Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Phạm trù lễ của khổng tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.44 KB, 79 trang )





1.1. Cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử
1.1.1. Khổng Tử cuộc đời và sự nghiệp
1.1.2. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu
1.2. Khổng Tử bàn về Lễ
1.2.1. Phạm trù Lễ
1.2.2. Các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ
1.3. Một số nội dung cơ bản của Lễ
1.3.1. Lễ là những quy định về nghi thức tế lễ
1.3.2. Lễ là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia
1.3.3. Lễ là chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội
1.3.4. Lễ là công cụ tiết chế hành vi của con người
 !"#$%#&'#(#)
*$+
2.1. Khái quát quá trình du nhập Lễ của Khổng giáo ở Việt Nam
2.2. Thực trạng đạo đức học sinh hiện nay
2.3. Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay
2.3.1. Phạm trù Lễ trong triết học Khổng Tử với việc giáo dục đạo đức học sinh Việt
Nam hiện nay…………………………………
2.3.2. Một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay
,-
&./#

012345641789:4;5
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, tư tưởng của Khổng Tử có một vị trí
rất đặc biệt. Sự đặc biệt ấy không chỉ bởi những giá trị đặc sắc trong nội dung
tư tưởng và tầm ảnh hưởng của nó đối với thời đại nó ra đời mà còn bởi tư
tưởng Khổng Tử đã sống một cuộc sống lâu bền và rất riêng, vượt qua khuôn


khổ một thời đại, một quốc gia. Tư tưởng Khổng Tử nói riêng và tư tưởng
nho giáo nói chung đã trở thành hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến trong
suốt tiến trình phát triển qua các triều đại phong kiến ở Trung Hoa và nhiều
nước Á Đông khác trong đó có Việt Nam.
Với một hệ thống những quan điểm về thế giới và đặc biệt là quan điểm
nhân sinh thể hiện trong quan niệm về chính trị xã hội và luân lý đạo đức,
Khổng Tử là người đã đặt nền móng cho sự phát triển của Nho học trong lịch
sử Trung Hoa. Quan điểm về Lễ là một trong những nội dung chủ yếu trong
quan niệm về chính trị xã hội, luân lý đạo đức của Khổng Tử. Trong học
thuyết về chính trị - xã hội của Khổng Tử, Lễ được hiểu theo nhiều khía cạnh
khác nhau nhưng dù ở khía cạnh nào nó cũng không vượt ra khỏi mục đích tối
cao nhằm giải quyết một vấn đề lớn của thời đại ông là bình ổn xã hội. Khổng
Tử muốn khôi phục Lễ để thực hiện điều Nhân nhằm bình ổn xã hội loạn lạc
để quay trở lại như thời Tây Chu. Tất nhiên, từ Lễ trong nền giáo dục phong
kiến đến Lễ trong nền giáo dục hiện đại đã có rất nhiều biến đổi nhưng ở bất
kỳ thời đại nào cũng có những giá trị được bảo tồn. Bởi vậy, hoàn toàn không
ngẫu nhiên khi người Trung Hoa suy tôn Khổng Tử là “Vạn thế sư biểu”
(thầy của muôn đời).
Trong quá trình du nhập vào Việt Nam tư tưởng của Khổng Tử và Nho
giáo từ chỗ bị đối xử thiếu thiện cảm do đi theo gót chân của kẻ xâm lược dần
dần nó đã hòa nhập vào đời sống cộng đồng bởi những nét tương đồng và
1
không ngừng thay đổi thích ứng với văn hóa bản địa. Người Việt đã sớm tiếp
biến tư tưởng Khổng Tử không chỉ bởi sự giao thoa văn hóa tự nhiên mà còn
bởi sự ủng hộ và tiếp sức của giai cấp phong kiến Việt Nam qua nhiều triều
đại. Tư tưởng Khổng Tử và Nho giáo, trong đó có tư tưởng về Lễ cũng như
chính Khổng Tử và nhiều danh nho khác sớm chiếm lĩnh một vị trí quan trọng
trong nền giáo dục phong kiến và đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Trong những năm gần đây cùng với sự hội nhập và phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, nền giáo dục Việt Nam cũng có những bước chuyển

mình quan trọng và đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên cùng với
quá trình ấy cũng đã đưa đến một số thay đổi tiêu cực trong các quan hệ xã
hội. Một bộ phận học sinh có hành vi và suy nghĩ lệch lạc gây ảnh hưởng xấu
đến môi trường giáo dục và báo hiệu một sự suy thoái về đạo đức và lối sống.
Ở một nền văn hóa tương đối đậm chất nho học như Việt Nam thì điều đó
càng khó chấp nhận vì nó đi ngược lại với truyền thống “Tôn sư trọng đạo”,
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, Kính trên nhường dưới. Để phát triển một thế hệ
mới trong tương lai làm chủ đất nước và thực hiện thành công sự nghiệp phát
triển đất nước bên cạnh việc giáo dục tri thức khoa học thì giáo dục đạo đức
có một ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tư tưởng của Khổng Tử nói chung và quan điểm về Lễ nói riêng có ý
nghĩa rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay.
Với những giá trị đã được thẩm định, phát triển qua thực tiễn nhiều thế
kỷ cùng với sự tiếp biến linh hoạt và cho vào Lễ một hơi thở của thời đại thì
nó hoàn toàn có thể giúp khôi phục và định hình một nhân cách chuẩn đối với
học sinh, đặc biệt là với một bộ phận học sinh lệch chuẩn hiện nay ở nước ta.
Với những suy nghĩ đó, tôi đã làm luận văn cao học với đề tài: “Phạm
trù Lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho
học sinh Việt Nam hiện nay”.
2
<<5=1>?
Nho giáo nói chung và phạm trù Lễ trong triết học của Khổng Tử nói
riêng là đối tượng nghiên cứu đang thu hút nhiều ngành khoa học nghiên cứu
trong nhiều thế kỷ qua cho tới hiện nay, như: triết học, văn hóa học, sử học,
tôn giáo học, giáo dục học, đạo đức học… Có thể khái quát kết quả nghiên
cứu đó theo ba hướng sau:
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về Khổng Tử trong tổng thể
nền văn hóa Trung Quốc. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến
các tác phẩm như: “Sử ký” của Tư Mã Thiên, Nxb Văn học, Hà Nội, xuất bản
năm 1988; “Lịch sử văn minh và các triều đại Trung Quốc”, được biên soạn

