kohlhammer, Stuttgart, xuất bản năm 1983. Cụ thể hơn, trong tác phẩm
“Immanuel Kant”, của Otfried Hoeffe, Nxb. Muenchen, xuất bản năm
1996, Hoeffe viết: “Cho dù một triết gia được người đời sau cải tiến, phát
triển sáng tạo, hay bò ngộ nhận đến thế nào đi nữa, thì lòch sử triết học sau
Kant, về một phần cơ bản, phải được hiểu như lòch sử sự ảnh hưởng, như sự
tiếp thu và tiếp tục phát triển, như sự tái tạo, phê phán và tiếp thu chính
những tư tưởng của Kant” [87, 301 – 302].
Trong tác phẩm trên, Hoeffe đã đi sâu phân tích sự ảnh hưởng của
triết học Kant đối với triết học phương Tây cận, hiện đại và khẳng đònh
rằng triết học Kant đã tạo nên bước ngoặt thời đại. Nó chứa đựng một tiềm
lực tư duy không thể tát cạn và cho đến nay vẫn chưa thể đo lường hết
được.
Đồng ý với nhận đònh trên của Hoeffe, trong tác phẩm “Lòch sử triết
học” (“Geschichte der Philosophie”), tập 2, Nxb. Herder, tái bản năm 1991
tại Freiburg, Johannes Hirschberger đưa ra nhận đònh: quan điểm của Kant
về bổn phận đạo đức, về tự do, tự trò và phẩm giá con người đã làm đảo
lộn tư duy triết học thế kỷ XVII – XVIII và đặt cơ sở nền tảng cho mọi vấn
đề triết học từ đấy về sau. Ông viết: “Kant được xem là triết gia Đức lớn
nhất, hơn nữa là triết gia lớn nhất của thời cận đại, là triết gia của nền văn
hóa tân thời và của nhiều lónh vực khác nữa. Dù người ta có đánh giá Kant
gì đi nữa, điều không thể chối cãi là ít nhất Kant đã nâng triết học Đức tiến
lên một giai đoạn mới. Danh tiếng của ông đẩy lùi những gì đi trước vào
bóng tối và tỏa sáng lên những gì đi sau” [85, 268 – 269].


8

Trong tác phẩm “Kant và Marx. Một sự đối thoại thời đại” (“Kant
und Marx. Ein Epochengespraech”) của Oskar Negt, Nxb. Steidl,

Goettingen, xuất bản năm 2003, Negt đã đồng ý với nhận đònh của nhiều
nhà triết học phương Tây rằng, không có Kant sẽ không có Fichte,
Schelling, Hegel và Marx. Negt cũng đưa ra những nhận đònh về sự tương
đồng giữa triết học Kant và triết học Marx. Ông đánh giá cao tư tưởng
nhân văn của triết học đạo đức Kant và cho rằng khó có thể hiểu được cặn
kẽ tư tưởng nhân văn của Marx, nếu trước đó không có sự hiểu biết về
Kant. Ngược lại, đọc các tác phẩm của Marx có thể giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về Kant. Theo Negt, những nội dung cơ bản của triết học đạo đức Kant
như: tự do, tự trò và phẩm giá con người có ảnh hưởng nhất đònh đến quan
điểm của Marx về vấn đề con người.
Nghiên cứu triết học đạo đức Kant, các nhà triết học Đức đề cập đến
nhiều tác phẩm của ông. Tuy nhiên, ba tác phẩm cơ bản: “Đặt nền móng
cho siêu hình học của đạo đức” (“Grundlegung einer Metaphysik der
Sitten”) (1785), “Phê phán lý tính thực tiễn” (“Kritik der praktischen
Vernunft”) (1788) và “Siêu hình học của đạo đức” (“Metaphysik der
Sitten”) (1797), vẫn dành được sự quan tâm nhiều nhất của các nhà nghiên
cứu.
Mặc dù các nhà nghiên cứu Đức đứng trên nhiều lập trường và quan
điểm khác nhau để phân tích, đánh giá giá trò tư tưởng của nó đối lòch sử tư
tưởng triết học, nhưng họ đều khẳng đònh rằng triết học Kant nói chung và
triết học đạo đức của ông nói riêng, là một cuộc cách mạng rất quan trọng


