Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.04 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, có rất nhiều các quy
định đã được sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hơn những điểm thiếu sót đã tồn tại
trong BLTTHS năm 1988. Trong khi các quy định khác sau khi được sửa đổi bổ
sung đã trở nên hoàn thiện và đáp ứng được các yêu cầu hiện nay thì quy định về
giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dường như lại đi vào bế tắc và gặp nhiều sự
khó khăn trong việc thi hành. Vậy, để hiểu được giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là gì, được quy định như thế nào trong BLTTHS hiện hành và tại sao lại có
những hạn chế như vậy thì sau đây, em xin được phân tích đề tài “Giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”.

NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Từ điển luật học đưa ra khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như
sau: “Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi Tòa án cấp sơ thẩm được
xem xét và giải quyết về vụ án” [11, tr.309]. Có thể hiểu: giới hạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là phạm vi những bị cáo, những hành vi mà HĐXX được xét xử tại
phiên tòa theo tội danh mà VKS đã truy tố và TA đã ra quyết định xét xử. Như
vậy, phạm vi này không phải là vô hạn, TA không thể xét xử bất kì người nào, bất
kì hành vi nào theo nhận định chủ quan của mình mà phạm vi này được hạn chế là
những người và những hành vi mà VKS đã truy tố trong bản cáo trạng và Thẩm
phán được phân công phụ trách vụ án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Cụ thể phạm vi đó được xác định ở đâu, đến mức độ nào thì sẽ được các nhà
làm luật quy định trong BLTTHS. Điều 196 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Tòa án
chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và TA đã
quyết định đưa ra xét xử. TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà
VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn
tội mà VKS đã truy tố”.



Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là phạm vi mà TA cấp sơ thẩm được xét xử và giải quyết vụ
án theo tội danh mà VKS đã truy tố và TA đã quyết định đưa ra xét xử.
2.

Cơ sở về lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình

sự
2.1. Cơ sở về lý luận
Thứ nhất, căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS.
Trong các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, các nguyên tắc đảm bảo pháp
chế XHCN, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm
bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác
định giới hạn xét xử sơ thẩm của TA.
-

Nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN.

Đảm bảo pháp chế XHCN tức là đảm bảo mọi hoạt động của mọi chủ thể
phải tuân theo pháp luật, hoạt động của TA cũng phải tuân theo những quy định
của pháp luật. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một chế định vô cùng quan
trọng có liên quan đến nhiều chế định khác đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của bị cáo. Vì lẽ đó, việc xác định chế định giới hạn xét xử phải bảo đảm
phù hợp và luôn lấy nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN làm tư tưởng chỉ đạo.
pháp luật.

Nguyên tắc thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

Khi xét xử, trên cơ sở chứng cứ, tài liệu (các quyết định , kết luận của Cơ

quan điều tra và bản cáo trạng, quyết định truy tố của VKS) Thẩm phán và Hội
thẩm đưa ra các ý kiến và phán quyết của mình về vụ án mà không phụ thuộc vào
bất cứ cá nhân hay tổ chức nào; căn cứ duy nhất mà Thẩm phán và Hội thẩm dựa
vào là pháp luật. Trên cơ sở nguyên tắc, quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự cũng phải đảm bảo sự độc lập và đúng pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án và Hội thẩm, có như vậy quyết định mà Tòa án đưa ra mới thật sự đúng
người, đúng tội.
-

Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo


Bị can, bị cáo tuy là những đối tượng đã có hành vi gây nguy hiểm cho xã
hội nhưng vẫn cần được đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp mà cụ thể chính là
đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong quá trình TTHS. Vấn đề giới hạn
xét xử của Tòa án được đặt ra sẽ tránh được tình trạng bị cáo không bảo đảm được
quyền bào chữa do Tòa án xét xử thêm tội danh ngoài tội danh mà VKS đã truy tố.
Thứ hai, xuất phát từ sự phân định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Viện
kiểm sát và Tòa án trong TTHS.
BLTTHS đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKS và TA trong quá
trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Sự quy định này là cần thiết bởi sự ảnh hưởng
trực tiếp của nó đến phán quyết cuối cùng của Tòa án. Phán quyết này sẽ không thể
chính xác được khi nhiệm vụ, quyền hạn của VKS và TA bị chồng chéo, không xác
định rõ ràng giữa hai bên. Chính vì vậy, việc phân định chức năng , nhiệm vụ giữa
VKS và TA là một yếu tố rất quan trọng nhằm làm căn cứ quy định giới hạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, xuất phát từ sự chưa thống nhất trong việc giải quyết vụ án giữa
Viện kiểm sát và Tòa án.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn yêu cầu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự.
Như đã khẳng định ở trên, bị can, bị cáo là chủ thể có địa vị pháp lý bất lợi
nhất trong quá trình tố tụng. do đó, việc bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pahps
của bị can bị cáo có ý nghĩa rất to lớn đối với bản than họ đồng thời đảm bảo công
bằng xã hội. Nếu pháp luật không quy định TA chỉ được xét xử những bị cáo và
những hành vi mà VKS đã truy tố thì sẽ làm cho bị can, bị cáo không có điều kiện
để chuẩn bị cho việc bào chữa để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều này cho thấy sự cần thiết của quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, về mặt chính trị - xã hội


Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thể hiện rõ sự phân định
nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với VKS và TA đã dược ghi nhận trong
hiến pháp đồng thời nó cũng thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau
giữa hai cơ quan này. VKS và TA nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực Nhà
nước một cách khách quan, công minh vì lợi ích của Nhà nước, xã hội và công
dân.Vấn đề giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định một cách đúng
đắn là cơ sở đảm bảo cho cho bị cáo thực hiện được những quyền công dân của
mình;TA xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật góp phần bảo đảm nguyên tắc
pháp chế XHCN, bảo đảm công bằng xã hội, củng cố lòng tin của quần chúng nhân
dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng, với Đảng và Nhà nước nói chung.
Thứ hai, về mặt pháp lý
Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đảm bảo cho hoạt động
TTHS được thực hiện theo một trình tự nhất định. Các giai đoạn được thực hiện
thống nhất, xuyên suốt và đúng theo quy định của pháp luật. Nhờ đó, đảm bảo tính
chính xác cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đặc
biệt là TA khi xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể của vụ án. Từ đó các chủ thể
tham gia vào quá trình tố tụng vụ án hình sự thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của mình, ngăn chặn sự tùy tiện cũng như lạm quyền trong việc xử lý vụ
án, đảm bảo cho bản án, quyết định của TA được khách quan và đúng pháp luật.
Thứ ba, về mặt thực tiễn.
Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện hành đã góp phần
đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo và tạo ra sự phối hợp – chế ước giữa
VKS và TA trong hoạt động TTHS.

II. QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS HIỆN HÀNH VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ
THẨM
So với quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được ghi nhận lại
quy định của Điều 170 BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 đã có những
điểm khác biệt, quy định một cách cụ thể và chặt chẽ hơn trong đường lối xét xử
của Tòa án. Điều 196 BLTTHS năm 2003 quy định: “Tòa án chỉ xét xử những bị
cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và TA đã quyết định đưa ra


xét xử. TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố
trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã
truy tố”.
Để có thể nắm được rõ hơn nội dung quy định của pháp luật hiện hành về
giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, em xin được phân tích từng nội dung cụ thể:
1. Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử
Quy định này thể hiện rõ Tòa án chỉ được xét xử một vụ án với một (hoặc
nhiều) bị cáo cụ thể khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể mà TA đưa ra xét xử phải là người đã bị VKS truy tố bằng
một bản cáo trạng. Trường hợp trong vụ án có đồng phạm mà vì lý do nào đó,
người đồng phạm chưa bị VKS truy tố thì TA cũng không có quyền xét xử đối với
những đồng phạm đó. Nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa mà HĐXX phát hiện
ra người phạm tội mới cần phải điều tra thì HĐXX ra quyết định khởi tố hoặc yêu