năm 2004 bởi TS. Dương Ngọc Dũng - Nhà nghiên cứu Anh Minh, Nxb Tổng
hợp, Thành phố Hồ Chí Minh; “Lịch sử văn minh Trung Hoa” của sử gia lớn
nhất thời hiện đại Will Durant, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội (dịch giả
Nguyễn Hiến Lê), 2004; “Đại cương triết học sử Trung Quốc”, của nhà triết
học Phùng Hữu Lan (Fung Yu-Lan), Nxb Thanh niên, Trung tâm nghiên cứu
quốc học, Hà Nội (người dịch Nguyễn Văn Dương), xuất bản năm 1999;
“Nho giáo Trung Quốc” của tác giả Nguyễn Tôn Nhan, Nxb Văn hóa thông
tin, năm 2005; “Lịch sử triết học phương Đông”, của GS. Nguyễn Đăng
Thục, Nxb từ điển Bách khoa, Hà Nội, xuất bản năm 2006; “Đạo đức phương
Đông cổ đại”, của PGS. Vũ Tình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản
1998… Các công trình nghiên cứu đã trình bày một cách khái quát về tư
tưởng triết học Khổng Tử, trong đó có tư tưởng về Lễ của ông tổ Nho giáo để
khắc họa chân dung một con người, một nhân cách, một đại biểu văn hóa.
Hướng thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng Khổng Tử
trong dòng phát triển của lịch sử triết học Trung Quốc. Trong dòng nghiên
cứu này có thể kể đến những công trình tiêu biểu như: “Đại cương triết học
Trung Quốc” của Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nxb Cao Thơm, Sài Gòn, năm
1966; “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc” do Doãn Chính chủ biên,
3
Nxb Chính trị quốc gia, năm 1999; Lịch sử triết học sử Trung Quốc (2 tập)
của tiến sĩ Phùng Hữu Lan (Feng You Lan), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
năm 2006; Các công trình nghiên cứu này đã trình bày, phân tích một cách
sâu sắc triết học Khổng Tử trong tiến trình lịch sử triết học. Hơn nữa, các
công trình này tập trung phân tích các học thuyết về chính trị, xã hội của
Khổng Tử, ít nhiều có đề cập đến phạm trù Lễ trong mối tương quan đến các
phạm trù đạo đức trong “ngũ thường” như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Trong thời gian gần đây, đã xuất hiện tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu
về lịch sử triết học Trung Quốc là “Từ điển triết học Trung Quốc” của PGS.
TS. Doãn Chính, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản vào năm 2009;
tác phẩm này trình bày, phân tích một cách sâu sắc những vấn đề như: nội

dung các học thuyết trong triết học của Khổng Tử; lịch sử hình thành, phát
triển và sự biến đổi của phạm trù Lễ trong tiến trình lịch sử, nguyên nhân sự
ra đời của Lễ cũng như ý nghĩa, công dụng Lễ Tuy nhiên, do đặc trưng của
thể loại Từ điển và do khối lượng kiến thức đồ sộ mà tác phẩm đề cập đến,
nên tác giả đành hạn chế phần phân tích nội dung của Lễ.
Hướng thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết của các
tác giả chuyên nghiên cứu, dịch thuật và giới thiệu riêng về Lễ trong triết học
Khổng Tử, như: “Lễ Ký - kinh điển về việc lễ” của tác giả Nhữ Nguyên, Nxb
Đồng Nai, Biên Hòa, 1996; “Kinh lễ”, do Nguyễn Tôn Nhan biên dịch và giới
thiệu, Nxb Văn học, năm 1996; “Tứ Thư”, Dịch giả Đoàn Trung Còn, Nxb
Thuận Hóa, Huế, 2006;… Những công trình nghiên cứu này biên dịch phần
nguyên bản chữ Hán, đồng thời các nhà nghiên cứu, dịch thuật cũng cố gắng
bằng kiến thức uyên thâm của mình phân tích, thuyết minh một số nội dung
nhằm giúp độc giả hiểu được phần lớn tinh thần của tác phẩm.
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận theo một hướng khác
nhau, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào được coi là có cái nhìn toàn
diện về phạm trù Lễ trong triết học của Khổng Tử, chưa có công trình nào
4
nghiên cứu riêng biệt hoặc trình bày một cách có hệ thống nội dung của Lễ,
chưa có công trình nào đánh giá hết những giá trị, hạn chế của tư tưởng về Lễ
của Khổng Tử, cũng như đề ra phương pháp vận dụng những bài học lịch sử đó
vào việc hoạch định chính sách, biện pháp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay.
Để có cái nhìn toàn điện về đạo đức, lối sống của thanh niên Việt Nam
hiện nay, trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng và quan điểm của Đảng, tác giả tham
khảo, kế thừa những công trình khảo sát, thống kê, nghiên cứu về thanh niên,
về đạo đức, lối sống của thanh thiếu niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những công trình này đã phản ánh thực trạng về tình hình đạo đức, lối sống
của thanh thiêu niên Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường đang phát
triển. Có thể khẳng định đây là những công trình nghiên cứu chuyên sâu của
những nhà khoa học, những công dân đang trăn trở về những biến động trong

lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội. Có thể kể đến:
“Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay”, do Nguyễn Ngọc
Phú (chủ biên), Nxb Quân đội nhân dân, xuất bản năm 2008. Nhóm tác giả đã
trình bày quan niệm chung về chuẩn mực đạo đức theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phân tích các giá trị chuẩn mực đạo
đức truyền thống con người Việt Nam; đồng thời phân tích các tác động của
nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến sự vận động biến
đổi các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam hiện nay.
ThS. Phạm Tấn Xuân Tước, PGS TS. Huỳnh Thị Gấm (2008), “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình trình bày
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống mới cho
thanh niên; phân tích thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên; thực trạng công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên; đề ra các nhóm giải pháp về giáo
dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
5
Công trình “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam” công bố ngày 26 tháng 8 năm 2005. Tính cho đến nay, đây là cuộc điều
tra về vị thành niên và thanh niên lớn nhất, toàn diện nhất ở Việt Nam, là
nguồn thông tin bổ ích, đáng tin cậy về tình trạng sức khỏe, đời sống xã hội,
thái độ, hoài bão của thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay.
Đây là các công trình rất công phu, mỗi tác giả lại có cái nhìn chuyên
sâu về từng khía cạnh của đời sống thanh niên hiện nay và từ đó đưa ra những
giải pháp góp phần nâng cao đạo đức xã hội. Song, các tác phẩm còn dừng lại
ở những giải pháp ở tầm vĩ mô, chung chung mang tính định hướng mà chưa
thực sự cụ thể, phù hợp để xây dựng những chuẩn mực đạo đức cho từng
nhóm bộ phận những người Việt Nam, chưa xây dựng được chương trình,
biện pháp giáo dục đạo đức hiệu quả cho đối tượng thanh thiếu niên.
Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ triết học đã được bảo vệ xoay
quanh vấn đề con người, mẫu người, đạo làm người và vấn đề giáo dục đào tạo

con người theo những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức của nho giáo như: “Tìm
hiểu mẫu người quân tử qua hai tác phẩm “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử” của
Nguyễn Xuân Lộc, “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người qua
các mối quan hệ thân - nhà - nước- thiên hạ” của Trần Đình Thảo, “Quan niệm
của Khổng Tử về giáo dục” của Nguyễn Bá Cường, “Quan niệm của Khổng Tử
về con người và giáo dục đào tạo con người” của Nguyễn Thị Tuyết Mai…
Mặc dù các luận văn, luận án đều có phạm vi nghiên cứu cụ thể của từng đề tài
xong các tác giả ở những mức độ nhất định đã đề cập đến tư tưởng về lễ trong
quan hệ mật thiết với các phạm trù đạo đức khác góp phần hình thành nên tính
toàn vẹn của mẫu người lý tưởng mà Nho giáo muốn xây dựng.
Với thái độ trân trọng những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi
trước đã cung cấp nhiều kiến thức về phạm trù Lễ cũng như đạo đức, lối sống
xã hội vô cùng bổ ích và có giá trị, tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc và
6
trung thực nguồn tư liệu quý báu đó trong quá trình thực hiện luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Từ việc nghiên cứu có hệ thống tư tưởng của Khổng Tử về Lễ, luận văn
đánh giá những giá trị, hạn chế và rút ra bài học lịch sử của nó cùng những
kiến nghị đối với sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử
- Phân tích phạm trù Lễ và các phạm trù trong mối tương quan với
phạm trù Lễ.
- Trình bày các nội dung cơ bản trong phạm trù Lễ của Khổng Tử.
- Phân tích thực trạng đạo đức học sinh ở Việt Nam hiện nay
- Đưa ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức học sinh ở Việt
Nam và một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay.

