Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

TRIỂN VỌNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY sản VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG mại tự DO VN EU được ký kết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.17 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam được coi là một nước có tiềm năng rất lớn về thủy sản
cả nước ngọt và nước mặn, do đó có nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tạo ra nguồn cung
nguyên liệu dồi dào cho ngành chế biến thủy sản phục vụ nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Nhờ vậy, xuất khẩu thủy sản đã trở thành
một trong những lĩnh vực xuất khẩu quan trọng nhất của nền kinh tế
mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước và luôn nằm trong danh
sách những ngành có giá trị xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, tạo
nguồn thu nhập đáng kể cho nông - ngư dân và các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực này. Theo Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy
sản Việt Nam (VASEP), năm 2014 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy
sản đạt 7.836 triệu USD, tăng 16,74% so với năm 2013, bình quân
tăng 14,27%/năm. Năm 2014 kim ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm
25,39% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp và
2,65% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Trong số các thị trường
xuất khẩu thủy sản chủ yếu của Việt Nam, thị trường EU đóng một
vai trò vô cùng quan trọng. Trong suốt nhiều năm liền thị trường này
(cùng Mỹ và Nhật Bản) là một trong ba thị trường xuất khẩu thủy
sản lớn nhất của Việt Nam.Ngày 4 tháng 8 năm 2015, Việt Nam và
1

1


EU đã công bố việc kết thúc cơ bản đàm phán Hiệp định Thương
mại Tự do giữa Việt Nam và EU, Việt Nam và EU sẽ xóa bỏ thuế


nhập khẩu đối với hơn 99% số dòng thuế. Đối với rất ít số dòng thuế
còn lại, hai bên sẽ dành cho nhau hạn ngạch thuế quan, hoặc cắt
giảm thuế quan một phần.Đây có thể coi là mức cam kết cao nhất
mà Việt Nam đạt được trong các Hiệp định FTA đã ký kết cho tới
nay”.
Mặc dù vậy, thị trường xuất khẩu thủy sản thế giới ngày càng
xuất hiện nhiều đối thủ mới cũng như tính cạnh tranh giữa các nước
xuất khẩu thủy sản ngày càng tăng dưới tác động của xu hướng tự
do hoá thương mại. Trong khi đó nền thủy sản trong nước dù đã có
nhiều thành tựu tiến bộ song vẫn bộc lộ những điểm yếu kém chưa
khắc phục được, đồng thời cơ sở vật chất đã lạc hậu không đáp ứng
được các nhu cầu của thời đại.Bên cạnh đó, trong những năm gần
đây đã có rất nhiều vấn đề đặt ra với hoạt động xuất khẩu thủy sản
ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng
thủy sản.Ngành thủy sản Việt Nam đã chứng kiến và bị lôi kéo vào
những vụ kiện bán phá giá, những tin đồn về chất lượng sản phẩm
đồng thời đang phải đối mặt với rất nhiều bất lợi của thị trường.Bên
cạnh đó, các rào kĩ thuật và thương mại, lượng kháng sinh, nguồn
gốc xuất sứ và hình thức điều kiện đánh bắt, về kiểm dịch, đang là
thách thức đối với ngành thủy sản Việt Nam. Vì vậy, đề tài: “TRIỂN
VỌNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN VIỆT NAM
2

2


SANG THỊ TRƯỜNG EU SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
TỰ DO VN-EU ĐƯỢC KÝ KẾT” được chọn để nghiên cứu.
2.


Mục đích nghiên cứu của đề tài

Hiện có 461 DN thủy sản Việt Nam đủ điều kiện được cấp phép
xuất khẩu vào EU, chỉ đứng sau Trung Quốc. Do đó, FTA với EU
được nhận định sẽ mang lại nhiều cơ hội cho ngành thủy sản để mở
rộng thị phần tại EU.
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn trong FTA không chỉ là chất lượng
sản phẩm, mà còn là những yêu cầu khắt khe với DN nên đây sẽ là
thách thức không nhỏ cho ngành thủy sản xuất khẩu Việt Nam.
Thứ nhất, nghiên cứu tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang
thị trường EU trong những năm qua. Xem xét những thành tựu đạt
được, hạn chế, những quy định của EU đối với mặt hàng thủy sản
nhập khẩu hiện nay.
Thứ hai, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

a Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu một số vấn đề về thủy sản và xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam.
- Nghiên cứu những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU.
b Phạm vi nghiên cứu:
3

3



Về nội dung: nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến trình độ và khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị
trường EU trong thời gian qua và triển vọng, tập trung chủ yếu về
một số lĩnh vực sau đây: thị trường xuất khẩu, kim ngạch và tỷ trọng
xuất khẩu, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng như những mặt hạn
chếtrong giai đoạn trên.
Về thời gian: số liệu thu thập và nghiên cứu chủ yếu từ năm 2004
đến nay.
4.