cầu VKS khởi tố vụ án hình sự (khoản 1 Điều 104 BLTTHS năm 2003).
Thứ hai, TA chỉ được xét xử những hành vi của bị cáo mà đã được VKS truy
tố, còn những hành vi chưa bị VKS truy tố thì TA không được xét xử. Hành vi của
bị cáo bị truy tố phải là hành vi được quy định thành những tội danh cụ thể của
BLHS.
Thứ ba, TA đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đây là một trong những
quyết định của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa sau thời gian nghiên
cứu hồ sơ. Quyết định đưa vụ án ra xét xử thể hiện quan điểm của Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa là vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp mình, có đủ căn
cứ để đưa ra xét xử. Nếu Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa mà chưa
đưa ra được quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tất nhiên chưa thể tiến hành xét xử
vụ án.
Nếu như giới hạn xét xử đối với những bị cáo được xác định rõ ràng trong
quyết định truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử thì giới hạn xét xử với hành vi
của bị cáo lại phức tạp hơn rất nhiều. Hiểu thế nào là những hành vi theo tội danh
mà Viện kiểm sát đã truy tố và TA đã quyết định đưa ra xét xử? Theo quan điểm
của tác giả Đinh Văn Quế đăng tạp Tạp chí Kiểm sát số 4/2006: Một hoặc một số


người có thể thực hiện nhiều hành vi khách quan. Vì vậy khi xác định giới hạn về
giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần phân biệt các trường hợp cụ thể sau:
Trường hợp chỉ có một người phạm tội và thực hiện một hành vi
khách quan thì việc xác định hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và TA đưa ra
xét xử căn cứ vào hành vi người phạm tội thực hiện với hành vi mà VKS truy tố về
một tội danh được quy định trong BLHS và TA quyết định đưa ra xét xử để xác
định giới hạn của việc xét xử. Ví dụ: C lén lút vào nhà S lấy đi một TV Samsung
trị giá 3 triệu đồng. VKS truy tố C về hành vi chiếm đoạt chiếc TV của anh S về tội
“trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS và TA cũng quyết định
đưa C ra xét xử về hành vi chiếm đoạt chiếc TV này về tội “trộm cắp tài sản” là
đúng với quy định tại Điều 196 BLTTHS.

Trường hợp tuy chỉ có một người phạm tội nhưng lại thực hiện nhiều
hành vi khách quan thì việc xác định hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và TA
quyết định đưa ra xét xử chỉ căn cứ vào hành vi mà VKS truy tố về một tội danh
được quy định trong BLHS và TA quyết định đưa ra xét xử để xác định giới hạn
của việc xét xử. Vd: A tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và giết người, nhưng
VKS chỉ truy tố A về tội “giết người” và không truy tố về tội “tàng trữ vũ khí trái
phép” thì TA không được xét xử A về hành vi “tàng trữ vũ khí trái phép”. Nếu TA
thấy VKS không truy tố A về hành vi “tàng trữ vũ khí trái phép” thì chỉ có thể
quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, những VKS vẫn không truy tố thì
TA chỉ có thể khởi kiện vụ án hoặc kiến nghị trong bản án, hoặc kiến nghị bằng
văn bản với VKS cấp trên trực tiếp để VKS cấp trên xem xét việc không truy tố A
về hành vi tang trữ trái phép.
Trường hợp chỉ có một người phạm tội mà người này thực hiện nhiều
hành vi khách quan và tất cả những hành vi đó VKS chỉ truy tố về một tội, nhưng
trong các hành vi mà VKS truy tố có hành vi cấu thành tội khác với tội mà Viện
kiểm sát truy tố thì Toà án được xét xử tất cả các hành vi mà Viện kiểm sát truy tố
nhưng không được kết án tất cả các hành vi đó về một tội và cũng không được kết
án thêm tội mà Viện kiểm sát không truy tố. Ví dụ: B bị Viện kiểm sát truy tố về tội
tham ô tài sản vì đã 5 lần cùng với C chiếm đoạt 800.000.000 đồng của cơ quan,
nhưng Toà án thấy hành vi của B chỉ đồng phạm với C về tội tham ô 3 lần với số
tiền là 500.000.000 đồng, còn 2 lần là hành vi thiếu trách nhiệm để C chiếm đoạt
300.000.000 đồng. Trong trường hợp này, Toà án vẫn xét xử cả 5 hành vi nhưng