@A54BC;3DEC55=1>?178F?GCH
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu Phạm trù Lễ của Khổng Tử để từ đó rút
ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện
nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Triết học Nho giáo nguyên thủy bao gồm rất nhiều vấn đề như con
người, chính trị - xã hội, giáo dục… nhưng ở đây luận văn chỉ nghiên cứu về
phạm trù Lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức
học sinh ở Việt Nam hiện nay.
7
IJKFLF?GC;33M35=1>?
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng - chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vấn
đề đạo đức.
Luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgic, phân tích, tổng
hợp, quy nạp, diễn dịch…
NO9PP3EQ5C:RS8T1178F?GCH
- Luận văn đã làm rõ hơn những nội dung trong quan niệm về Lễ của
Khổng Tử và từ đó làm rõ vai trò quan trọng trong tư tưởng Lễ của Khổng Tử
đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay.
- Luận văn góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm lý luận và phương
pháp giáo dục đạo đức con người qua tìm hiểu Lễ trong triết học Trung Quốc
cổ đại nói chung và trong triết học Khổng Tử nói riêng.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy triết học và đạo đức trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp
chuyên nghiệp, Trung học phổ thông… ở nước ta hiện nay.
U6412?178F?GCH
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
bao gồm 2 chương, 7 tiết:

Chương 1: Quan niệm Lễ của Khổng Tử
Chương 2: Ý nghĩa của Lễ trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh
Việt Nam hiện nay.
8


JK<4;V?85WEX178YZ
1.1.1. Khổng Tử cuộc đời và sự nghiệp
Khổng Tử là người ấp Châu, làng Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện
Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông dòng dõi nước Tống. Ông tổ ba
đời rời sang ở nước Lỗ (Sơn Đông). Thân phụ ông là Thúc Lương Ngột làm
quan võ, lấy người vợ trước sinh được chín người con gái. Người vợ lẽ sinh
được một người con trai tên là Mạnh Bì, nhưng lại có tật què chân. Đến lúc
gần già ông thân phụ mới lấy bà Nhan thị sinh ra ông. Khổng Tử sinh vào
mùa đông tháng 10 năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà
Chu, tức là năm 551 trước Công Nguyên. Bà Nhan thị có lên cầu tự trên núi
aNi Khâu, cho nên khi sinh ra ông mới nhân điềm ấy mà đặt tên ông là Khâu,
tên tự là Trọng Ni. Có sách chép rằng trán ông cao và gồ lên cho nên mới đặt
tên là Khâu. Khâu nghĩa là cái gò
Theo chuyện chép trong chính sử thì khi Khổng Tử lên 3 tuổi ông thân
phụ mất. Thủa còn nhỏ học hành thế nào sử sách không chép rõ chỉ nói rằng
khi ông chơi với trẻ hay bày đồ cúng tế. Điều đó cốt tỏ cái bản tính của ông
trọng những điều lễ nghĩa.
Năm ông 19 tuổi thì thành gia thất, rồi ra nhận chức Ủy lại, coi gạt thóc
ở kho, sau lại làm Tư chức lại coi việc nuôi bò dê để dùng về việc cúng tế.
Thủa ấy tuy ông còn trẻ tuổi nhưng đã nổi tiếng là một người giỏi cho nên
quan nước Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con là Hà Kị và Nam Cung Quát theo
ông học lễ. Ông vốn là người học theo Nho thuật cho nên ông rất chú ý về lễ
nghi và những phép tắc của các đế vương thời trước. Cho đến khi Khổng Tử
51 tuổi thì vua nước Lỗ mới dùng ông làm quan Trung đô tể. Cách một năm

thì cải chức làm quan Đại tư khấu. Ông đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo
9
khổ, lập ra phép tắc định rõ việc tống táng người chết. Lớn nhỏ phân biệt trai
gái, không lẫn lộn, người đi ngoài đường thấy của rơi không nhặt, kẻ gian phi
không có, hình pháp đặt ra không hề dùng đến. Ông làm Đại tư khấu được
bốn năm, vua nước Lỗ cất ông lên nhiếp tướng sự nghĩa là cho ông quyền
nhiếp việc chính trị trong nước. Theo sử sách, khi ông cầm quyền được bảy
ngày thì giết quan đại phu Thiếu Chính Mão là một người sảo quyệt gian
hiểm thời bấy giờ, được ba tháng thì việc chính trị hoàn toàn: trật tự phân
minh, con trai thì chuộng trung tín, con gái thì chuộng trinh thuận. Lúc bấy
giờ nước Tề bên cạnh không muốn nước Lỗ thịnh cho nên bày kế phản gián
cho 80 người con gái đẹp, múa hát giỏi và 30 con ngựa tốt đem sang bày ở
cửa Nam thành nước Lỗ để dâng cho Lỗ hầu. Lỗ hầu say mê, bỏ việc ba ngày
không thỉnh chính. Khổng Tử thấy vua vì sự vui chơi bỏ trễ việc nước cho
nên nhân lúc nhà vua làm lễ tế Giao không chia thịt cho các quan ông liền từ
chức bỏ sang ở nước Vệ.
Ông ở nước Vệ được 10 tháng vua nước vệ không dùng ông định đi
sang nước Trần, nhưng khi đi đến nước Khuông, người nước ấy nhận nhầm
ông là Dương Hổ - là người tàn bạo ai cũng ghét cho nên mới đem quân ra
vây đánh. Ông phải dùng tiếng đàn hát để giải thoát cho mình. Ông thấy có sự
ngăn trở như thế nên trở về nước Vệ. Ở nước Vệ được ít lâu ông sang ở nước
Tống bị quan Tư mã nước Tống là Hoàn Khôi muốn giết nên ông lại bỏ sang
Trần. Ở nước Trần được ba năm thì vua nước Trần vẫn trọng đãi ông nhưng
nước ấy bị giặc dã luôn nên ông lại trở về nước Vệ, rồi ông lại bỏ sang nước
Trần. Ông ở nước Trần được ít lâu thì lại sang nước Thái đi qua đến nước
Diệp thì vua nước Sở cho người đón ông nhưng lại bị quan lệnh doãn là Tử
Tây can ngăn nên ông lại trở về nước Vệ. Thời bấy giờ vua các nước chư hầu
còn muốn lấn quyền Thiên tử, quan Đại phu còn muốn lấn quyền của Thiên
tử, quan Đại phu còn muốn lấn quyền của vua Chư hầu, mà cái chủ nghĩa của
Khổng Tử thì lại cố tôn phù nhà Chu để giảm bớt cái quyền các nước Chư

