Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.19 KB, 18 trang )

Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự

ĐẶT VẤN ĐỀ
Qúa trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
trong đó có thể nói việc xét xử vụ án hình sự có vai trò quan trọng, xác định bị cáo có
tội hay không có tội. Thẩm quyền xét xử là một trong những nội dung của thẩm quyền
mà pháp luật quy định cho Tòa án với tư cách là một cơ quan xét xử của một quốc
gia. Trong đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng đối với bất kỳ một vụ án hình sự nào.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA
TÒA ÁN.
1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Trong luật tố tụng hình sự, thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng bao gồm
quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác như
quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án…Theo đó, thẩm quyền của
Tòa án gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quy định tại chương XVI của BLTTHS
là thẩm quyền về hình thức. Theo đó, có thể định nghĩa như sau: “Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm là thẩm quyền do pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đối tượng
phạm tội, nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật”.
2. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
Khi quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án cần phải dựa
vào các căn cứ sau:
- Căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng.
- Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
- Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm.
- Căn cứ vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng.
- Căn cứ vào số lượng cán bộ và cơ sở vật chất của các cơ quan tiến hành tố tụng.


- Căn cứ vào tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

1


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
3. Phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Tòa án nước ta được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ (trừ Tòa án Quân
chúng hải quân tổ chức trong quân đội). Thẩm quyền xét xử sơ thẩm không được quy
định riêng cho một cơ quan nào xét xử mà được quy định một cách hỗn hợp như sau:
- Tòa án cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
- Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu vừa có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm, vừa có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương không có thẩm quyền
xét xử sơ thẩm mà chỉ có thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm.
Dựa vào căn cứ phân định thẩm quyền ở trên, thẩm quyền của Tòa án được phân
định như sau:
- Thẩm quyền xét xử theo sự việc : là sự phân định thẩm quyển xét xử giữa tòa
án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
- Thẩm quyền xét xử theo đối tượng: là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa tòa
án nhân và tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ: là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào nơi
tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
4. Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của
pháp luật tố tụng.
- Về mặt lý luận: Nghiên cứu thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án có ý nghĩa
rất quan trọng đối với việc tổ chức hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng để
thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm giải quyết vụ án được khách quan toàn

diện và đầy đủ, theo đúng tinh thần của hai cấp xét xử hiện nay. Việc phân định
thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm,
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm và cũng là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ
quan tiến hành tố tụng. Do vậy, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm có ý
nghĩa quan trọng để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp. Từ đó xác định được
thẩm quyền của các cấp tiếp theo, hạn chế sự chồng chéo về thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án các cấp.
2


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
- Về mặt thực tiễn: Trên thực tế, những năm gần đây, những vụ án phức tạp,
nghiêm trọng đang diễn biến theo chiều hướng gia tăng. Tình hình an ninh
chính trị, an toàn xã hội càng diễn biến phức tạp, việc đấu tranh chống các hiện
tượng tiêu cực trong xã hội cũng gặp khó khăn. Do đó, để giải quyết kịp thời
cần phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án phù hợp. Vì thực tế có nhiều
trường hợp, cấp Tòa án được phân định quyền xét xử vượt quá khả năng và
điều kiện thực tế, không đủ khả năng và cơ sở vật chất để tiến hành xét xử.
Phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hợp lý giúp việc giải quyết vụ án được
kịp thời, đảm bảo yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là nhanh
chóng và giảm thiểu các chi phí tố tụng, đồng thời tuyên truyền, giáo dục đối
với xã hội.

II. THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIÊN HÀNH.
1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa các cấp Tòa án, căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm. Do
TANDTC không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo
sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa hai cấp còn lại:

1.1.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực.

Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực là cấp xét xử đầu tiên
trong trình tự các cấp xét xử theo quy định của luật TTHS Việt Nam hiện hành. Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003: “Tòa án nhân dân cấp huyện và
Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội
phạm sau:
a, Các tội xâm phạm an ninh quốc gia
b, Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh
c, Các tội quy định tại Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224,
225, 226, 263,293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.”
3