Phương pháp nghiên cứu đề tài

Để đạt mục tiêu nghiên cứu, đề án đã sử dụng một số phương pháp
sau đây:
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề vừa toàn diện, vừa cụ thể,
có hệ thống để đảm bảo tính logic của đề tài nghiên cứu.
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương
pháp quy nạp, diễn giải, phương pháp phân tích tổng hợp, phương
pháp phân tích so sánh để phân tích, đánh giá vấn đề và rút ra kết
luận.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quan hệ thương mại Việt Nam-EU

4

4



Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt
Nam sang thị trường EU
Chương 3: Dự báo và triển vọng hoạt động xuất khẩu thủy sản
Viêt Nam sang EU

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM-EU
1.1.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG EU
1.1.1 Đặc điểm tiêu dung củathị trường EU
EU hiện có 28 quốc gia thành viên với dân số hơn 500 triệu
người, mỗi quốc gia có một đặc điểm tiêu dùng riêng do đó có thể
thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về
hàng hoá. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị
trường tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong EU nhưng các
quốc gia này đều nằm trong khu vực Tây và Bắc Âu nên có những
đặc điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh
tế xã hội của các thành viên là khá đồng đều cho nên người dân
5

5


thuộc khối EU có đặc điểm chung về sở thích, thói quen tiêu
dùng.Đa số các nước EU, mức tiêu thụ thủy sản cao nhất là nhóm
người trên 50 tuổi, họ cũng là nhưng người thích dùng các SP tươi
hoặc cần chế biến nấu chín trước khi ăn hơn những người trẻ. Các
lứa tuổi khác đều thích ăn thủy sản, nhưng đặc biệt trẻ em thích ăn
thủy sản ăn liền, fish&chip, fish finger, đóng hộp hơn là hàng tươi.

Mặc dù những khác biệt vẫn tồn tại giữa từng nước, nhìn
chung dân số EU có sức mua cao, tuy nhiên người tiêu dùng ở đây là
những người mua có thái độ phân biệt đối xử, với yêu cầu cao đối
với hàng hóa NK. Người tiêu dùng EU rất quan tâm tới chất
lượng sản phẩm và phương pháp sản xuất bền vững và thân thiện
với môi trường. Mức độ tiện dụng cũng quan trọng ngang với
ATTP, hình thức bao gói, hay “sự tinh khiết” của sản phẩm, tránh sử
dụng các nguyên liệu và các phụ gia không cần thiết.
EU là một thị trường có nhiều quy định kỹ thuật khắt khe, chủ
yếu nhằm bảo vệ sức khỏe con người, môi trường và phát triển bền
vững. Thị hiếu của người tiêu dùng EU hướng nhiều về các yếu tố
sức khỏe và thể chất. Người dân châu Âu đặc biệt quan tâm đến
những sản phẩm có tính năng bảo vệ sức khỏe, chất liệu từ thiên
nhiên, hạn chế hóa chất. Người tiêu dùng khu vực này ngày càng có
xu thế ăn uống lành mạnh, tăng các hoạt động ngoài trời có lợi cho
sức khỏe. Ngoài ra việc thu nhập tăng và dân trí cao khiến người dân
ở đây quan tâm hơn đến những mặt hàng chất lượng cao, đặc biệt
6

6


thể hiện được tính cá thể, người tiêu dùng muốn họ là trung tâm, sản
phẩm phải phục vụ nhu cầu và đề cao tính cá nhân của họ. Các yếu
tố khác cũng được quan tâm nhiều như việc kết nối về thông tin sản
phẩm và trách nhiệm xã hội của sản phẩm và nhà cung cấp, sản xuất.
Hàng hoá được nhập khẩu vào thị trường này phải đảm bảo đầy đủ
về chất lượng, nguồn gốc, mẫu mã vệ sinh an toàn cao. Người tiêu
dùng Châu Âu thường có sở thích và thói quen sử dụng các sản
phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng thế giới vì họ cho rằng những nhãn

hiệu nổi tiếng này gắn với chất lượng sảm phẩm và có uy tín lâu đời
cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an
toàn về chất lượng và an tâm cho người sử dụng.
Thị trường thủy sản EU có thể chia thành 3 khu vực chính:
• Bắc Âu, bao gồm cả Anh, Ireland, Hà lan và các nước thuộc
bán đảo Scandinavian: tiêu dùng chủ yếu các loài thủy sản nước
lạnh như cá tuyết, thu, pollack, cá hồi (trout) … Tại đây, các đồ ăn
sẵn, ăn nhanh thông dụng hơn các nước phía Nam âu (ĐTH), và như
vậy các sản phẩm thủy sản chế biến có thị phần cao hơn hẳn các sản
phẩm thô.
• Các nước vùng Địa Trung hải (Nam Âu): các loài thủy sản tiêu
thụ thông dụng là: cá trích, mực ống, bạch tuộc và các loại nhuyễn
thể. Tại các nước này, phần lớn lượng tiêu thụ là hải sản tươi hoặc
chưa qua chế biến.

7

7


• Trung Âu, gồm cả Áo, Ba lan và CH Czech: Ít có thói quen ăn
thủy hải sản và có mức tiêu thụ thấp nhất EU. Tuy nhiên, các SP cá
ngừ đóng hộp, cá hồi và tôm là thông dụng ở cả 3 khu vực kể trên.
1.1.2

Những quy định của EU đối với mặt hàng thủy sản nhập
khẩu

Hiện nay, EU được coi là thị trường có hệ thống tiêu tiêu chuẩn kỹ
thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm nghiêm ngặt nhất thế giới.