10
hầu, giữ quyền vua Chư hầu mà bớt quyền các quan Đại phu. Ông nói rằng:
“Thiên hạ hữu đạo, tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên tử xuất: Thiên hạ có đạo
thì việc lễ nhạc chinh phạt do ở Thiên tử mà ra; thiên hạ vô đạo thì việc lễ
nhạc chinh phạt do ở Thiên tử mà ra; thiên hạ vô đạo thì việc lễ nhạc chinh
phạt do ở Chư hầu mà ra”. Hay là: “Thiên hạ hữu đạo, tắc chính bất tại Đại
phu: Thiên hạ có đạo, việc chính trị không ở quan Đại phu” (Luận ngữ: Quí
thị XVI). Cái chủ nghĩa của ông như thế, tất là phản đối với cái quyền lợi của
các vua chư hầu và các quan chư hầu, cho nên ông đi đến đâu, các nước vì
danh nghia mà trọng đãi, nhưng kỳ thực không ai muốn dùng ông, mà có ai
muốn dùng ông đi nữa thì quan Đại phu ngăn trở, không cho dùng. Vì vậy
cho nên ông đi chu du khắp thiên hạ mà không tìm được chỗ nào để thi hành
cái đạo của mình.
Cũng bởi vậy nên ông đã chu du nhiều nước song không được trọng
dụng. Cuối đời, thấy thật sự bất lực việc làm chính trị ông về quê dạy học, san
định Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của cổ nhân, viết sách Xuân Thu để bộc lộ
quan điểm của mình. Nhiều quan điểm của ông thể hiện qua các buổi tọa đàm
mà nội dung của nó sau này được trình bày trong “Luận Ngữ” do học trò của
ông chép lại. Sau khi Khổng Tử mất, nhất là qua giải pháp tàn khốc “đốt sách,
chôn nho” của Tần Thủy Hoàng thì sách của Khổng Tử không còn giữ được
là bao. Khi đạo Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế), sách Nhạc chỉ còn
một thiên, được đem ghép vào bộ “Lễ ký” gọi là thiên “Nhạc ký”. Những
sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành năm kinh là:
Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu
Thời Xuân Thu về mặt kinh tế sức sản xuất đã phát triển. Công cụ sản
xuất nhất là công cụ bằng sắt bắt đầu xuất hiện việc dùng bò kéo cày trở thành
phổ biến. Trong sách “Quốc ngữ” có viết: “đồng thau để đúc kiếm kích…sắt
dùng để đúc cuốc, cào và quả cân…” Điều đó không chỉ thúc đẩy kỹ thuật
11

luyện sắt phát triển mà còn tạo điều kiện khai khẩn đất hoang, phát triển kỹ
thuật canh tác, “dẫn thủy nhập điền”, góp phần nâng cao năng suất lao động
trong nông nghiệp. Cuối Xuân Thu, nước Ngô dựng lò luyện sắt lớn dùng đến
300 người để thụt bễ, đổ than. Nước Tấn trưng thu sắt đúc “đỉnh hình”.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp, buôn bán cũng phát đạt hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện cùng với tầng
lớp thương nhân ngày càng có thế lực, như Huyền Cao nước Trịnh, như Tử
Tống. Trên cơ sở phát triển của các ngành kinh tế, ruộng đất giờ đây giao cho
từng gia đình để canh tác. Đất do nông dân tự vỡ hoang trở thành ruộng tư
ngày càng tăng thêm. Bọn quý tộc có thế lực chiếm đoạt ruộng đất công biến
thành ruộng tư ngày càng nhiều. Chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất xuất
hiện chế độ “tỉnh điền’’ dần dần tan dã.
Về chính trị - xã hội, suốt thời Xuân Thu vì mệnh lệnh Thiên tử không
được chư hầu tuân thủ, chế độ tông pháp bị phá bỏ, trật tự lễ nghĩa, cương
thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy vi nên các nước chư hầu đua nhau động
binh gây chiến tranh thôn tính và tranh giành địa vị của nhau diễn ra liên miên
và vô cùng khốc liệt. Lễ nghĩa nhà Chu giờ đây trở thành hình thức sáo rỗng
và chỉ là những thủ đoạn ngoại giao. Nạn chư hầu chiếm quyền Thiên tử, đại
phu tiếm lễ Thiên tử và chư hầu, cha giết con, anh giết em, vợ lìa chồng
thường xuyên xảy ra. Chế độ cống nạp do nước lớn tiếm quyền Thiên tử tự ý
đặt ra với các nước nhỏ là một tai họa cho các nước nhỏ yếu. Mỗi lần nhà
Trịnh cống nạp cho nhà Tấn phải dùng đến 100 xe chở lụa và da thú mà trăm
xe thì phải ngàn người. Do vậy dân đã nghèo càng thêm đói khổ nên ở nước
Tấn “thây người chết đầy đường”.
Chính vì vậy trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều học thuyết nhằm tìm
cách sửa đổi để cứu vớt thiên hạ trong đó có học thuyết của khổng Tử, lấy
nhân, nghĩa, lễ, trí để dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục để
giữ trật tự ở trong xã hội cho bền vững.
12
YZ[;C:X

1.2.1. Phạm trù Lễ
Trước Khổng Tử, kể từ thời Chu Công, Lễ đã có hai nghĩa: nghĩa cũ là
tế lễ có tính chất tôn giáo, nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công
chế định, có tính cách chính trị, để duy trì trật tự xã hội. Sau dùng rộng ra ý
nghĩa của Lễ chỉ cả phong tục tập quán và sau cùng qua thời Đông Chu nhất
là từ Khổng Tử nó có một nội dung mới, nội dung luận lý chỉ sự kỷ luật về
tinh thần: Người có lễ là người biết tự chủ khắc kỷ
Khổng Tử chủ trương tòng Chu, giữ pháp điển lễ nhạc của Chu Công
thì tất nhiên rất trọng Lễ và buộc vua chúa phải trọng Lễ. Lễ để duy trì trật tự
xã hội, có trật tự đó thì vua mới được tôn, nước mới được trị, nếu vua không
trọng lễ thì còn bắt ai trọng nó được nữa.
Chính vì vậy trong việc trị nước cũng như tu thân học đạo, sửa mình để
đạt đức “Nhân” thì “Lễ” là một trong những yếu tố được Khổng Tử rất mực
coi trọng. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn Luận ngữ.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử thường nhắc rất nhiều đến chữ Lễ. Có thể
nói, trong mỗi chương đều có nhiều đoạn bàn về Lễ, có khi chủ động giảng
giải, có khi thụ động trả lời câu hỏi của các đồ đệ liên quan tới lễ. Có thể phân
chia ý nghĩa của Lễ trong Luận Ngữ theo những phạm trù sau:
Thứ nhất, Lễ là một phương cách biểu tả hòa khí, và như vậy nó có thể
giúp tề gia, trị quốc. Hữu Tử, một đồ đệ của Khổng Tử nói: "Lễ chi dụng, hòa
vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi mỹ; tiểu đại do chi. Hữu sở bất hành. Tri
hòa nhi hòa, bất dĩ lễ tiết chi, diệc bất khả hành giã" (Trong việc giữ lễ, có
niềm hòa khí là quí trọng. Đạo của những vị vua xưa rất tốt ở chỗ đó, từ
những việc lớn cho chí những việc nhỏ, các ngài dùng niềm hòa khí mà phổ
cập vào Lễ. Nhưng có việc này chẳng nên làm: biết rằng hòa là quí, rồi trong
mỗi việc, cứ dùng lấy hòa, chớ chẳng dùng Lễ mà kiềm chế, như vậy là phóng
đãng xí xóa quá. Đó là việc không nên làm) [Luận ngữ, Học nhi, 12].
13
Thứ hai, Lễ biểu hiện chính nền đạo đức. Theo Khổng Tử, căn bản của
Lễ không có chi khác hơn là chính nền đạo đức. Ðạo nhân, đạo nghĩa, đạo tín