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Quy định trên cho thấy, thẩm quyền xét xử vụ việc của Tòa án nhân dân cấp
huyện và Tòa án quân sự khu vực quy định tại BLTTHS năm 2003 bao gồm các loại
tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS năm 1999 là đến 15
năm tù, trừ những tội phạm quy định tại điểm a, b, c Điều 170 BLTTHS.
Nghị quyết số 24/2003/QH11 về việc thi hành BLTTHS năm 2003 chỉ rõ tại
mục 3: “ Kể từ ngày Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực, những Tòa án nhân dân cấp
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự có đủ điều kiện thực hiện
thì được giao thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng
hình sự. Những Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa
án quân sự khu vực chưa đủ điều kiện thì thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự về tội ít nghiên trọng, tội phạm nghiên trọng, trừ những tội phạm quy

định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
nhưng chậm nhất đến ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực thực hiện thống nhất thẩm quyền
xét xử mới quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự”.
Như vậy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện đã được
mở rộng. Đó là do:
- Các Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện đã được nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ hơn, có khả năng xét xử các vụ án mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
- Việc tăng thẩm quyền xét xử sơb thẩm cho Tòa án cấp huyện sẽ tránh được
việc tồn đọng án ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giành thời gian cho Tòa án cấp
tỉnh tập trung giải quyết các vụ án phức tạp khác, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm.
- Cơ sở vật chất của Tòa án cấp huyện đã được cải thiện, nâng cấp. Số lượng biên
chế Thẩm phán ổn định giúp ngành Tòa án yên tâm công tác, có điều kiện làm
việc tốt hơn.
- Mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp huyện giúp giảm bớt được chi phí và thời
gian tiến hành tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa do sự vắng mặt của
những người tham gia tố tụng.
- Giáo dục quần chúng nhân dân chấp hành pháp luật.
4


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
1.2.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân
sự cấp quân khu.

Theo Khoản 2 Điều 170 BLTTHS năm 2003 quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh

và Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực.
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm
quyền xét xử những vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (có mức cao
nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù), những vụ án không thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân cấp huyện được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170
BLTTHS năm 2003; những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
nhưng Tòa án nhân dân cấp tỉnh thấy cần thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc
biệt của vụ án.
BLTTHS hiện hành không có quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do vậy, Chánh
án TAND, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh căn cứ
vào tình hình thực tế của các vụ án và năng lực của Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán cấp huyện để quyết định những vụ án nào cần lấy lên để điều tra, truy tố,
xét xử ở cấp tỉnh. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng vấn đang tiến hành theo
tinh thần của Thông tư số 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối caoViện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ tư pháp- Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có quy định về vấn đề này như sau:
Tòa án cấp tỉnh có thể lấy vụ án cấp dưới lên để xét xử trong các trường hợp:
- Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án
hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
- Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan Công an, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín trong
dân tộc ít người.

5


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự

2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Thẩm quyền theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào những
dấu hiệu địa điểm nhất định.
2.1.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo nơi thực hiện tội phạm và nơi kết thúc
điều tra:

Về nguyên tắc, vụ án hình sự được xét xử ở Tòa án nơi tội phạm được thực hiện.
Tuy nhiên, Tòa án quân sự của quân chủng hoặc tổ chức tương đương có tổ chức tòa
án quân sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm không phụ thuộc vào nơi thực hiện tội
phạm, nếu người phạm tội thuộc đơn vị của quân chủng hoặc tổ chức tương đương,
hoặc tội phạm gây thiệt hại trực tiếp cho quân chủng hoặc tổ chức tương đương.
Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi
kết thúc điều tra. BLTTHS quy định tại Khoản 1 Điều 171 như sau: “Vụ án hình sự
được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Trong
trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định
được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc
điều tra”.
Thông tư số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005
của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công
an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự như sau: “Vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp nào xảy ra trên địa bàn quân sự cấp
đó thì do Tòa án quân sự đó xét xử. Việc phân định địa bàn trong Quân đội để xác
định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự do Bộ quốc phòng quy định cụ thể.
Trường hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc trường hợp có nhiều
Tòa án quân sự khác nhau có thẩm quyền xét xử vụ án do trong vụ án có nhiều người
phạm tội thuộc nhiều đơn vị khác nhau hoặc do người phạm tội thực hiện tội phạm ở
nhiều nơi, nếu Viện kiểm sát quân sự truy tố bị can ra trước Tòa án quân sự nào, thì

Tòa án quân sự đó xét xử vụ án”.
Các quy định như vậy là cụ thể và tạo được điều kiện thuận lợi hơn cho việc xét
xử như: đảm bảo sự có mặt của những người tham gia tố tụng, xác định vật chứng
không thể đưa đến phiên tòa được, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm được dễ dàng.
6