EU thống nhất các qui định về chất lượng, sức khoẻ và an toàn vệ
sinh thực phẩm áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ Châu Âu. Thậm chí,
Pháp và Ý áp dụng quy định khắt khe hơn quy định của EU. Vì vậy,
nhập khẩu thủy sản vào Pháp, Ý có thể vẫn bị từ chối mặc dù đã
tuân thủ đầy đủ các điều kiện của EU. Đặc điểm then chốt các quy
định của EU là hàng thủy sản nhập khẩu vào EU từ các nước thành
viên thứ 3 (không thuộc EU) cần phải được chế biến, đóng gói và
bảo quản tại các cơ quan mà EU cho phép hoạt động. Hàng thủy sản
các nước đưa vào EU phải tuân thủ các quy định sau:
Quy định về vệ sinh: Các nước muốn đưa thủy sản vào EU phải
nằm trong danh sách các nước được phép xuất khẩu vào EU. Các lô
hàng phải kèm theo giấy chứng nhận đáp ứng các yêu cầu do cơ
quan chức năng của nước xuất khẩu cấp.
Quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm: Theo các quy chế
91/492/EEC và 91/493/EEC, các sản phẩm phải đáp ứng tiêu chuẩn

8

8


cụ thể về vệ sinh, độ tươi, nhiễm vi sinh tối đa, dư lượng hóa chất,
chất độc, độc tố sinh học biến và kí sinh trùng.
Quy định về giám sát: Quyết định 49/356/EEC yêu cầu nhà sản
xuất có hàng thủy sản xuất khẩu sang EU phải tổ chức giám sát hoạt
động sản xuất và chế biến của mình phù hợp với tiểu chuẩn HACCP.
HACCP là điều kiện quan trọng của doanh nghiệp xuất khẩu thủy
sản vào EU.
Yêu cầu về bao gói: Trong những năm gần đây, những thay
đổi trong thị hiếu của người tiêu dùng, những cải tiến về bao gói

và sự trỗi dậy của thị trường chung EU đã đòi hỏi EU rà soát lại
những quy định pháp luật với mục đích tăng lựa chọn cho người tiêu
dùng, củng cố năng lực cạnh tranh và làm hài hòa luật pháp của khối
này. Chỉ thị 2007/45/EC đưa ra ngày 21/9/2007 đã bỏquy định kích
cỡ ấn định đối với hàng hóa trước khi đóng gói và các sản phẩm
khác trừ rượu vang và rượu mạnh. Quy định trên bãi bỏnhững quy
tắc về khối lượng danh nghĩa khắt khe đã lỗi thời đối với hàng hóa
đóng gói ở toàn EU. Chỉthị này yêu cầu tất cả các nước thành viên
hủy bỏ những quy tắc như vậy trong luật pháp quốc gia. Theo những
quy định này, các nhà sản xuất bây giờ được tự do lựa chọn kích cỡ
bao gói phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, thiết kế bao gói
và cải tiến phù hợp với chiến lược bán hàng chứ không phải theo
luật pháp. Các công ty XK hiện nay sẽ phải linh hoạt hơn để có thể
hưởng nhiều lợi ích hơn khi chi phí để phù hợp với luật pháp quốc
9

9


gia giảm xuống. Việc bãi bỏ quy định giúp hàng hóa có thể thâm
nhập vào thị trường EU với khối lượng khác nhau.
Quy định vềnhãn mác: Thủy sản bán tại châu Âuphải tuân thủ các
quy tắc về dán nhãn cho thủy sản được định rõ trong Quy định số
104/2000 (EC) và các quy định dán nhãn đặc thù đối với thủy
sản phải tuân thủ các tiêu chuẩn thị trường theo Quy định số
2406/96 (EC).Theo Quy định số 104/2000 (EC) và Quy định số
2065/2001 (EC), nhãn mác hoặc bao gói của thủy sản phải có
những thông tin sau đây:
-Tên thương mại và tên khoa học của các loài. Vì mục đích này,
các nước thành viên EU phải có một danh sách các tên khoa học và

thương mại được chấp nhận trên lãnh thổ nước mình.
- Phương pháp sản xuất (đánh bắt trên biển hay nước ngọt, hay từ
nuôi trồng thủy sản) với những thuật ngữ đồng nhất.
- Khu vực đánh bắt (chỉ rõvùng khai thác strong trường hợp
đánh bắt trên biển hay chỉ dẫn tới nước xuất xứ nếu thủy sản được
đánh bắt trong vùng nước ngọt hoặc nuôi).
Thêm vào đó, những sản phẩm thủy sản nhất định phải tuân
thủ những tiêu chuẩn thị trường theo Quy định số 2406/96 (EC).
Quy định này yêu cầu những lô hàng phải có cùng kích cỡ và độ
tươi đồng nhất. Hạng mục độ tươi và kích cỡ và hình thức trình
bày phải được thể hiện rõ trên nhãn mác đínhtrênlô hàng đó. Những
tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho việc ấn định mức giá chung cho
10