(tức chân thành)…, là những đức tính căn bản củaLễ. Khổng Tử viết: “Nhân
nhi bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?” [Luận ngữ, Bát
dật, 3]. Một người thiếu Lễ, không thể là người quân tử. Trung, hiếu thực ra
chỉ là những quy tắc tất yếu xây dựng trên nhân, nghĩa, và tín, trong khi Lễ là
một phương thế biểu hiện những đức tính trên. Khổng Tử viết: “Trong cuộc lễ
vui, nếu xa hoa thái quá, thì kiệm ước còn hơn. Trong việc tang khó, nếu lòa
loẹt thái quá, thì lòng đau xót còn hơn” (Trong những dịp vui sướng, may
mắn, người ta hay bày cuộc lễ với mọi sự xa xỉ, ngỡ rằng có vẻ sang trọng
mới gọi là lễ. Nhưng gốc lễ ở tại nơi vừa phải, chớ xa xỉ cũng chớ bỏn sẻn.
Trong lúc tống táng, người ta hay làm cho lớn đám để lấy thể diện, ngỡ rằng
đó là đúng lễ. Nhưng trong dịp này, gốc lễ ở tại lòng đau thương) [Luận ngữ,
Bát dật, 4].
Thứ ba, Lễ là những nghi thức mà ta phải theo, tùy theo nơi chốn, tùy
theo địa vị, tùy theo tương quan giữa chúng ta với những người ta gặp. Trong
chương Thuật Nhi, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh tới nghi thức cũng như thái
độ ta phải có khi cúng tế, khi thụ tang, khi gặp thiên tai… Khổng tử viết:
“Sanh, sự chi dĩ lễ, tử, táng chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ” (Hễ làm con, khi cha mẹ còn
sống phải phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ mãn phần, phải chôn cất cho có lễ,
rồi những khi cúng tế, cũng phải giữ đủ lễ phép nghiêm trang) [Luận ngữ, Vi
chính, 5].
Thứ tư, Lễ dùng để chỉ chế độ đẳng cấp và trật tự luân lý. Khổng Tử đề
xướng Lễ trị nhằm ổn định trật tự xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là biểu hiện
của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng bổn phận, thân
phận của mình tức là phải chính danh. Bởi ông cho rằng trong xã hội, mỗi vật,
mỗi người đều có một công dụng nhất định. Nằm trong một mối quan hệ nhất
định và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi danh đều có những tiêu
14
chuẩn riêng. Vật nào, người nào mang danh nào phải được thực hiện và thực
hiện bằng được những danh đó không thì phải gọi bằng danh khác. Khổng Tử
giải thích Chính là làm cho mọi việc ngay thẳng, vua phải ra vua, bề tôi phải

ra bề tôi, cha phải ra cha, con phải ra con. Khổng Tử nói “Nếu danh không
chính thì lời nói sẽ không đúng đắn. Lời nói không đúng đắn sẽ dẫn tới việc
thi hành sai. Khi đó, người với người trong xã hội sẽ không còn kính trọng
nhau, không còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo và ngươì dân mất nơi trông cậy,
nhờ vả” [Luận ngữ, Tử Lộ, 3]. Cho chính danh là phương tiện nhằm thực hiện
Lễ trong xã hội nên Khổng Tử đã chia xã hội thành 5 quan hệ chính. Quan hệ
vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, ban bè. Mỗi quan hệ có những tiêu chuẩn
riêng cho từng đối tượng như cha hiền con thảo, anh tốt em ngoan, chồng biết
điều vợ nghe lẽ phải, bề trên rộng rãi - bề dưới kính thuận, vua nhân tôi trung.
Quan niệm về Lễ không chỉ dừng ở Khổng Tử mà nó đã được phát
triển và mang những hàm nghĩa khác nhau trong quan niệm của một số triết
gia khác như Mạnh Tử, Tuân tử hay trong cả Lễ Ký - một tập sách do nhiều
nho gia thời Hán viết ra.
Mạnh Tử là người đã kế thừa và phát triển học thuyết của Khổng Tử.
Song trong những quan niệm về Nhân, Lễ, Nghĩa cũng có những điểm khác
biệt. Có thể nói Mạnh Tử là người đã gắn liền chữ nghĩa với các đức tính
khác của nền đạo đức nho gia: nhân nghĩa, lễ nghĩa, đạo nghĩa, tín nghĩa…
Ông chủ trương lấy nhân nghĩa làm nền tảng cho tất cả nền đạo đức. Mạnh Tử
viết: "Vị hữu nhân nhi di kỳ thân giả giã. Vị hữu nghĩa nhi hậu kỳ quân giả
giã". (Không thể có người có lòng nhân mà không hiếu thảo cha mẹ. Không
thể có người có nghĩa mà lại tư lợi bỏ bê việc vua việc nước) [Mạnh Tử,
Lương Huệ Vương, 1]. Ở đây, chúng ta sẽ không bàn về lý do tại sao Mạnh
Tử lại chủ trương như vậy, và chú tâm tới ý nghĩa cũa chữ lễ nghĩa. Khi ghép
lễ nghĩa với nhau, Lễ không chỉ còn là những phương thế, hay quy tắc, hay
chỉ là một tinh thần như thấy trong tư tưởng của Tuân Tử và Lễ Ký sau này.
15
Lễ nghĩa bây giờ mang tính chất như một cái thước đo lường, cái thước phát
xuất từ nội tâm nhưng có thể đo được con người nhờ vào hình thức ở bên
ngoài. Nói cách khác, nếu Nhân là cái bản chất của đạo đức, thì Nghĩa là cái
thước đo, là cái mức, cái hình mà chỉ theo đó ta mới nhận ra được Nhân. Thí