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
2.2.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp bị cáo phạm tội ở nước
ngoài nhưng được xét xử tại Việt Nam:

Khoản 2 Điều 171 BLTTHS năm 2003 quy định đối với trường hợp bị cáo phạm
tội nước ngoài. Theo đó:
- Nếu bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án nhân dân
cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo trong nước có thẩm quyền xét xử.
- Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước thì tùy
từng trường hợp được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh xét xử.
- Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân khu
trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
2.3.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp tội phạm xảy ra trên tàu
bay hoặc tàu biển của Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc
lãnh hải Việt Nam:

Điều 172 BLTTHS năm 2003 quy định: “Những tội phạm xảy ra trên tàu bay,

tàu biển của nước CHXHCN Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh
hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay bến cảng
trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký”. Vì theo luật quốc tế thì
tàu bay, tàu biển mang quốc tịch quốc gia nào, dù đang hoạt động ngoài không phận
hoặc lãnh hải của quốc gia đó, vẫn được coi là một bộ phận lãnh thổ quốc gia mà nó
mang quốc tịch.
Tòa án có thẩm quyền xét xử là tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký. Tùy
vào tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hay đặc biệt nghiêm trọng để xác định cấp Tòa án xét xử là cấp tỉnh hay cấp huyện.
Quy định trên có thể thấy vụ án về tội phạm xảy ra ở nước ngoài, thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân tỉnh mà không phụ thuộc vào loại tội phạm được thực
hiện. Điều này thuận lợi cho người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, tiết
kiệm thời gian giải quyết vụ án. Hơn nữa, việc xử lý vụ án tại nơi tội phạm được thực
hiện cũng đảm bảo tốt hơn sự có mặt của những người tham gia tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố và xét xử.
7


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT ngày 18/4/1005 còn xác định: Trong trường
hợp bị cáo là quân nhân phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam do Tòa án
quân sự quân khu, quân chủng hoặc tương đương xét xử theo quyết định của Chánh
án Tòa án quân sự trung ương.
3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội (Mục 1
Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA).
3.1.

Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự:


BLTTHS năm 2003 không có quy định cụ thể đối tượng phạm tội nào thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân, đối tượng phạm tội nào thuộc thẩm quyền của Tòa
án quân sự. Tuy nhiên trong Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 có
quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự như sau: “Tòa án quân sự có
thẩm quyền xét xử những vụ án mà bị cáo thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự
vệ phối hợp chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.
2. Những người không thuộc các quy định tại các khoản 1 Điều này mà phạm tội
liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội”.
Người phạm tội không phải là các đối tượng nêu trong Khoản 1 Điều 3 Pháp
lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tội phạm mà họ thực hiện có liên quan đến bí mật quân sự: Bí mật quân sự là bí
mật của quân đội, bí mật về an ninh quốc phong được xác định là bí mật quân sự
và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành.
- Tội phạm mà họ thực hiện gây thiệt hại cho quân đội: Gây thiệt hại cho quân đội
là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những
người được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự hoặc
tài sản của những người này được quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân
8


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
sự, gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội. Tài sản của quân đội là
tài sản do quân đội quản lý, sử dụng, kể cả trường hợp quân đội giao tài sản cho
dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào khác quản lý, sử dụng để chiến đấu hoặc

phục vụ trong quân đội. Những trường hợp phạm tội trong khu vực bảo vệ của
quân đội, khu vực cấm, khu vực bảo vệ các công trình quan trọng về an ninh quốc
phong do quân đội quản lý cũng được coi là gây thiệt hại cho quân đội.
Pháp lệnh cũng quy định: quân nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã
hội đều thuộc thẩm xét xử của Tòa án quân sự. Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo
hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ
vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử riêng thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét
xử những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình (Điều 4, Điều 5 Pháp lệnh tổ chức Tòa
án quân sự).
Trường hợp trong cùng một vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, trong trường hợp này Tòa án quân sự xét xử
toàn bộ vụ án (trừ trường hợp có thể tách vụ án).
Ngay trong thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cũng có sự phân biệt thẩm
quyền theo đối tượng: cấp bậc, chức vụ của quân nhân là căn cứ để xác định thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự các cấp. Theo quy định tại Điều 26, 29 Pháp lệnh
tổ chức Tòa án quân sự thì: các vụ án mà bị can, bị cáo khi phạm tội có cấp bậc từ
Thượng tá trở lên thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu mà
không phụ thuộc vào loại tội phạm thực hiện là loại tội phạm nào. Các vụ án còn lại
thuộc thẩm quyền xét xử của các Tòa án quân sự khu vực.
3.2.

Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân

Đối với các Tòa án nhân dân, BLTTHS không đặt ra thẩm quyền xét xử theo đặc
điểm nhân thân người phạm tội. Tòa án nhân dân xét xử sơ thẩm những đối tượng
không thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Tòa án nhân dân xét xử những
người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực
hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội; những người đang phục vụ trong quân

đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội nếu những
9


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân
đội.
Qua các quy định trên, có thể thấy theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự có
hai loại đối tượng xét xử cho hai loại hình Tòa án là Tòa án quân sự và Tòa án nhân
dân. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử rộng hơn so với Tòa án quân sự, cụ thể là
xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội, trừ những đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự đã được quy định trong Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm
2002.

III. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.
1. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án.
 Một số thành tưu đạt được:
Từ sau khi BLTTHS năm 2003 quy định tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án
nhân dân cấp huyện, số lượng các vụ án được Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết
và xử lý đã tăng lên đáng kể và chất lượng xét xử ngày càng nâng cao.
Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ khi thực hiện thẩm quyền mới, số
lượng các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền mới mà các Tòa án được giao đầy đủ thẩm
quyền tăng bình quân 30 vụ/năm/Tòa án. Một số đơn vị có số lượng án mới tăng trên
100 vụ/năm, tập trung chủ yếu ở các Tòa án quân thuộc thành phố Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng. Tính từ khi được giao thẩm quyền mới cho đến
ngày 31/12/2007, các Tòa án thụ lý 71 618 vụ án hình sự với 150 212 bị cáo, giải
quyết được 69 706 vụ án với 107 314 bị cáo. Trong tổng số 107 314 bị cáo mà các
Tòa án đã xét xử sơ thẩm, có 9890 bị cáo có kháng cáo kháng nghị, giám đốc thẩm.

Theo số liệu thống kê từ 01/10/2007 đến 30/9/2008, Tòa án nhân dân cấp tỉnh thụ lý
mới 8411 vụ với 17593 bị cáo, xét xử được 7555 vụ với 15205, giải quyết được
96,9% số vụ án với 96,1% số bị cáo. Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý mới 54090 vụ
án với 90814 bị cáo, xét xử được 50396 vụ với 82788 bị cáo, giải quyết được 98,1%
số vụ án với 97,5% số bị cáo.

10


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
Các Tòa án cấp huyện khi được tăng thẩm quyền đã có nhiều cố gắng để đưa vụ
án ra xét xử trtong thời hạn luật định. Cùng với sự phối hợp của các cấp ủy, chính
quyền địa phương, các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng xét xử cấp sơ thẩm của
Tòa án nhân dân cấp huyện đã đảm bảo tính chính xác, nghiêm minh. Nhiều Tòa án
còn quan tâm, tổ chức tốt việc xét xử lưu động tại địa phương nơi xảy ra tội phạm,
qua đó nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Những năm gần đây, không chỉ số lượng vụ án thụ lý xét xử ở cấp sơ thẩm tăng
mà tốc độ giải quyết tại cấp xét xử cũng nhanh chóng hơn, hạn chế lượng án tồn đọng.
Chất lượng xét xử ngày càng được nâng cao hơn trước, số lượng các vụ án mà bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị có chiều hướng giảm.
Lượng án tồn đọng tại TAND cấp huyện hàng năm nhìn chung có xu hướng
ngày càng giảm. Ví dụ: năm 2002 thụ lý 31 127 vụ tồn đọng 1 195 vụ bằng 3,83% số
vụ đã thụ lý; năm 2003 thụ lý 33 493 vụ tồn đọng 821 vụ bằng 2,45%; năm 2004 thụ
lý 35 029 vụ tồn đọng 1517 vụ bằng 4,33%; năm 2005 thụ lý 41 518 vụ tồn đọng
1120 vụ băng 2,69% số vụ đã thụ lý. Năm 2006 lượng án tồn đọng ở các Tòa án cấp
sơ thẩm là 2,4% số vụ đã thụ lý, năm 2007 toàn ngành thụ lý 61813 vụ án theo thủ tục
sơ thẩm, đã giải quyết xét xử 60 483 vụ, số vụ còn tồn tại là 1330 bằng 2,15% giảm
0,15% so với năm 2006, lượng án tồn đọng tại Tòa án cấp huyện năm 2007 là 969 vụ,
bằng 1,93% số vụ đã thụ lý.
Số lượng án sơ thẩm tồn đọng tại TAND cấp tỉnh tuy không lớn so với số vụ thụ