10


từng hạng mục sản phẩm và xác định mức độ chất lượng.Thông tin
mà nhãn mác cung cấp phải dễ hiểu, dễ nhìn thấy, dễ đọc và phải
bằng ngôn ngữ của nước thành viên EU nơi sản phẩm đó được bán.
Các bước phê duyệt chính thức đối với thủy sản nhập khẩu: EU đã
thiết kế một quy trình cho việc đánh giá tính thích hợp của các quốc
gia thứ ba khi xuất khẩu sản phẩm thủy sản vào thị trường EU.
1. Cơ quan quốc gia của nước thứ ba phải nộp một yêu cầu
chính thức cho Tổng cục Y tế và bảo vệ người tiêu dùng của Ủy ban
châu Âu để xuất khẩu cá, sản phẩm thủy sản hoặc nghêu sò sang
EU.Yêu cầu phải có xác nhận rằng chính quyền có thể thực hiện tất
cả các quy định pháp lý liên quan để đáp ứng yêu cầu của EU.
2. Tổng cục Y tế và Bảo vệ người tiêu dùng sẽ gửi một phiếu câu
hỏi. yêu cầuthông tin về pháp luật có liên quan, các cơ quan có thẩm

quyền, vệ sinh và các yếu tố khác sẽ được thu thập và nộp lại.
3. Đối với các sản phẩm nuôi trồng thủy sản, kế hoạch giám sát dư
lượng của nước xuất khẩu cũng phải được đệ trình và phê duyệt
trong giai đoạn này.
4. Sau khi đánh giá, một cuộc thẩm tra của Văn phòng thực phẩm và
Thú y có thể được thực hiện nhằm đánh giá tình hình tại chỗ. Việc
này là bắt buộc đối với các sản phẩm có nguy cơ cao như động vật
có vỏ.
5. Căn cứ vào kết quả đánh giá kiểm tra, và những cam kết từ quốc
gia xuất khẩu, Tổng cục Y tế và Bảo vệ người tiêu dùng sẽ đề
11

11


xuấtmột danh sách các nước, các điều khoản cụ thể mà hàng nhập
khẩu từ đất nước đó sẽ được ủy quyền, kèm theo 1 danh sách cơ sở
đã được phê duyệt trong nước. Những cơsở này sau đó được thảo
luận với các đại diện của tất cả các nước thành viên EU.
6. Nếu các nước thành viên tán thành với các đề xuất, Ủy ban Châu
Âu sẽ thông qua các điều kiện nhập khẩu cụ thể. Danh sách các cơ
sở đủ điều kiện có thể được sửa đổi theo yêu cầu của các nước xuất
khẩu và được công bố rộng rãi trên Internet.
Từ ngày 1/1/2010, thủy sản nhập khẩu vào EU phải phù hợp với
quy định IUU (Illegal unreported and unregulated fishing- Luật phải
chứng minh được nguồn gốc thủy sản). Theo đó các lô hàng phải có
thông tin từ tên tàu khai thác, tên chủ tàu, phương tiện đánh bắt và
vùng biển khai thác, loại sản phẩm và trọng lượng, giấy khai báo
chuyến hàng trên biển, trong khu vực càng, tàu tiếp nhận hoặc đợn
vị tiếp nhận trong càng… Như vậy, để xuất khẩu vào EU, các doanh

nghiệp không thể sử dụng các lô hàng hải sản không rõ nguồn gốc,
không đủ chứng từ.
Ngày 11/1/2012, Ủy ban Châu Âu ban hành quy định số EUsố
16/2012 bổ sung yêu cầu đối với thực phẩm đông lạnh có nguồn gốc
động vật, theo đó, yêu cầu này sẽ được bổ sung vào Mục IV, Phụ lục
II Quy định EC số 853/2004.Theo quy định định tại Mục IV, ngày
sản xuất đối với sản phẩm thủy sản là ngày thu hoạch hoặc đánh
bắt.Tại công đoạn thực phẩm được bao gói theo quy định của Chỉ thị
12

12


số 2000/13 hoặc được sử dụng để chế biến tiếp, cơ sở sản xuất phải
bảo đảm rằng trong trường hợp thực phẩm đông lạnh có nguồn gốc
động vật, cơ sở phải sẵn sàng cung cấp những thông tin vềNgày sản
xuất và ngày cấp đông, nếu khác với ngày sản xuấttới người mà thực
phẩm được cung cấp, theo yêu cầu của Cơ quan thẩm quyền. Trường
hợp thực phẩm được sản xuất từ một lô nguyên liệu khác với ngày
sản xuất hoặc cấp đông, ngày sản xuất gần nhất và/hoặc cấp đông
cũng phải sẵn sàng cung cấp.Người cung cấp thực phẩm đông lạnh
có thể lựa chọn hình thức phù hợp để ghi nhận các thông tin nêu
trên, miễn sao các thông tin nêu trên rõ ràng và sẵn sàng được cung
cấp bởi nhà sản xuất thực phẩm khi thực phẩm được phân phối.
Quy định EU số 28/2012 ngày 11/1/2012 của Ủy ban Châu Âu
(12/03/2012)
Ban hành yêu cầu đối với việc chứng nhận cho nhập khẩu và quá
cảnh lãnh thổ EU đối với một số sản phẩm thực phẩm phối chế và
sửa đổi Quyết định số 2007/275/EC và Quy định EC số 1162/2009.
Theo quy định EU số 28/2012 ngày 11/1/2012 của Ủy ban Châu

Âu:Đối với sản phẩm thủy sản phối chế với các thành phần khác sẽ
thuộc đối tượng điều chỉnh tại quy định này nếu chứa 50% hoặc lớn
hơn thành phần là sản phẩm thủy sản được định nghĩa theo Quy định
tại Điều 4(b) Quyết định 2007/275/EC. Các sản phẩm thực phẩm
phối phối chế (bao gồm xuất khẩu vào EU hoặc xuất khẩu vào nước
khác không thuộc EU nhưng quá trình vận chuyển quá cảnh qua
13