dụ, cùng một hành động bố thí, thì bố thí cho người nghèo túng là có lòng
nhân, nhưng cho tiền cho người dư giả thì vô nghĩa, mà đút tiền cho tham
quan ô lại thì là thất nhân. Sự phân biệt nơi đây dựa trên Nghĩa. Vậy thì, ta chỉ
nhận ra được lòng nhân, và chỉ thi hành đạo Nhân một cách chính xác nếu
chúng ta hiểu được nghĩa.
Cũng như trong quan niệm về Nghĩa, Mạnh Tử quan niệm Lễ là những
hình thức, nghi thức. Nhưng nếu nghi thức đó áp dụng sai, hay cho những
người không xứng đáng thì một nghi lễ như vậy mất hết cả ý nghĩa của nó, và
nó không thể phát huy được tinh thần của lễ. Vậy nên, Mạnh Tử mới đòi buộc
Lễ luôn phải đi với Nghĩa, Nhân phải có Nghĩa, và ngay cả đạo cũng cần phải
có Nghĩa, mới có thể thực hiện được.
Nếu như Mạnh Tử đề cao Nghĩa thì Tuân Tử lại kế thừa nhiều tư tưởng
của Khổng Tử trong việc đề cao Lễ. Tuân Tử là nhà nho cuối thời Chiến quốc
song với tư tưởng cho bản tính con người là tính ác nên Tuân Tử chủ trương,
nhiệm vụ chính của đạo nho là giáo hóa khiến con người thành thiện. Và như
thế, Tuân Tử hiểu Lễ gần như pháp luật, hay như là một phương thế hữu dụng
để đạt tới mục đích trên. Ðối với ông, Lễ được áp dụng để trị tính bản ác, để
làm điều kiện hay quy tắc quy định sinh hoạt của mỗi người trong xã hội, Lễ
cũng là một phương thuốc để kiềm chế dục vọng, và quan trọng hơn cả, Lễ
phải là một mực thước, quy định rõ ràng để xác định, phân chia quyền lợi
cũng như nghĩa vụ cho mọi người. Cho nên theo Tuân Tử Lễ là một loại pháp
luật tốt nhất, một phương thức có hiệu quả nhất để bảo tồn trật tự xã hội, để
cải hóa bản tính con người, và lẽ dĩ nhiên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp
cầm quyền. Tuân Tử nói: “Người sinh ra là có lòng muốn, muốn mà không
16
được thì không thể không tìm, tìm mà không có chừng mực, giới hạn, thì
không thể không tranh. Tranh thì loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét
cái loạn, cho nên chế lễ nghĩa để phân biệt trật tự, để nuôi cái muốn của người
ta, khiến cái muốn không đến cùng kiệt các vật, các vật không làm cùng kiệt
cái muốn, các vật với cái muốn phù trì lẫn nhau mà sinh trưởng, ấy là cái sở

khởi của lễ. Cho nên lễ là nuôi vậy. Bậc quân tử đã được cái nuôi, lại muốn
cái phân biệt. Sao gọi là phân biệt? Rằng: sang hèn có bậc, lớn nhỏ có khác
nhau, nghèo giàu khinh trọng đều có cái xứng đáng vậy” [Lễ luận, XIX].
Tuân Tử còn cho rằng bất cứ việc gì không có Lễ thì hỏng “Lễ là cái
cùng cực của sự trị và sự biện biệt, cái gốc của sự là cho nước mạnh, cái đạo
của sự uy hành, cái cốt yếu của công danh. Bậc vương bậc công theo đó mà
được thiên hạ, không theo đó thì làm hỏng xã tắc. Cho nên áo giáp bền, ngọn
giáo nhọn không đủ để thắng trận, thành cao hào sâu không đủ lấy làm bền
vững, lệnh nghiêm hình nhiều không đủ lấy làm uy. Dùng lễ thì việc gì cũng
thi hành được, không dùng lễ thì việc gì cũng bỏ cả” [Nghị binh, XV].
Tuân Tử rất lạc quan về vai trò của Lễ, coi nó như thể là một vị thuốc
vạn năng, có thể “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được: “Lễ đối với việc quốc
gia như quả cân và cán cân đối với sự nặng nhẹ, như dây và mực đối với
đường thẳng và đường cong. Cho nên người mà không có lễ thì không sinh,
việc mà không có lễ thì không nên, quốc gia mà không có lễ thì không yên”
[Đại lược, XXVII].
Lễ Ký là một tập sách được nhiều nho gia thời Hán (cả Tây Hán lẫn
Ðông Hán) viết ra. Hay nói đúng hơn, họ sao chép lại những ý kiến của tiền
nhân về Lễ (từ các kinh điển như Kinh Lễ, Luận Ngữ, Ðại Học, Trung Dung,
Mạnh Tử và cả Tuân Tử), rồi thêm thắt vào với những lý giải riêng. Trong Lễ
Ký, có thể thấy Lễ có những công năng như sau:
17
Thứ nhất, Lễ là một phương thế đào luyện tình cảm, khiến con người
hòa nhã. Các tác giả Lễ Ký chủ trương, một khi có tính tình hòa nhã, con
người mới có thể thành người đạo đức được.
Thứ hai, Lễ là một cái thước đo lường điều phải điều trái. Lễ xác định
trật tự trên dưới, trước sau, cũng như sự quan hệ phải có giữa mọi người.
Trong Lễ Ký có viết: “Phù lễ giả, sở dĩ định thân sơ, quyết hiểm nghi, biệt
đồng dị, minh thi phi dã”. - Đối với người có lễ thì dùng để xác định phân biệt
tình thân thiết với tình xa lạ, lễ cũng xác quyết được cái gì xác đáng khỏi cái

gì đáng nghi ngờ, cũng phân biệt được cái điều giống nhau với điều khác
nhau, và minh xác về điều phải điều trái.
Thứ ba, Lễ là quy tắc khiến ta phải luôn theo trung đạo, tức cái nền đạo
lý luôn đúng, và vì thế tránh được những quá khích, quá lố, cực đoan: “Lễ hồ,
lễ hồ, sở dĩ chế trung dã”. - Ôi ái lễ, ôi ái lễ, mục đích cũng chỉ để tới trung
đạo.
Thứ tư, Lễ cũng có công năng giúp con người biết tiết dục: “Lễ dã,
nhân nhân chi tình nhi vi chi tiết văn, dĩ vi dân phường giả dã”. - Từ tình cảm
của con người, lễ khiến ta tiết độ, và như vậy giúp người dân biết phòng ngừa.
Như vậy có thể thấy, vai trò của Lễ trong Lễ Ký bị hạn hẹp vào trong
cái công năng giúp con người xã hội kìm hãm được những điều mà họ ham
thích nhưng không được phép làm mà thôi. Ðiều đáng nói, là khi hiểu như
vậy, Lễ không khác pháp luật là bao. Nếu có khác biệt, thì cũng chỉ là thời
điểm: Lễ đề phòng không cho ta làm những điều trái, trong khi pháp luật đem
lại trật tự một khi chúng ta đã có những hành động sai đạo lý.
Nói tóm lại dù Lễ có được hiểu ở những khía cạnh nào và ở các nhà
Nho khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau song vẫn lấy tư tưởng Lễ
của Khổng Tử làm tiền đề lý luận bởi mục đích của Nho gia nói chung và
Khổng Tử nói riêng là nhằm ổn định trật tự xã hội và giáo hóa con người. Và
18
chúng ta không thể phủ nhận phạm trù Lễ của Khổng Tử đã ít nhiều thực hiện
được mục đích đó trong lịch sử xã hội Trung Hoa.
1.2.2. Các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ
1.2.2.1. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhân
Trong Luận Ngữ khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần
tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Theo nghĩa rộng nhất Nhân là nguyên tắc đạo đức. Theo Khổng Tử
Nhân là nội dung, Lễ là hình thức của Nhân và Chính danh là con đường để
đạt đến điều Nhân. Học trò của Khổng Tử hỏi, thế nào là Nhân, Khổng Tử trả
lời: “Thương người (Ái nhân). “Thương người”, “điều gì mà mình không

muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác”(Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân)¸ “Mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn
thành đạt cũng giúp người khác thành đạt” (Kỷ dục lập nhi, lập nhân, kỷ dục
đạt nhi đạt nhân) [Luận ngữ, Ung dã, 28] Đồng thời Nhân còn được coi là cái
quy định bản tính con người thông qua Lễ, Nghĩa, quy định quan hệ giữa
người với người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Chính vì vậy mà Lễ và
Nhân không thể tách rời.
Trong mối quan hệ này Khổng Tử cho đức nhân là gốc của Lễ- Nhạc.
Ông viết “Nhân nhi bất nhân như lễ hà? Nhơn nhi bất nhân như nhạc hà?”
nghĩa là “Người ta mà chẳng có lòng nhân, làm sao mà thi hành lễ tiết? Người
ta chẳng có lòng nhân làm sao mà thi hành âm nhạc?” (Lễ gốc ở kính, người
bất nhân chẳng có niềm cung kính, đâu có thể hành lễ cho nghiêm trang. Nhạc
chủ ở hòa, người bất nhân chẳng có niềm hòa khí thì đâu có thể nào trổi nhạc
cho tinh vi) [Luận ngữ, Bát dật, 3]. Do đó người không có đức Nhân thì Lễ là
vô nghĩa và nhạc cũng chẳng để làm gì.
Trong việc rèn luyện để trở thành người Nhân Khổng Tử viết: “Khắc
kỷ phục lễ vi nhân. Nhứt nhựt khắc kỷ, phục lễ, thiên hạ qui nhân yên.Vi nhân
do kỷ, nhi do nhơn hồ tai?” (Làm nhân là khắc kỷ, phục lễ, tức là chế thắng
19
lòng tư- dục, vọng- niệm của mình mà theo về lễ tiết. Ngày nào mà mình khắc
kỷ, phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự nhiên cảm hóa mà theo về
đức nhân. Vậy làm nhân là do nơi mình, chớ há do nơi ai) [Luận ngữ, Nhan
Uyên, 1]. Mà muốn thực hành điều đó theo Khổng Tử “Sắc chi chẳng hạp lễ
thì mình đừng ngó, tiếng chi chẳng hạp lễ thì mình đừng nghe, lời chi chẳng
hạp lễ thì mình đừng nói, việc chi chẳng hạp lễ thì mình đừng làm” [Luận
ngữ, Nhan Uyên, 1] Có nghĩa là cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, không hợp
lễ thì đừng nghe, không hợp lễ thì đừng nói, không hợp lễ thì đừng làm.
Khổng Tử còn quan niệm “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” người Nhân là
người biết sửa mình theo điều Lễ, biết chế ước những ham muốn, dục vọng
của bản thân, hạn chế tất cả những gì về cá nhân mình, phục tùng kỷ cương

mà lễ giáo quy dịnh đó là người Nhân
Khổng Tử còn cho rằng con người muốn đạt được điều nhân phải thực
hiện được những điều Lễ, nếu nhân là mục đích thì Lễ là phương tiện để thực
hiện mục đích. Bởi vậy không có Lễ thì không thể là Nhân được và là người
Nhân thì luôn phải có Lễ. Khổng Tử nói “Bất tri lễ vô dĩ lập dã”- không biết
lễ thì không biết lập thân. Muốn làm người phải hiểu những điều lễ nghĩa,
hiểu được nó thì mới có thể ứng xử phù hợp
Tóm lại để đạt được đức Nhân con người phải có Lễ, Lễ là hình thức
biểu hiện của Nhân, con người sẽ không đạt được Nhân nếu như: xem, nghe,
nói, làm điều trái Lễ. Và vì vậy cũng như nhạc, thi, thư, Lễ là phương tiện để
giáo hóa con người. Nếu không có Nhân mà dùng Lễ thì Lễ chỉ là hình thức
sáo rỗng mà thôi.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa Lễ và Nghĩa
Theo Khổng Tử Nghĩa chính là để cái thích đáng hay cái đạo lý.
“Khổng Tử nói: …thấy việc nghĩa mà chẳng làm, ấy là người chẳng có khí
dõng” (Tử viết: …kiến nghĩa bất vi, vô dõng dã) [Luận ngữ, Vi chính, 24].
20
Hay Khổng Tử còn nói: “…Này, đạt nhân là phải có tính chất phác và ngay
thẳng”.
Theo Khổng Tử Nghĩa trái ngược với lợi “Bực quân tử tinh tường về
việc nghĩa, kẻ tiểu nhơn rành rẽ về việc lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ
ư lợi) [Luận ngữ, Lý nhân, 16].
Khổng tử cho rằng, con người theo đuổi phú quý là lẽ thường, phú quý
là dục vọng của con người.
Khi bàn đến phú quý tức là nói đến lợi, con người luôn theo đuổi cái lợi
cá nhân cho mình. Khổng Tử nói “Thấy lợi thì nghĩ tới nghĩa” tức là lấy
Nghĩa làm cơ sở để thu nhận hoặc từ chối lợi, nếu lợi ấy không hại đến Nghĩa
thì nhận, nếu lợi ấy có hại đến Nghĩa thì từ chối. Khổng Tử nói: “Phú quí thì
ai cũng muốn, nhưng không lấy đạo mà được thì không nhận, bần tiện thì ai
cũng ghét, nhưng không lấy đạo mà làm cho khỏi, thì không bỏ”. (Phú dữ quí,

thị nhơn cho sở dục giã: bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất xử giã. Bần dữ tiện, thị
nhơn chi sở ố giã, bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khử giã) [Luận ngữ, Lý nhân, 5].
Hễ phải Nghĩa thì làm gì cũng không nề hà, mà không phải Nghĩa thì dẫu
được gì cũng không thiết Khổng Tử nói: “Phú nhi khả cầu giã,tuy chấp tiên
chi sĩ, ngô diệc vi chi, như bất khả cầu, tùng ngô sở háo” (giàu mà nên cầu
được, thì dù làm người cầm roi đi hầu, ta cũng làm. Nếu không nên cầu, thì cứ
theo cái thích của ta) [Luận ngữ, Thuật nhi, 11]. Người quân tử thì không bao
giờ thấy điều lợi mà bỏ việc nghĩa, nếu làm việc phi nghĩa mà được phú quí,
thì đành chịu bần tiện còn hơn. Khổng Tử nói: Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc
quăng nhi trẩm chi, lạc tại kỳ trung hỹ. Bất nghĩa nhi phú thả quí, ư ngã như
phù vân: ăn gạo xấu, uống nước lã, gấp cánh tay mà gối đầu, tuy thế cũng có
cái vui ở trong đó. Làm điều bất nghĩa mà giàu sang, thì ta coi như đám mây
nổi [Luận ngữ, Thuật nhi, 15]. Theo đuổi phú quý nhưng không được làm trái
với Nghĩa. Khổng tử cho rằng con người ta cần cả lợi (phú quý) và Nghĩa.
21
Nhưng Nghĩa chiếm vị trí số một, Nghĩa chính là hành vi, "hành vi" con
người phù hợp với Lễ chính là Nghĩa.
Khổng Tử nói rằng: “Người quân tử lấy đạo nghĩa làm căn bản, dùng lễ
để thi hành, biểu lộ bằng đức khiêm tốn, hoàn thành nhờ chữ tín. Quân tử vậy
thay!” (Quân tử nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ hành chi, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành
chi. Quân tử tai!) [Luận ngữ, Vệ Linh Công, 17]. Cái gọi là “nghĩa dĩ vi chất,
lễ dĩ hành chi”, tức là lý luận lấy Lễ để quy về Nghĩa. “Chất” ở đây chính là
thực chất, “lễ dĩ hành chi” tức là lấy Lễ để hành Nghĩa, làm điều nghĩa. Nói
cách khác Lễ dựa vào nghĩa mà được xác lập nên, Nghĩa là thực chất của Lễ,
Lễ là biểu hiện của Nghĩa. Tất cả mọi nghi thức, toàn bộ trật tự đời sống đều
lấy tính chính đáng, hay lấy đạo lý làm cơ sở.
Như vậy có thể nói rằng Nghĩa chính là cơ sở để hình thành Lễ còn Lễ
chính là mục tiêu, tiêu chuẩn để xác hành vi có Nghĩa hay không.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa Lễ và Pháp
Pháp theo nghĩa hẹp là luật lệ, quy định, là điều luật, hiến lệnh có tính