lý hàng năm nhưng nhìn chung vẫn còn cao. Ví dụ: năm 2003 thụ lý 17 355 vụ, tồn
đọng 372 vụ bằng 2,14%; năm 2005 thụ lý 13 471 vụ, tồn đọng 459 vụ bằng 3,4%,
năm 2007 thụ lý 11 266 vụ, tồn đọng 329 vụ bằng 2,92%.
Theo thống kê chung của Tòa án cấp sơ thẩm (cả cấp huyện và cấp tỉnh), năm
2006 lượng án tồn động chiếm 2,4% số vụ thụ lý, giảm hơn hẳn so với các năm trước;
Năm 2007 toàn ngành thụ lý 61 813 vụ án theo thủ tục sơ thẩm; đã giải quyết, xét xử
60 483 vụ , số vụ còn tồn đọng là 1330 vụ- bằng 2,15% giảm 0,15% so với năm 2006.
Năm 2008 toàn ngành thụ lý 64381 vụ án trong đó vụ án cũ còn tồn lại là 1060, xét xử
58449 vụ chuyển hồ sơ vụ án 82 vụ, đình chỉ 251 vụ trả hồ sơ cho VKS 4 258 vụ số
vụ cồn tồn động là 1341 vụ, bằng 2,08% số vụ đã thụ lý, giảm 0,07% so với năm
2007. Năm 2009 và 2010 số vụ án tồn đọng có xu hướng tăng. Năm 2010 toàn ngành
11


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
giải quyết xong một lượng lớn án quá hạn của các năm trước, không có vụ án nào kết
tội oan người vô tội, không có án sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong
thời gian đầu khi thực hiện thẩm quyền mới, một vài đơn vị còn lúng túng trong việc
xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
 Một số bất cập, vướng mắc:
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể tuy nhiên qua một thời gian áp
dụng những quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân trong
BLTTHS năm 2003 cũng đã xuất hiện những bất cập, vướng mắc nhất định:
o Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 BLTTHS thì: TAND cấp tỉnh có quyền lấy
những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp dưới lên để xét xử.Trước
đây đã có Thông tư liên ngành số 02/TTLN hướng dẫn thi hành một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Tuy nhiên văn bản này đã hết hiệu lực.
Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ một văn bản nào hướng dẫn vấn đề này.
o BLTTHS chưa có quy định cụ thể về thủ tục chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm
quyền như thế nào và cũng chưa có văn bản dưới luật nào điều chỉnh vấn đề này.

Vì vậy, trên thực tế áp dụng quy định này còn chưa thống nhất, có trường hợp
sau khi tòa án nhận thấy vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển
trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển cho cấp có thẩm quyền truy
tố; có Tòa án lại chuyển thẳng cho Tòa án cấp có thẩm quyền.
o BLTTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với người Việt Nam phạm
tội ở nước ngoài bị đưa về nước xét xử nhưng chưa có quy định cụ thể việc
người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam hoặc trường hợp tội phạm
vừa thực hiện trong nước, vừa thực hiện ở nước ngoài thì sẽ thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án cấp nào. Thực tế thì các bị can bị cáo là người nước ngoài
hoặc tội phạm vừa thực hiện ở trong nước vừa thực hiện ở nước ngoài thì do Tòa
án cấp tỉnh xét xử còn các vụ án mà người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có
quyền và lợi ích liên quan thì chưa có quy định hay hướng dẫn cụ thể.
o Hiện nay việc phân định thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự chưa được quy định trong BLTTHS năm 2003 mà mới chỉ quy định