13


lãnh thổ EU) thuộc đối tượng áp dụng của Quy định EU số 28/2012
sẽ phải được chứng nhận theo mẫu chứng thư ban hành kèm theo
Quy định này. Quy định này có hiệu lực từ ngày 01/3/2012, tuy
nhiên các lô hàng thực phẩm phối chế đã được cấp chứng thư theo
quy định tại Điều 5 Quyết định 2007/275/EC trước ngày 01/3/2012
sẽ tiếp tục được nhập khẩu hoặc quá cảnh vào EU cho tới ngày
01/9/2012.
TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM-

1.1

EU
1.2.1

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU

1.2.1.1

Quá trình hình thành


Tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch
Châu Âu (EU) đã đồng ý khởi động đàm phán Hiệp định Thương
mại Tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) sau khi hai Bên hoàn tất
các công việc kỹ thuật.
Thực hiện chỉ đạo của hai Nhà Lãnh đạo, Việt Nam và EU đã chính
thức tuyên bố khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA vào ngày 26
tháng 6 năm 2012. Sau gần 3 năm đàm phán, với 14 phiên chính
thức và nhiều phiên giữa kỳ ở cấp Bộ trưởng, cấp Trưởng đoàn và
các nhóm kỹ thuật, Việt Nam và EU đã đạt được thỏa thuận nguyên
tắc về toàn bộ các nội dung cơ bản của Hiệp định.

14

14


Ngày 4 tháng 8 năm 2015, Việt Nam và EU đã công bố việc kết thúc
cơ bản đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và
EU.
1.2.1.2. Tiến độ đàm phán
-Phiên đàm phán đầu tiên
+Thời gian đàm phán: 8 – 12/10/2012
+Địa điểm đàm phán: Thủ đô Hà Nội
+Nội dung đàm phán: với sự tham gia của 60 chuyên gia đến từ hai
phía, hai bên đã chia sẻ về cách thức tiến hành các vòng đàm phán
kế tiếp dựa trên tinh thần xây dựng. Thống nhất những nội dung cơ
bản về khung Hiệp định để làm rõ những yêu cầu, mong muốn của
mình đối với đối tác. Hai bên đều đang nỗ lực tìm kiếm một thỏa
thuận toàn diện trên các lĩnh vực như biểu thuế, hàng rào phi thuế

quan cũng như các cam kết đối với các nội dung liên quan đến
thương mại khác. Trong đó, nổi bật là vấn đề mua sắm, các vấn đề
chính sách, cạnh tranh, dịch vụ và phát triển bền vững. Hai bên dự
kiến sẽ có 3 vòng đàm phán trong năm 2013 và kết thúc đàm phán
vào năm 2014.
-Phiên đàm phán thứ 2
+Thời gian đàm phán: 22 – 25/1/2013
+Địa điểm đàm phán: Thủ đô Brussels (Bỉ)

15

15


+Nội dung đàm phán: đoàn đàm phán Việt Nam do Thứ trưởng Bộ
Công Thương Trần Quốc Khánh dẫn đầu và bao gồm đại diện của
nhiều bộ, ngành tham gia 12 nhóm đàm phán trong vòng này.
Trưởng đoàn đàm phán EU là ông Mauro Petriccone, Vụ trưởng Vụ
Đông Âu, châu Á và châu Đại Dương thuộc Tổng vụ Thương mại
của EU. Phiên đàm phán thứ hai sẽ bao gồm các nội dung: trao đổi
hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi
trường...Sau phiên khởi động thành công, phiên đàm phán lần này
dự kiến sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình đàm phán FTA giữa Việt
Nam và EU như lãnh đạo 2 bên đã thống nhất. EU hiện là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch năm 2012 đạt
khoảng 20,3 tỷ USD. Với đặc điểm hỗ trợ lẫn nhau của nền kinh tế
Việt Nam và EU, việc tăng cường hợp tác kinh tế, đặc biệt thông qua
FTA, sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ giao thương, đầu tư
Việt Nam-EU, đem lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người
dân của hai bên.

-Phiên đàm phán thứ 3
+Thời gian đàm phán: 23 – 26/4/2013
+Địa điểm đàm phán: tại Thành phố Hồ Chí Minh
+Nội dung đàm phán: với sự tham gia của 12 nhóm thảo luận tại
phiên đàm phán lần này gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch
vụ, đầu tư, hợp tác hải quan, SPS, TBT, phát triển bền vững, pháp
lý-thể chế, v.v. Tại phiên khai mạc ngày 23 tháng 4, Trưởng đoàn
16