9

trong lónh vực tư tưởng triết học phương Tây và ông xứng đáng được xem
là người đã khai sáng một kỷ nguyên mới của khoa học con người.
Ở Việt Nam, trước năm 1975 cũng có khá nhiều sách báo đã đăng
tải các công trình nghiên cứu về triết học Kant. Đó là những bài viết của
Nguyên Sa về “Triết học Kant”, đăng trên tạp chí Sáng tạo số 11 và 12,

năm 1957; bài: “Thử tóm tắt học thuyết Kant” của Hòa Nguyên Nguyễn
Hóa, đăng trên tạp chí “Bách khoa”, số 13, năm 1957. Trong những bài
viết này các tác giả đã trình bày một cách khái quát nhất nội dung triết học
Kant và đưa ra những nhận đònh của mình về giá trò tư tưởng của triết học
Kant đối với một số học thuyết triết học phương Tây đương đại. Đặc biệt
tác phẩm “Triết học Kant” của Trần Thái Đỉnh, do Nxb. Văn mới, xuất bản
năm 1974, đã đề cập đến tư tưởng triết học Kant một cách có hệ thống với
sự phân tích, đánh giá cụ thể ba tác phẩm cơ bản của Kant thời kỳ phê
phán. Tác phẩm “Triết học Kant” đã được Nxb. Văn hóa thông tin tái xuất
bản năm 2005.
Trong những năm gần đây, số lượng các công trình nghiên cứu về
triết học đạo đức Kant đã tăng lên đáng kể. Phần lớn các công trình tập
trung phân tích những tư tưởng cơ bản của triết học đạo đức Kant, từ đó,
hoặc là so sánh với các học thuyết triết học đạo đức khác, hoặc là đánh giá
về mặt giá trò tư tưởng và ý nghóa nhân văn của nó đối với thời đại.
Tác phẩm “Triết học Imanuin Cantơ” của GS. TS. Nguyễn Văn
Huyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1996 và tác phẩm “I.
Cantơ - Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của GS. TS. Nguyễn
Trọng Chuẩn, GS. TS. Nguyễn Văn Huyên, PGS. TS. Đặng Hữu Toàn


10

(đồng chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1997, đã
phân tích mệnh lệnh tuyệt đối của triết học đạo đức Kant và đưa ra những
nhận đònh về giá trò và ý nghóa của nó. GS. TS. Nguyễn Văn Huyên nhận
đònh rằng “ý tưởng nhân đạo của triết học đạo đức của Kant cho đến hôm
nay vẫn còn nguyên tính chất thời sự. Nó cho ta phương pháp nhìn nhận
tương lai để đấu tranh chống lại chủ nghóa phi nhân đạo của thuyết vò khoa
học - kỹ thuật hiện đại; chống lại quan niệm tách biệt, mâu thuẫn và đối

lập giữa tiến bộ khoa học - công nghệ với tiến bộ loài người; và ý nghóa
lớn lao nhất có tính chất nhân loại bao trùm nhất là nó cho ta thấy rằng, ý
nghóa cuộc sống con người không phải là cái gì trừu tượng mà là thực tiễn
cụ thể; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện tại mà còn của tương lai, của
những khả năng” [25, 175].
Trong kỷ yếu hội thảo quốc tế “Triết học cổ điển Đức: những vấn đề
nhận thức luận và đạo đức học” của Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb. Chính
trò quốc gia, xuất bản năm 2006, có 23 báo cáo tham luận trong và ngoài
nước nghiên cứu về triết học đạo đức Kant. Hầu hết các báo cáo tham luận
đều đề cao tính nhân văn của triết học đạo đức Kant. GS. TS. Nguyễn
Trọng Chuẩn cho rằng, triết học đạo đức Kant thấm đượm tinh thần nhân
văn, thể hiện khát vọng đem lại cho con người một cách nhìn mới hơn về
thế giới và về chính bản thân mình. Tinh thân nhân văn và lạc quan đó thể
hiện ra như là những tư tưởng vượt thời đại nhằm hướng tới các giá trò toàn
nhân loại.
Các bài nghiên cứu của các PGS. TS. Nguyễn Thế Nghóa, PGS. TS.
Đặng Hữu Toàn, PGS. TS. Nguyễn Quang Hưng, ThS. Nguyễn Kim Lai,