chỉ được kết án B đồng phạm tham ô khoản 500.000.000 đồng về 3 hành vi nhưng
không được kết án B về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài
sản Nhà nước về khoản tiền 300.000.000 đồng. Nếu trong thời gian chuẩn bị xét xử
hoặc tại phiên toà Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử phát hiện được thì trả hồ sơ vụ
án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, thay đổi bản cáo trạng truy tố B thêm tội
thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước về khoản tiền

300.000.000 đồng, nếu Viện kiểm sát không đồng ý thay đổi cáo trạng vẫn truy tố
như cũ thì kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét mà không được tuyên
bố B không phạm tội tham ô về khoản 300.000.000 đồng.
Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện một hành vi phạm tội thì
việc xác định giới hạn việc xét xử cũng tương tư như trường hợp một người thực
hiện một hành vi phạm tội. Nếu có người nào chưa bị Viện kiểm sát truy tố thì Toà
án trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung truy tố thêm người phạm tội;
nếu đã trả hồ sơ vụ án mà Viện kiểm sát vẫn không thay đổi cáo trạng (không truy
tố thêm) thì Toà án chỉ được xét xử những người mà Viện kiểm sát đã truy tố và
kiến nghị cấp Giám đốc thẩm xem xét.
- Trường hợp nhiều người cùng thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng đều
bị Viện kiểm sát truy tố về một tội thì khi xác định giới hạn việc xét xử cần căn cứ
vào hành vi của từng người phạm tội cụ thể và vai trò tham gia của họ vào việc
thực hiện tội phạm, mà không tách bạch hành vi cụ thể của từng người. Ví dụ: A,
B, C và D cùng bàn bạc vào nhà anh H trộm cắp tài sản nhưng chỉ có C và D trực
tiếp lén lút vào nhà anh H lấy tài sản, còn B tìm nơi tiêu thụ, A cung cấp phương
tiện và trực tiếp vận chuyển tài sản trộm cắp được đi tiêu thụ thì tất cả A, B, C, D
đều được coi là cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Nếu Toà án thấy trong số
những người mà Viện kiểm sát truy tố có người không phạm tội trộm cắp tài sản
mà chỉ phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì
có thể kết án người đó về tội phạm mà Toà án xác định nhưng không được trái với
quy định tại điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự (tội danh bằng hoặc nhẹ hơn tội danh
mà Viện kiểm sát truy tố).
- Trường hợp nhiều người trong cùng một vụ án bị truy tố về nhiều tội khác
nhau thì phải căn cứ vào hành vi của từng người mà họ bị Viện kiểm sát truy tố và
Toà án quyết định đưa ra xét xử để xác định giới hạn của việc xét xử như trường
hợp đối với một người đã phân tích ở trên.