16


đàm phán Việt Nam và EU đều nhất trí duy trì tinh thần làm việc
tích cực của hai phiên đàm phán trước, trên cơ sở quan điểm và cách
tiếp cận của nhau để hai bên tiến vào đàm phán thực chất tại phiên
này. Hai bên cũng thống nhất lộ trình các công việc cần thiết để thực
hiện định hướng và mục tiêu thúc đẩy tiến trình đàm phán FTA theo
đúng thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai bên là nỗ lực kết thúc
đàm phán vào cuối năm 2014. Các chuyên gia đàm phán của Việt
Nam và EU tiếp tục trao đổi quan điểm, cách tiếp cận của mình
trong các lĩnh vực cụ thể, đồng thời giới thiệu chi tiết hơn nữa hệ
thống chính sách, quy định liên quan của mỗi bên để giải thích, làm
rõ các đề xuất, yêu cầu của mình. Sau phiên đàm phán, hai bên đều
đã đạt được hiểu biết nhất định về quan điểm, mong muốn, cách tiếp
cận vấn đề của phía đối tác, giảm thiểu tối đa các vấn đề còn khác
biệt, hướng tới thống nhất cách tiếp cận chung. Tiến triển nổi bật
nhất tại phiên này là hầu hết các nhóm đã có dự thảo lời văn tổng
hợp và đi vào thảo luận chi tiết lời văn này. Một số nhóm đã trao đổi
bản yêu cầu và các yếu tố chính của bản chào ban đầu. Trên cơ sở
đó, hai bên sẽ triển khai tham vấn trong nước, tiến tới đàm phán sâu

và chi tiết hơn trong các phiên tiếp theo. Hai bên cũng đã nhất trí lộ
trình và những nội dung sẽ tiếp tục được triển khai để chuẩn bị cho
phiên đàm phán thứ tư.
-Phiên đàm phán thứ 4
+Thời gian đàm phán: 2 – 5/7/2013
17

17


+Địa điểm đàm phán: Brussels (Bỉ)
+Nội dung đàm phán: đoàn đàm phán Việt Nam do Thứ trưởng Bộ
Công thương Trần Quốc Khánh dẫn đầu và bao gồm đại diện của
nhiều bộ ngành. Về phía EU, nhà đàm phán FTA chính Mauro
Petriccone, Vụ trưởng Vụ Đông Âu, châu Á và châu Đại Dương
thuộc Tổng vụ Thương mại của EU, dẫn đầu đoàn đàm phán. Phiên
đàm phán diễn ra ở cấp Trưởng đoàn, Phó đoàn và 12 nhóm đàm
phán, gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp
tác hải quan, SPS, TBT, cạnh tranh, phát triển bền vững, pháp lý thể chế, v.v...Với mục tiêu cố gắng kết thúc đàm phán vào cuối năm
2014, hai bên đã đề ra lộ trình làm việc hết sức tích cực.Phiên đàm
phán này được coi là phiên đàm phán thực chất.Với ba phiên đầu
chủ yếu là thống nhất những nội dung cơ bản về khung hiệp định để
làm rõ những yêu cầu, mong muỗn của hai bên cũng như lời văn của
hiệp định của mỗi bên đối với từng chương. Chính vì vậy, phiên đàm
phán thứ 4 này rất quan trọng trong việc chuyển từ đàm phán làm rõ
lợi ích những yêu cầu của nhau sang đàm phán thực chất để mở cửa
thị trường của nhau như thế nào. Do đó, trọng tâm của phiên đàm
phán thứ 4 sẽ là những vấn đề quan trọng nhất của hai bên, trong đó
đặc biệt được quan tâm là những vấn đề như hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư, mua sắm chính phủ… cũng như những vấn đề khác liên quan đến

khung hiệp định để hai bên thực hiện quá trình mở cửa thị trường
cho nhau, chẳng hạn như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, những quy
18

18


định chung về thương mại hàng hóa… Kết thúc phiên đàm phán này,
hai bên đã đạt được hiểu biết rất sâu về quan điểm, cách tiếp cận,
mức độ mong muốn của đối tác, tạo tiền đề vững chắc cho việc tìm
kiếm giải pháp nhằm giảm thiểu tối đa khác biệt, hướng tới thống
nhất các nội dung phức tạp phù hợp với thực tiễn, năng lực của mỗi
bên. Đây cũng là cơ sở quan trọng để hai bên tiếp tục tham vấn trong
nước, tiến tới đàm phán sâu và chi tiết hơn nữa trong phiên tiếp theo.
Thông qua phiên đàm phán này, Việt Nam và EU sẽ đặt được những
viên gạch để hình thành hiệp định.Tuy nhiên, với đối tác EU thông
thường là các hiệp định tiêu chuẩn rất cao.Chính vì vậy, quá trình
đàm phán hiệp định này của Việt Nam sẽ báo trước là một quá trình
hết sức phức tạp.
-Phiên đàm phán thứ 5
+Thời gian đàm phán: 4 – 8/11/2013
+Địa điểm đàm phán: Thủ đô Hà Nội
+Nội dung đàm phán: Phiên đàm phán diễn ra ở cấp Trưởng đoàn,
Phó đoàn và 11 nhóm đàm phán, gồm thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác hải quan, SPS, TBT, cạnh tranh, phát
triển bền vững, pháp lý-thể chế, v.v... Có bốn vấn đề quan trọng
được đàm phán: Một là, xây dựng một sân chơi bình đẳng cho các
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Hai là, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, liên quan đến bản quyền và quyền tác giả. Ba
là, chỉ dẫn địa lý. Bốn là, phát triển bền vững. Đàm phán FTA là vấn