11

ThS. Vũ Thò Thu Lan, TS. Lê Công Sự, v.v…, đã tập trung làm rõ những
luận điểm cơ bản của triết học đạo đức Kant, vai trò của triết học đạo đức
trong hệ thống triết học của Kant, cũng như ảnh hưởng của nó đối với nền
triết học phương Tây đương đại.
Nhìn chung, tài liệu nghiên cứu về triết học đạo đức Kant ở Việt
Nam trong những năm gần đây đã nhiều hơn trước. Thông qua các giáo
trình, các tài liệu tham khảo, cũng như những bài báo cáo tham luận, triết
học đạo đức Kant đã được giới thiệu một cách tổng quát, đem lại cho người
đọc một cái nhìn ban đầu và những đánh giá khái quát nhất. Tuy nhiên

chúng ta vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về triết học
Kant nói chung và triết học đạo đức của ông nói riêng. Đã có những bản
trích dòch nội dung một số tác phẩm triết học đạo đức Kant như “Nhập môn
triết học phương Tây” của Samuel Enoch Stumpf & Donald C. Abel, do
Lưu Văn Hy biên dòch, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản
năm 2004; hay “Phê phán lý tính thực hành” do Bùi Văn Nam Sơn dòch và
chú giải, Nxb. Tri Thức, xuất bản năm 2007. Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa
có đầy đủ nguồn tài liệu về triết học đạo đức Kan nên sự nghiên cứu về nó
còn gặp nhiều khó khăn.
Dựa trên những tác phẩm của Kant, nhất là những tác phẩm bàn về
triết học đạo đức, đối chiếu với các bản dòch của Bùi Văn Nam Sơn, các
tài liệu tham khảo trong và ngoài nước, chúng tôi sẽ phân tích, đánh giá
nội dung tư tưởng cơ bản của triết học đạo đức Kant và sự ảnh hưởng của
nó đối với triết học Đức thế kỷ XIX, góp phần đáp ứng nhu cầu tìm hiểu


12

chuyên sâu về triết học Kant nói riêng và lòch sử triết học phương Tây nói
chung.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ nội dung cơ bản của triết học đạo
đức Kant và ảnh hưởng của nó đối với triết học Đức thế kỷ XIX.
Để thực đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học
Kant (hoàn cảnh ra đời, các thời kỳ phát triển của triết học Kant)
qua đó làm rõ vò trí của triết học đạo đức trong hệ thống triết học
của ông.

2. Trình bày nội dung cơ bản của triết học đạo đức Kant (quan điểm
của ông về cơ sở xác đònh giá trò đạo đức, mệnh lệnh tuyệt đối và
đạo đức học ứng dụng).
3. Phân tích ảnh hưởng của triết học đạo đức Kant đối với triết học
Đức thế kỷ XIX, cụ thể là đối với triết học Fichte, triết học
Hegel, triết học Marx và triết học Cohen.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu: luận án nghiên cứu nội dung cơ bản của triết
học đạo đức Kant và ảnh hưởng của nó đối với triết học Đức thế kỷ XIX.
Phạm vi nghiên cứu: luận án làm rõ vò trí của triết học đạo đức Kant
trong hệ thống triết học của ông; phân tích nội dung cơ bản và sự ảnh
hưởng của nó đối với triết học Đức thế kỷ XIX.


13

Triết học Đức thế kỷ XIX phát triển mạnh mẽ, đa dạng với nhiều
trào lưu tư tưởng khác nhau, nhưng không phải học thuyết nào cũng chòu
ảnh hưởng tư tưởng triết học Kant, nhất là triết học đạo đức của ông. Vì
vậy, luận án chỉ tập trung nghiên cứu một số học thuyết triết học chòu ảnh
hưởng mạnh mẽ từ triết học đạo đức của Kant, nhất là về vấn đề con
người, vấn đề tự do, quyền và phẩm giá con người. Cụ thể là triết học của
J. G. Fichte, G. W. F. Hegel, K. Marx/F. Engels và đại diện của chủ nghóa
Kant mới – H. Cohen.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện đề tài, luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghóa
duy vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử. Bên cạnh đó, luận án còn
sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lòch sử, đối chiếu

và so sánh, để làm rõ nội dung tư tưởng, những mặt tiến bộ và hạn chế,
cũng như sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Kant đối với triết học Đức
thế kỷ XIX.