2.Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố

trong cùng một điều luật hoặc về một tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà
VKS truy tố
Đây là nội dung về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mới được bổ sung
vào BLTTHS năm 2003. Điểm 2 mục II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày
05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã giải thích và
hướng dẫn rất cụ thể việc triển khai thực hiện nội dung này như sau:
a. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát
đã truy tố trong cùng một điều luật, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm
sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ
hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật.
Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo A về năm hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo khoản 2 Điều 139 của Bộ luật hình sự. Theo quy định tại đoạn 2 Điều 196
của BLTTHS thì Toà án có thể xét xử bị cáo A về năm hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản này theo khoản 1 hoặc theo khoản 3 hoặc cũng có thể theo khoản 4 Điều
139 của Bộ luật hình sự.
b, Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà
Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố,
Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
sát đã truy tố.
- Đối với trường hợp tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy
tố là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình
phạt bổ sung) đối với hai tội phạm như nhau.
Ví dụ: Bị cáo B bị Viện kiểm sát truy tố về tội “Vận chuyển trái phép chất
ma tuý”, thì Toà án có thể xét xử bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
- Đối với tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là
trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt
bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy


tố. Để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào nặng hơn thì cần thực hiện theo thứ tự như

sau:
Thứ nhất, xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật
có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn.
Ví dụ: Đối với tội cố ý gây thương tích (Điều 104 của Bộ luật hình sự), điều
luật quy định loại hình phạt nặng nhất là tù chung thân, còn đối với tội giết người
(Điều 93 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất là tử
hình; do đó, tội giết người nặng hơn tội cố ý gây thương tích.
Thứ hai, trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối
với cả hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù
chung thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy
cao hơn là tội đó nặng hơn.
Ví dụ: Đối với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97 của
Bộ luật hình sự), điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất là mười lăm năm,
còn đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính (Điều 99 của Bộ luật hình sự), điều luật quy định mức hình phạt tù cao
nhất là mười hai năm; do đó, tội làm chết người trong khi thi hành công vụ nặng
hơn tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính.
Thứ ba, trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với
cả hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình
phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức
hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn.
Ví dụ: Đối với tội hiếp dâm (Điều 111 của Bộ luật hình sự) và đối với tội
hiếp dâm trẻ em (Điều 112 của Bộ luật hình sự), điều luật đều quy định hình phạt
tử hình, hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn có mức cao nhất là hai
mươi năm, nhưng mức hình phạt tù khởi điểm đối với tội hiếp dâm là hai năm, còn
đối với tội hiếp dâm trẻ em là bảy năm; do đó, tội hiếp dâm trẻ em nặng hơn tội
hiếp dâm.
Thứ tư, trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với
cả hai tội đều là tù có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù



cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ
hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn. Nếu điều luật
cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao nhất, mức khởi
điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được thực hiện tương
tự như trường hợp thứ hai và thứ ba.
Thứ năm, trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối
với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội
đó nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối
với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình phạt bổ
sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung bắt buộc là tội
đó nặng hơn.
c. Khi Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội,
thì giới hạn của việc xét xử đối với từng tội được thực hiện theo hướng dẫn tại hai
phần a. và b. phía trên. Toà án cũng có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các
tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát
truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội đó.
Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố bị cáo M về năm hành vi phạm tội, trong đó hai
hành vi phạm tội bị truy tố về tội cướp tài sản, còn ba hành vi phạm tội bị truy tố
về tội cướp giật tài sản, thì Toà án có thể xét xử bị cáo M về tội cướp giật tài sản
đối với cả năm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố (tội cướp giật tài sản nhẹ
hơn tội cướp tài sản). Toà án cũng có thể xét xử bị cáo M về tội cưỡng đoạt tài sản
đối với cả năm hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố (tội cưỡng đoạt tài sản
nhẹ hơn tội cướp giật tài sản và tội cướp tài sản).
Cần phải lưu ý, khi thực hiện các trường hợp Toà án xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật và
Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội với nhiều hành vi phạm tội, cần thi hành
đúng các quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp, về
thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị

cáo.


III. GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
1. Thực trạng việc thi hành quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mặc dù mới được bổ
sung tuy nhiên đã thể hiện nhiều điểm bất cập về nội dung cũng như những mặt
hạn chế trong quá trình thi hành luật.
Trong trường hợp Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác nặng hơn tội
mà VKS đã truy tố. Thực tiễn cho thấy, phần lớn các vụ án mà Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung khi thấy cần xét xử theo tội nặng hơn đều ít khi được VKS chấp
nhận và họ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Khi đó, Tòa án buộc phải đưa vụ án
ra xét xử và kết án theo tội danh mà VKS truy tố. Do bị hạn chế bởi giới hạn xét xử
sơ thẩm mà Tòa án buộc phải xét xử và kết án theo tội danh nhẹ hơn theo quyết
định truy tố của VKS. Điều này sẽ làm giảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội
phạm, chưa kể đến việc làm mất niềm tin của người dân vào tính nghiêm minh của
pháp luật mặc dù nó được tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Theo em, quy
định tại Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự là chưa phù hợp với thực tiễn xét xử,
cũng như mâu thuẫn với nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án và yêu cầu của cải
cách tư pháp như Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra là "việc phán
quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Với
quy định trên, nếu tại phiên toà, Tòa án thấy bị cáo phạm tội khác nặng hơn và
Kiểm sát viên cũng thừa nhận điều đó thì Tòa án cũng không thể kết tội bị cáo theo
tội nặng hơn tội đã được Viện kiểm sát truy tố trong cáo trạng. Đây là điều bất hợp
lý bởi việc Tòa án đưa ra xét xử và việc Tòa án quyết định là hai vấn đề hoàn toàn
khác nhau, không thể ràng buộc Tòa án phải phán quyết về tội danh mà viện kiểm
sát đã truy tố khi định tội.
Với quy định Tòa án có thể xét xử bị cáo theo các khoản nặng hơn khoản mà

VKS đã truy tố trong cùng một điều luật đã gây ra những vướng mắc trong thực
tiễn thi hành. Theo Điều 176 BLTTHS, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và bản cáo
trạng của VKS, nếu đồng ý với quan điểm nêu trong bản cáo trạng thì Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thế nhưng Điều 178 quy định về nội dung của
quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ quy định quyết định đưa vụ án ra xét xử phải


nêu rõ :Tội danh và điều khoản của BLHS mà VKS áp dụng đối với hành vi của bị
cáo” mà không có quy định phải ghi tội danh và điều khoản mà Tòa án có thể xét
xử. Điều này dẫn đến một khó khăn là trong trường hợp Tòa án thấy cần xét xử bị
cáo theo khung hình phạt nặng hơn mà khung hình phạt đó có mức cao nhất là tử
hình (yêu cầu thành phần HĐXX gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm và bắt buộc
phải có người bào chữa) thì Tòa án sẽ quyết định như thế nào về thành phần
HĐXX và nếu bị cáo chưa mời người bào chữa thì Tòa án phải xử lý như thế nào?
Nếu chỉ căn cứ vào tội danh và điều khoản mà VKS đề nghị áp dụng thì không thể
đáp ứng được điều kiện thực tế yêu cầu nếu trường hợp Tòa án xét thấy cần áp
dụng hình phạt tử hình đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Đây là một điểm khó
khan khi thi hành quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003
Bên cạnh đó, có ý kiến còn cho rằng, quy định tại Điều 170 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 như vậy là chính xác và đầy đủ, không nhất thiết phải quy định
thêm như Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 vừa không đầy đủ vừa mâu
thuẫn ngay chính nội dung đã quy định ở trên là “Toà án chỉ xét xử những bị cáo
và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án đã quyết
định đưa ra xét xử”. Toà án chỉ xét xử… lại còn cho phép xét xử tội danh bằng
hoặc nhẹ hơn…
2. Giải pháp hoàn thiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm
Thứ nhất, cần đảm bảo nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” khi quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Theo quy định của Điều 196 BLTTHS, HĐXX chỉ được quyền ra bản án
tuyên vô tội đối với bị cáo, quyết định khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong

cùng một điều luật (có thể là khoản nhẹ hơn hoặc nặng hơn), thay đổi tội danh
bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS truy tố. Tuy nhiên, HĐXX lại không được
thay đổi tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố. Như vậy,
Từ những quy định của Điều 196 BLTTHS có thể hiểu HĐXX lại không
được thay đổi tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố. Điều này thực sự đã đi
ngược lại với nội dung nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”. Sự chính xác, công bằng của kết quả vụ án sẽ không được đảm
bảo nếu như nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp


luật” bị vi phạm. Để đảm bảo nguyên tắc được thực hiện cần phải có sự sửa đổi
trong quy định tại Điều 196. Theo em, nên sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi mà VKS đã truy tố và TA
đã quyết định đưa ra xét xử.
TA có thể xét xử bị cáo theo khoản khác mà VKS đã truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác với tội mà VKS truy tố nhưng có cùng hành vi mà
VKS đã truy tố”.
“TA có thể xét xử bị cáo về một tội mà VKS truy tố nhưng có cùng hành vi
mà VKS đã truy tố” có nghĩa như sau: TA không phải chỉ được xét xử về tội bằng
hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố mà còn có thể xét xử bị cáo với tội danh nặng
hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Tuy nhiên phải với điều kiện, tội danh mà TA xét
xử phải có cùng hành vi phạm tội với tội mà VKS đã truy tố.
Có thể lấy ví dụ như sau: Cáo trạng của VKS truy tố bị can về tội Trộm cắp
tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng tại phiên tòa, bằng các
chứng cứ mới xác định và trên cơ sở thẩm tra lại hồ sơ vụ án của Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa sau khi đã nghiên cứu, HĐXX xác định bị cáo không
phạm tội trộm cắp tài sản mà hành vi phạm tội đã chuyển hóa thành tội cướp tài
sản theo quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999. Đây là tội nặng hơn với tội mà
VKS truy tố và được cấu thành từ hành vi phạm tội giống với hành vi phạm tội cấu
thành tội Trộm cắp tài sản.

Nếu quy định như vậy, trong trường hợp khi xét xử HĐXX xác định chắc
chắn rằng bị cáo không phạm tội mà VKS đã truy tố mà phạm một tội khác nặng
hơn, quyết định của HĐXX sẽ không bị chịu ảnh hưởng bởi quyết định truy tố của
VKS. Đảm bảo được sự độc lập trong phán quyết của Thẩm phán và Hội thẩm
đúng như nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”. Bên cạnh đó, việc quy định điều kiện đối với tội mà HĐXX đưa ra khác với
tội mà VKS truy tố (phải có cùng hành vi phạm tội với tội mà VKS đã truy tố) là
để thống nhất với ý thứ nhất trong Điều luật này (Tòa án chỉ xét xử những bị cáo
và những hành vi mà VKS đã truy tố và TA đã quyết định đưa ra xét xử), đảm bảo
không phá vỡ yêu cầu về giới hạn xét xử được đặt ra trong điều luật. Nếu tội danh
mà HĐXX đưa ra không có cùng hành vi phạm tội với tội mà VKS truy tố thì TA
không có quyền xét xử tại phiên tòa này. HĐXX có thể ra quyết định khởi tố hoặc


yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện
được tội phạm mới cần phải điều tra (theo Điều 104 BLTTHS).
Thứ hai, cần bảo đảm nguyên tắc “Đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị
cáo”.
Như bất cập về việc chưa đảm bảo được quyền bào chữa của bị can bị cáo
được nêu ở phần thực trạng, em thấy cần bổ sung vào quy định thêm một nội dung
của quyết định đưa vụ án ra xét xử tại Điều 178 BLTTHS là: “Tội danh và điều
khoản của BLHS mà TA có thể xét xử đối với hành vi của bị cáo”.
Với quy định như vậy, bị cáo sẽ nắm được chính xác mình có thể sẽ bị xét
xử theo tội danh nào, từ đó chuẩn bị trước được phần bào chữa của mình tại phiên
tòa. Xét thấy việc quy định thêm là cần thiết bởi bị cáo sẽ hoàn toàn bất ngờ và
không có sự chuẩn bị trước đối với tội danh mà TA đưa ra tại phiên tòa nếu như tội
danh đó không được thể hiện trong nội dung của quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Chắc chắn, bị cáo sẽ gặp bất lợi lớn trong trường hợp này và quyền bào chữa mà bị
cáo thực hiện sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Ngoài ra quy định này sẽ giải quyết
được vướng mắc về thi hành quy định giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong

trường hợp TA xác định tội danh của bị cáo có hình phạt tử hình đã được nêu ra
trong phần thực trạng.
Thứ ba, cần xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đảm bảo
về chất lượng và số lượng. Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng trong mọi
vấn đề. Quy định của pháp luật dù đúng đắn đến đâu nhưng người tiến hành pháp
luật không đủ về số lượng, không đáp ứng yêu cầu về chất lượng thì quy định ấy
cũng không thể phát huy hiệu quả mà ngược lại còn làm cho pháp luật bị sai phạm.
Theo em cần tiến hành một số biện pháp sau:
- Trong thời đại thay đổi nhanh chóng của tội phạm kéo theo sự sửa đổi bổ
sung của các văn bản luật, cần phải nghiên cứu để đổi mới phương pháp đào tạo
nguồn nhân lực của hệ thống luật pháp – tức là bắt đầu từ gốc; thường xuyên, liên
tục bổ trợ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới; rèn luyện phấm chất cho
đội ngũ cán bộ; từng bước xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán có trình độ
cao.


- Có cơ chế thu hút những người có năng lực tâm huyết với nghề,
đủ đức, đủ tài vào làm việc tại VKS và TA, tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Bằng cách đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho Kiểm sát
viên, Thẩm phán để họ yên tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

KẾT LUẬN
Quy định về giới hạn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một quy định quan
trọng có ảnh hưởng lớn đến phán quyết cuối cùng của HĐXX hay cũng chính là
kết quả của một quá trình tố tụng. Sự chính xác đúng người, đúng tội luôn là tiêu
chí hàng đầu và bắt buộc của pháp luật. Tuy nhiên, với những bất cập trong quy
định về giới hạn của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện này, sự chính xác đó dường
như chưa thể nào được đảm bảo hoàn toàn. Vì vậy, các nhà làm luật cần phải
nghiên cứu nghiêm túc về quy định này, sao cho tìm ra được các điều chỉnh hợp lý
nhất.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam/ Trường Đại học Luật Hà
Nội/ Nxb Tư pháp/ 2006


Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003


Bộ luật Tố tụng hình sự và 170 câu hỏi – đáp/ Luật gia Hoàng Châu
Giang – Đặng Thiên Minh/ Nxb LĐ-XH/ 2007

Đối chiếu tra cứu BLTTHS và toàn bộ các văn bản hướng dẫn thi
hành/ Nxb Tư pháp/ TS. Đỗ Văn Đương/2005

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự/ Khóa luận tốt nghiệp/ Nguyễn Thị Lan Anh/ Hà Nội 2010

Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam/ Luận văn thạc sĩ luật
học/ Ngô Thị Ánh/ Hà Nội 2007

Giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự/ Luận án thạc sĩ luật học/ Trần
Văn Tín/ Hà Nội 1997

Vấn đề giới hạn của việc xét xử trong luật tố tụng hình sự/ PGS.TS
Luật sư Phạm Hồng Hải/ phamhonghai.vn


Một số vấn đề về giới hạn xét xử/ T.S Nguyễn Văn Huyên/
luathinhsu.wordpress.com

Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử/ Đinh Văn Quế/
toaan.gov.vn



×