19

19


đề rất khó. Nhìn vào những nội dung trên, rất khó để có thể xác định
đâu là nội dung hóc búa nhất trong vòng đàm phán lần này. Các
nhóm đã tiến hành đàm phán trong không khí thẳng thắn, cởi mở và
hợp tác. Hầu hết các nhóm tiếp tục thảo luận lời văn tổng hợp trên
cơ sở trao đổi sâu và chi tiết hơn nữa quan điểm, cách tiếp cận của
mình trong các nội dung cụ thể, đồng thời tiếp tục giới thiệu hệ
thống chính sách, quy định liên quan để giải thích các đề xuất, yêu
cầu của mình. Một số nhóm cũng tiếp tục thảo luận bản chào và các
yếu tố của bản yêu cầu trong các lĩnh vực liên quan. Kết thúc Phiên
5, hai bên đã đạt được hiểu biết rất sâu về quan điểm, cách tiếp cận,
mức độ mong muốn của đối tác, tạo tiền đề vững chắc cho việc tìm
kiếm giải pháp thu hẹp tối đa sự khác biệt trong nhiều nội dung.
Trưởng đoàn hai bên và một số nhóm đàm phán cũng đã trao đổi
định hướng xử lý các nội dung, lĩnh vực phức tạp, tính tới thực tiễn
và năng lực của mỗi bên. Hai bên cũng đã thống nhất lộ trình đàm
phán tiếp theo, trong đó có kế hoạch tiến hành các phiên đàm phán
trong năm 2014.
-Phiên đàm phán thứ 6
+Thời gian đàm phán: 13 – 17/1/2014
+Địa điểm đảm phán: Brussels (Bỉ)
+Nội dung đàm phán: đàm phán được tiến hành theo cấp Trưởng
đoàn, Phó đoàn và 12 nhóm các cấp khác với nội dung bao gồm
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác hải quan,
20


20


quy tắc xuất xứ, kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật
trong thương mại (TBT), cạnh tranh, phát triển bền vững, pháp lýthể chế, v.v. Hai Trưởng đoàn đã đề nghị các chuyên gia đẩy nhanh
tiến độ đàm phán, hướng tới kết thúc đàm phán kỹ thuật đối với một
số nội dung mà quan điểm của hai bên không còn nhiều khác biệt.
Đối với những nội dung khác, các nhóm sẽ tiếp tục trao đổi nhằm
thu hẹp khoảng cách trong các nội dung đàm phán. Đồng thời, hai
Trưởng đoàn đã tiếp tục thảo luận chi tiết quan điểm, định hướng và
lộ trình xử lý các lĩnh vực quan trọng nhằm mục tiêu thúc đẩy đàm
phán đối với các nội dung đề ra, hình thành cơ sở để từng bước đưa
đàm phán tới kết quả đáp ứng kỳ vọng của cả hai phía. Hai bên cũng
đã thảo luận lộ trình hướng tới kết thúc đàm phán Hiệp định. Một
trong những khó khăn chính của phía Việt Nam tại vòng đàm phán
lần này, là việc phía EU đòi hỏi khá cao về mở cửa thị trường, đặc
biệt thị trường dịch vụ, thị trường mua sắm chính phủ. Trong khi
quyền lợi của Việt Nam ở Hiệp định này chủ yếu nằm ở thương mại
hàng hóa. Cho nên phía Việt Nam phải đảm bảo cân bằng tổng thể
giữa quyền lợi của Việt Nam với quyền lợi của Liên minh châu Âu,
có tính đến điều kiện phát triển thấp của Việt Nam. Về cơ bản, hai
bên vẫn tìm được tiếng nói chung để giải quyết nhằm thực hiện mục
tiêu đã đặt ra là hoàn tất việc ký kết hiệp định trong năm 2014.
-Phiên đàm phán thứ 7
+Thời gian đàm phán: 17 – 21/3/2014
21

21



+Địa điểm đàm phán: Thủ đô Hà Nội
+Nội dung đàm phán: Với hy vọng có thể hoàn thành việc đàm phán
sớm hiệp định EVFTA sẽ tạo tiền đề giúp các doanh nghiệp EU và
Việt Nam có thể hiện thực hóa những lợi ích từ chính hiệp định
thương mại này, hai bên nỗ lực tiến hành phiên đàm phán thứ 7 được
tổ chức tại Hà Nội. Phía EU tin tưởng việc thực hiện hiệp định sẽ
thúc đẩy hơn nữa quan hệ thương mại và đầu tư cũng nhưng tạo
thêm nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp từ cả hai phía. FTA sẽ bao
hàm thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư, mua sắm công của
chính phủ, quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm chỉ dẫn địa lý và các vấn
đề chính sách khác như các hàng rào phi thuế quan, thú y và thảo y
và các vấn đề về vệ sinh, rào cản kỹ thuật trong thương mại, hải
quan và thuận lợi hóa thương mại và thương mại và phát triển bền
vững.
-Phiên đàm phán thứ 8
+Thời gian đàm phán: 23 – 27/6/2014
+Địa điểm đàm phán: Brussels (Bỉ)
+Nội dung đàm phán: tại phiên này, đàm phán trong tất cả các lĩnh
vực đều được Việt Nam và EU tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ, đặc biệt
là những nội dung hai bên có nhiều lợi ích. Trong thời gian diễn ra
phiên đàm phán lần này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy
Hoàng đã có buổi làm việc với Cao ủy Thương mại EU Karel De
Gucht về đàm phán Hiệp định EVFTA. Đây là lần thứ hai liên tiếp
22