6. Cái mới của luận án
1. Luận án đã phân tích nội dung cơ bản của triết học đạo đức Kant
và đưa ra những đánh giá cụ thể về mặt tiến bộ và hạn chế của nó.
2. Luận án đã phân tích sự ảnh hưởng của triết học đạo đức Kant đối
với một số học thuyết triết học Đức thế kỷ XIX (triết học Fichte, triết học
Hegel, triết học Marx và triết học Cohen), qua đó khẳng đònh vò trí quan
trọng của triết học đạo đức Kant đối với lòch sử triết học phương Tây.


14

7. Ý nghóa lý luận và ý nghóa thực tiễn của luận án
Ý nghóa lý luận: Trên cơ sở phân tích, đánh giá nội dung tư tưởng
triết học đạo đức Kant, luận án góp phần đưa ra một cái nhìn tổng thể về
những giá trò nhân văn của triết học đạo đức Kant cũng như ảnh hưởng của
nó đối với triết học Đức thế kỷ XIX, góp phần nâng cao năng lực tư duy lý
luận.
Ý nghóa thực tiễn: Với việc phân tích những tư tưởng nhân văn của
triết học đạo đức Kant về con người, quyền và phẩm giá con người, luận
án góp phần đưa ra những gợi ý thiết thực nhằm nâng cao ý thức trách
nhiệm về quyền và phẩm giá con người trong cuộc sống có nhiều biến
động của chúng ta hiện nay.
Ngoài ra, luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy về triết học cổ điển Đức, lòch sử tư tưởng triết học phương
Tây và đạo đức học.


8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.
Chương 1: trình bày khái quát quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng triết học Kant, bao gồm hoàn cảnh ra đời, các thời kỳ phát triển của
triết học Kant và vò trí của triết học đạo đức trong hệ thống triết học của
ông.


15

Chương 2: phân tích những nội dung cơ bản của triết học đạo đức
Kant như cơ sở xác đònh giá trò đạo đức; mệnh lệnh tuyệt đối và những đặc
trưng cơ bản của nó; đạo đức học ứng dụng.
Chương 3: phân tích một số ảnh hưởng của triết học đạo đức Kant
đối với triết học Đức thế kỷ XIX, cụ thể là triết học Fichte, triết học
Hegel, triết học Marx và triết học Cohen.


16

Chương 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC IMMANUEL KANT
Cũng như mọi học thuyết triết học khác, triết học Kant ra đời chòu sự
qui đònh của hoàn cảnh lòch sử dân tộc và của thời đại. Để có thể hiểu
được tư tưởng triết học đạo đức Kant một cách có hệ thống, trong chương
này luận án trình bày khái quát hoàn cảnh ra đời, các thời kỳ phát triển của
triết học Kant và vò trí của triết học đạo đức trong toàn bộ hệ thống triết
học của ông.

1.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC IMMANUEL
KANT
Là người sáng lập nền triết học cổ điển Đức, Immanuel Kant (1724 1804) đã để lại dấu ấn lâu dài và sâu sắc trong lòch sử triết học phương
Tây. Những tư tưởng của triết học Kant trong mọi lónh vực đã góp phần
làm giàu thêm kho tàng tư duy nhân loại.
Sinh ra trong một gia đình thợ thủ công không mấy giàu có tại thành
phố Koenigsberg, thuộc miền Đông nước Phổ (nay là Kaliningrad), Kant
bắt đầu theo học triết học, toán học, vật lý học và thần học tại trường đại
học Koenigsberg từ năm 1740. Sau khi tốt nghiệp đại học, Kant đã trải qua
nhiều năm làm gia sư. Năm 1755 ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ
với đề tài: “Về lửa” (“De igne”), và sau đó vài tháng ông được bổ nhiệm
làm giảng viên của trường đại học Koenigsberg với tiểu luận về “Những
nguyên tắc đầu tiên của nhận thức siêu hình học” (“Nova dilucidatio”).