chất khuôn mẫu mà mọi người không phân biệt vua tôi, trên dưới, sang hèn
đều phải tuân theo, theo nghĩa rộng pháp có thể hiểu như là thể chế chế độ xã
hội. Hàn Phi Tử trong thiên “Định pháp” đã viết: “Luật pháp là những hiến
lệnh soạn ra dành riêng ở quan phủ, hình phạt ắt phải tùy lòng người. Thưởng
thì danh riêng cho ai tôn trọng luật pháp và phạt thì áp dụng cho những kẻ trái
lệnh vậy” hay Pháp còn là tiêu chuẩn căn cứ khách quan để định rõ danh
phận, tỏ rõ thị phi, phân rõ tốt xấu, để mọi người biết rõ bổn phận, trách
nhiệm của mình, biết rõ điều gì phải làm và điều không nên làm.
Như vậy, có thể nói Lễ và Pháp đều là những quy định nhằm ổn định
trật tự xã hội. Nếu như Khổng Tử chủ trương giáo hóa con người bằng đạo
đức thì Hàn phi lại chủ trương trị nước bằng Pháp.
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người là nói
đến đạo đức “Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không
22
thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử
chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc
của đức nhân”. Chính vì vậy Khổng Tử đã đề xuất đường lối “Đức trị” - đường
lối trị nước bằng đạo đức. Khổng Tử quan niệm làm chính trị mà dùng đức thì
như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả. Ông còn cho
rằng dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn
phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để bắt dẫn
dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo
đường chính. Để thực hiện được Đức trị phải có Nhân, Lễ và Chính danh.
Khổng Tử cho rằng phải có Lễ bởi Lễ cần thiết để duy trì trật tự xã hội, có trật
tự xã hội thì vua mới được tôn, nước mới được trị. Mặt khác Lễ có nội dung
luân lý của nó trong mối quan hệ chặt chẽ với Nhân. Ông coi Lễ là chính đạo
mà mọi người nên thi hành, còn nếu con người hay theo dục vọng của mình mà
trái ngược với chính đạo tức là trái ngược với điều nhân. Vì vậy người cầm
quyền phải giữ Lễ: Vua khiến bề tôi phải giữ Lễ, bề tôi thờ vua phải trung. Cho
nên Khổng Tử đã chủ trương Lễ trị nhằm ổn định trật tự xã hội.

Ngược lại với quan điểm của Khổng Tử, Hàn Phi cho rằng trong thiên
hạ người hiền thì ít mà còn hạng bất nhân thì nhiều nên trị nước phải dùng
luật pháp. Tư tưởng Pháp trị được khởi xứng từ Quản Trọng, Thận Đáo, Thân
Bất Hại, Thương Hưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Hàn Phi đã tổng
hợp giữa Pháp, Thế và Thuật trong phép trị nước thì Pháp Thế Thuật tương
quan, liên hệ mật thiết với nhau. Pháp là nội dung của chính sách cai trị còn
Thế và Thuật như là công cụ hay phương tiện để thực hiện chính sách đó. Hàn
Phi cho rằng sự trừng phạt không cần đến tước vị của giới quý tộc vì luật
không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt nhằm mục đích thực hiện
Pháp để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám ít người, người già được hưởng
23
hết tuổi đời, bọn trẻ mô côi được nuôi lớn, biện giới không bị xâm phạm, vua
tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay cầm tù.
Tuy đường lối trị nước của Khổng Tử và Hàn Phi còn nhiều hạn chế
song có thể thấy Đức trị và Pháp trị đều có chung mục đích là tôn trọng pháp
luật, nhằm ổn định trật tự xã hội. Luật của Pháp trị là luật pháp còn luật của
nho giáo là tôn Lễ, Lễ không phải là luật nhưng Lễ có thể thay luật nếu như
mọi người hiểu Lễ và thi Lễ.
1.2.2.4. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhạc
Khổng Tử cho rằng Nhạc thanh thiện ác đều do ở lòng người. Lòng
người cảm điều thiện thì thiện thanh ứng. Sự thiện ác của nhạc là bởi lòng
người mà sinh ra, rồi lại cảm lòng người mà khiến cho thành ra thiện hay ác.
Cái tác dụng của Nhạc cốt hòa thanh âm cho tao nhã để di dưỡng tính
tình. Khổng Tử đã nói: “Trí nhạc dĩ trị tâm, tắc dị trực từ lượng chi tâm du du
nhiên sinh hỹ: xét về nhạc để trị lòng người, thì cái lòng giản dị, chính trực, từ
ái, thành tín, tự nhiên phơi phới mà sinh ra” (Lễ ký: Tế nghĩa, XXIV). Thánh
nhân biết nhạc có cái thế lực rất mạnh về đường đạo đức, cho nên mới chế
nhạc để dạy người.
Nhạc cũng như Lễ rất có ảnh hưởng về đường chính trị. “Thanh tâm chi

đạo, dữ chính thông hỹ: đạo thanh âm thông với chính trị vậy” (Nhạc ký,
XIX). Dùng Nhạc cũng như dùng Lễ phải lấy giữ đạo trung. Nhạc khiến
người ta đồng thương, đồng vui. Nhưng thương hay vui đều phải lấy điều hòa
làm chủ.
Lễ và Nhạc đều dùng để sửa đổi tâm tính cho ngay chính hay nói cách
khác Lễ và Nhạc đều là phương tiện nhằm giáo hóa con người góp phần ổn
định trật tự xã hội. Lễ cốt ở sự cung kính, để trật tự cho phân minh, nhạc cốt ở
sự điều hòa, để khiến tâm tính cho tao nhã. Hai bên dung hòa với nhau thì
mới hoàn toàn được. Nếu có Lễ mà không có Nhạc thì nhân quần ở với nhau
24

×