22


Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam và Cao ủy Thương mại EU
làm việc về hiệp định FTA song phương bên lề phiên đàm phán. Tại

buổi làm việc, cả Việt Nam và EU đều tiếp tục khẳng định quyết tâm
đã được Lãnh đạo hai bên thống nhất về việc sớm đạt được thoả
thuận về một Hiệp định FTA toàn diện, có chất lượng cao; đồng thời
thảo luận lộ trình tiếp theo để đạt được mục tiêu này. Cả hai phía
Việt Nam và EU đã thể hiện quyết tâm này trên bàn đàm phán, đặc
biệt là thông qua các bản chào về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch
vụ, đầu tư và mua sắm Chính phủ. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng
Bộ Công Thương, Trưởng đoàn Đàm phán Chính phủ về kinh tế và
thương mại quốc tế dẫn đầu cùng đại diện các Bộ, ngành liên quan
đã tham dự phiên đàm phán. Đàm phán được tiến hành ở cấp Trưởng
đoàn và 12 nhóm gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ,
đầu tư, quy tắc xuất xứ, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và
kiểm dịch động thực vật (SPS), phòng vệ thương mại, phát triển bền
vững, pháp lý – thể chế, sở hữu trí tuệ, v.v. Ở cấp kỹ thuật, các nhóm
tiếp tục thảo luận lời văn tổng hợp trên cơ sở trao đổi sâu và chi tiết
quan điểm, cách tiếp cận của mình. Nhiều nhóm đã thu hẹp được
đáng kể khoảng cách trong nhiều nội dung cụ thể. Các nhóm đàm
phán về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và mua
sắm Chính phủ cũng tiếp tục thảo luận bản chào mở cửa thị trường
và bản yêu cầu về điều chỉnh bản chào trong các lĩnh vực liên quan.
Ở cấp Trưởng đoàn, Việt Nam và EU cũng dành nhiều thời gian thảo
23

23


luận chi tiết định hướng xử lý những vấn đề then chốt, phức tạp, có
ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ chung của đàm phán với mong
muốn tìm kiếm giải pháp phù hợp với năng lực, kỳ vọng của mỗi
bên, thống nhất lộ trình xử lý nhằm hướng tới những tiến bộ tích cực

trên cơ sở cân bằng lợi ích của cả hai bên. Kết thúc phiên đàm phán,
hai bên đã đạt được các mục tiêu đề ra từ trước phiên về việc xử lý
một số nội dung quan trọng trong đàm phán và có tiến bộ ở các lĩnh
vực khác.Việt Nam và EU cũng đã thống nhất được lộ trình làm việc
cho đàm phán từ cấp Bộ trưởng đến cấp kỹ thuật trên tinh thần thúc
đẩy đàm phán tối đa.
-Phiên đàm phán thứ 9
+Thời gian đàm phán: từ ngày 22 - 26/9/2014
+Địa điểm đàm phán: Thành phố Đà Nẵng, Việt Nam
+Nội dung đàm phán: Hai bên đã đạt được những tiến triển tốt đẹp
nhằm tìm ra tiếng nói chung đối với những vấn đề còn tồn tại, hướng
đến việc nhanh chóng kết thúc đàm phán. Vòng đàm phán này tập
trung vào tất cả các lĩnh vực được đề cập đến trong bản dự thảo
Hiệp định FTA.Bốn chương gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu
tư và doanh nghiệp nhà nước đã có những tiến triển đặc biệt trong
các cuộc thảo luận kỹ thuật.Công tác đàm phán đã hầu như hoàn tất
trên các lĩnh vực thương mại, phát triển bền vững và chương về hợp
tác đã được thống nhất. Ngoài việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
và phi thuế quan, các nhà đàm phán cũng giải quyết những vấn đề
24

24


liên quan đến thương mại như mua sắm công, pháp lý cạnh tranh,
thương mại và phát triển bền vững, chỉ dẫn địa lý. Một khi được ký
kết Hiệp định này được kỳ vọng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động
thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU cũng như thắt chặt và
góp phần tạo ra môi trường kinh doanh ổn định cho cả hai bên.
-Phiên đàm phán thứ 10

+Thời gian đàm phán: từ ngày 6 - 10/10/2014
+Địa điểm đàm phán: tại Brussels (Bỉ)
+Nội dung đàm phán: Phiên đàm phán này diễn ra chỉ sau 10 ngày
so với phiên đàm phán trước điều này cho thấy nỗ lực rất lớn của hai
bên trong việc mong muốn hoàn tất hiệp định trong năm 2014. Đến
nay, hai bên đã thống nhất được nhiều nội dung quan trọng (như hải
quan và thuận lợi hóa thương mại, hàng rào kỹ thuật trong thương
mại, minh bạch hóa, giải quyết tranh chấp, hợp tác...). Hiện tại, hai
bên đang tập trung xử lý một số vấn đề then chốt nhất để chính thức
kết thúc đàm phán, hướng tới một thỏa thuận đạt yêu cầu chất lượng
cao và cân bằng trong tất cả các lĩnh vực đàm phán mở cửa thị
trường (thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, mua sắm
công) cũng như các quy định và quy tắc quản lý (đặc biệt là sở hữu
trí tuệ, bao gồm chỉ dẫn địa lý của hai bên; doanh nghiệp nhà nước;
bảo hộ đầu tư...).
-Phiên đàm phán thứ 11
+Thời gian đàm phán: từ ngày 19 – 23/1/2015
25

25


×