17

Năm 1770 ông được phong giáo sư lôgíc học và siêu hình học, đảm nhiệm
công việc giảng dạy cho đến cuối đời.
Tuy đời sống riêng của Kant không có biến cố gì nổi bật, vì ông
không đi đây đó và không có nhiều mối quan hệ chính trò, nhưng ông vô
cùng thành công trong chức vụ dạy học và là một người trò chuyện rất thú
vò và lôi cuốn. Với một cuộc sống bình dò tuân theo những qui tắc nhất
đònh, ông nổi tiếng là người có kỷ luật chặt chẽ, là “chiếc đồng hồ sống”
của người dân Koenigsberg.
Xuất phát từ thực tiễn nước Đức thế kỷ XVIII, triết học Kant là sự
thể hiện phần nào bức tranh xã hội, lòch sử của dân tộc Đức thời bấy giờ.
Sự ra đời của triết học Kant không chỉ chòu sự qui đònh của những điều
kiện kinh tế - xã hội Đức mà còn gắn liền với sự phát triển của những
thành tựu khoa học tự nhiên và những tư tưởng nhân văn chung của các

nước Tây Âu, đặc biệt là tư tưởng của các nhà Khai sáng Pháp.
Thực tiễn lòch sử - xã hội vương quốc Đức (Deutsches Reich) trong
những thế kỷ XVII - XVIII đã ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành và phát
triển tư tưởng triết học Kant.
Là một quốc gia phong kiến nông nghiệp lạc hậu với hai đặc điểm
nổi bật là sự chia cắt về chính trò và sự lạc hậu về kinh tế, thực tiễn vương
quốc Đức thời bấy giờ được Engels đánh giá là thời kỳ yếu hèn nhất của
lòch sử dân tộc Đức. Sự chia cắt về mặt chính trò được thể hiện rõ nhất qua
các cuộc chiến tranh giữa Hoàng đế và các nước chư hầu (1618 - 1648).
Với hoà ước Westfallen, cuộc chiến 30 năm kết thúc nhưng trên toàn bộ


18

lãnh thổ của vương quốc Đức vẫn tồn tại trên 300 nước chư hầu và nhiều
lãnh đòa kỵ só.
Hầu hết các nước chư hầu đều tập trung các quyền lập pháp, hành
chính, tư pháp, quân sự và tài chính trong tay của một người, xây dựng
thành một chế độ chuyên chính trung ương tập quyền. Thông qua bộ máy
quan liêu, bộ máy cảnh sát và quân đội thường trực, họ thống trò và áp bức
nhân dân trong lãnh đòa của họ. Đầu thế kỷ XVIII, để nâng cao thu nhập
về tài chính, một số nước chư hầu đã đem từng nhóm thần dân của mình
bán cho các nhà buôn ngoại quốc làm lính đánh thuê.
Cuộc chiến tranh 30 năm đã đem đến nhiều tai họa cho vương quốc
Đức. Chiến tranh đã tàn phá nhiều thành thò và hầu hết các vùng nông
thôn. Sự chia cắt lãnh thổ đã làm cho nền kinh tế của vương quốc Đức lúc
bấy giờ lâm vào tình trạng đình đốn bởi mỗi tiểu vương quốc đều có hệ
thống pháp luật riêng, có chế độ “cân đong đo đếm” riêng, có hệ thống
tiền tệ riêng. Nghiêm trọng hơn cả là tại biên giới mỗi vương quốc đều
xây dựng những trạm thuế quan đường thuỷ và bộ làm cản trở mạch máu

lưu thông kinh tế của đất nước. Không có một thò trường thống nhất, công thương nghiệp ở Đức không thể phát triển được, nền kinh tế hầu như bò tê
liệt. Bối cảnh kinh tế – xã hội của vương quốc Đức lúc bấy giờ được
Engels nêu rõ trong bài “Tình hình nước Đức” (đăng trên tạp chí “The
Northern Star” ngày 25.10.1845) như sau: “Đấy là cả một đống những cái
chán chường, mục nát và tan rã. Không ai cảm thấy dễ chòu. Thủ công
nghiệp, thương nghiệp, công nghiệp và nông nghiệp trong nước đều rơi


19

vào cảnh điêu tàn cùng cực. Nông dân, thợ thủ công và chủ xí nghiệp chòu
hai lần khổ ải: chính quyền ăn bám và trạng thái tiêu điều” [39, 755].
Nghiêm trọng hơn cả là sự tái diễn chế độ nông nô lần thứ hai trong
thế kỷ XVII đã đẩy người nông dân trên toàn vương quốc Đức đến chỗ
cùng cực. Nổi bật nhất của sự tái diễn này là các vùng phía bắc và đông
bắc nước Đức, trong đó có vương quốc Phổ, quê hương của nhà triết học
Kant. Ở đây không chỉ tồn tại chế độ chuyên chế trung ương tập quyền mà
còn là một chính thể quân chủ với bộ máy quân đội hùng mạnh và tầng lớp
công chức q tộc. Hầu hết nông dân đều bò nông nô hóa và giai cấp đòa
chủ q tộc thường áp dụng những hình thức cai trò hết sức tàn nhẫn đối với
họ. Trong suốt tuần lễ, người nông nô phải canh tác trên đất riêng của đòa
chủ và chỉ được quyền canh tác trên đất của mình vào ban đêm. Đòa chủ
thường phái những người giám công cầm roi giám sát công việc của nông
nô. Ngoài ra, giai cấp đòa chủ còn có quyền về mặt tư pháp và cảnh sát
đối với nông nô. Người nông nô bò tước đoạt hầu hết quyền tự do. Họ
không được học những nghề thủ công và nếu không được đòa chủ đồng ý
thì họ không được kết hôn. Nông nô còn thường bò đem bán, cho mượn
hoặc đem cầm cố. Sự bóc lột và thống trò của giai cấp đòa chủ q tộc luôn
được chính thể quân chủ chuyên chế Phổ bảo vệ, vì vậy cuộc sống của
người nông dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực, nhân phẩm con người

bò chà đạp.
Sự chia cắt về chính trò và sự lạc hậu về kinh tế của vương quốc Đức
cùng với sự tái diễn chế độ nông nô lần thứ hai đã tạo nên nỗi thống khổ
cho nhân dân Đức, tác động đến sự hình thành tư tưởng của Kant về ý chí


20

tự do, về nhân phẩm con người, về vấn đề chiến tranh và hòa bình, về việc
cần thiết phải xây dựng một liên minh giữa các quốc gia nhằm đảm bảo
một nền hòa bình lâu dài cho toàn thể nhân loại.
Chính từ thực tiễn lòch sử nước Đức mà khát vọng tự do của con
người và ước mơ xây dựng một liên bang của các nhà nước lý tưởng, tiến
tới một nền hòa bình vónh cửu trên toàn thế giới đã trở thành những nội
dung cơ bản của triết học Kant. Tuy nhiên, vì được xây dựng trên mảnh đất
hiện thực nghèo nàn và lạc hậu, nên những khát vọng đó cũng chỉ nằm
trong “thiện ý” mà thôi.
Tuy bò chia cắt về mặt chính trò và lạc hậu về kinh tế, nhưng vương
quốc Đức thời kỳ này lại đạt được sự phát triển chưa từng có về triết học,
văn hóa và nghệ thuật. Nhiều nhà triết học, nhà văn, nhà ngôn ngữ, nhà
thơ (Johann Gottlieb Herder (1744 – 1803), Johann Wolgang Von Goethe
(1749 – 1832), Friedrich Schiller (1759 - 1805), …), thông qua các tác phẩm
văn học nghệ thuật của mình, đã phản ánh sự trì trệ của xã hội hiện thực,
khơi dậy năng lực lý tính của con người và hướng con người sống và hành
động vươn tới tự do.
Sự kết hợp giữa tư tưởng văn hóa Đức truyền thống với tư tưởng
nhân văn của Khai sáng Pháp trong các tác phẩm nghệ thuật của các nhà
văn, nhà thơ trên đã có ảnh hưởng nhất đònh đến tư tưởng chính trò của tầng
lớp tư sản Đức nói chung và tư tưởng triết học Kant nói riêng. Ra đời sau
tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” của Kant một năm, vở kòch “Những

tên cướp” (“Raeuber”) (1782) của Schiller đã thể hiện sự phẫn nộ của giai
cấp tư sản Đức đối với một thế giới đang mục nát, một nhà nước quân chủ


×