12


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
trong Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự, và là văn bản có hiệu lực pháp lý thấp
hơn.
o Một số bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất: Tại một số cơ sở cấp huyện
số lượng Thẩm phán vẫn chưa đầy đủ, thiếu cán bộ so với yêu cầu công tác; kinh
phí cấp cho các ngành Tòa án hàng năm còn thấp, đặc biệt là Tòa án cấp huyện.
Chế độ đãi ngộ với cán bộ công chức ngành Tòa án chưa tướng xứng với yêu
cầu tính chất công việc…
2. Nguyên nhân của những bất cập vướng mắc.
Những bất cập, vướng mắc gặp phải trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử dấn
đến việc áp dụng sai thẩm quyền, tranh chấp về thẩm quyền xét xử do nhiều nguyên
nhân khác nhau, dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu:

o Những quy định của pháp luật hiện hành (BLTTHS hiện hành và các văn bản
hướng dẫn thực hiện) còn chưa đầy đủ, nhiều vấn đề tồn tại trên thưc tế vẫn
chưa được đề cập đến. Nhiều nội dung chưa được đưa vào BLTTHS mà mới
chỉ quy định trong các văn bản dưới luật.
o Nhận thức pháp luật của những người tiến hành tố tụng chưa cao. Ở một số cơ
quan tiến hành tố tụng cấp huyện, cơ sở vật chất còn hạn chế, trình độ cán bộ
của một số cơ quan còn thấp…
o Nhận thức của công dân về các quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử,
nghi ngờ tính khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương.
o Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác
định, phát hiện và xử lý các vụ án phức tạp, khó xác định thẩm quyền.
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
 Sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp:
o Điều 127 Hiến pháp quy định: “TAND tối cao, các TAND địa phương, các
TAQS và các tòa án khác do pháp luật quy định là những cơ quan xét xử của
Nước CHXHCN Việt Nam”. Tuy nhiên theo tinh thần của Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 để thực hiện cải
cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hệ thống Tòa án nước ta phải tổ chức theo

13


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính gồm: Tòa án sơ
thẩm khu vực, Tòa án phúc thẩm, tòa thượng thẩm và TANDTC. Do vậy để
thực hiện chủ tương này cần sửa đổi quy định tại Điều 127 Hiến pháp.
o Điều 135 Hiến pháp quy định: “Chánh án tòa án nhân dân địa phương chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân”. Điều này chưa
thật phù hợp với tình thần của Nghị quyết số 49 là tổ chức lại hệ thống tòa án
thành lập các tòa án sơ thẩm khu vực. Vì vậy việc sửa đổi Điều 135 là cần thiết,

nên giao cho cấp ủy đảng cấp tỉnh và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện
lãnh đạo, chỉ đạo giám sát hoạt động và tổ chức của Tòa án sơ thẩm khu vực và
TAND cấp tỉnh.
 Hoàn thiện các quy định của BLTTHS:
o BLTTHS hạn chế nhiều trường hợp vụ án hình sự mà Tòa án cấp huyện không
được xét xử tại Khoản 1 Điều 170, đó chủ yếu là các tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng. Hiện nay, cơ sở vật chất
cũng như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ các cơ quan tiến hành tố
tụng đã dần được khắc phục, nâng lực thực tế của cơ quan tiến hành tố tụng ở
cấp huyện đã được nâng cao. Các tội phạm quy định tại điểm c Khoản 1 Điều
170 BLTTHS, Tòa án cấp huyện đã có khả năng xét xử một số tội phạm vì vậy
chỉ nên quy định Tòa án cấp huyện không được xét xử một số tội phạm quy
định tại 9 điều luật thay vì 21 điều như trước đây, đó là các điều 172, 216, 217,
219, 221, 222, 223, 263.
o Quy định về việc Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có
thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp dưới lên xét xử còn
chung chung, dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng và gây khó khăn cho việc
giải quyết vụ án. Vì vậy nên bỏ quy định việc TAND cấp tỉnh và TAQS cấp
quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới lên để xét xử
và bổ sung vào điểm c Khoản 1 Điều 170 BLTTHS một số trường hợp vụ án
hình sự mà tội phạm do một số đối tượng nhất định thực hiện không thuộc thẩm
quyền xét xử của TAND cấp huyện, để ngay khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can

14


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
đã giao cho cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra ngay từ đầu để đảm bảo sự thống
nhất về thẩn quyền giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Ngoài ra để đảm bảo việc giải quyết vụ án được khách quan, nên bỏ quy

định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án cấp huyện đối với những vụ án
hình sự mà tội phạm do: Thẩm phán Tòa án các cấp, Kiểm sát viên viện kiểm sát
các cấp, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức
sắc cao trong tôn giáo, có uy tín cao trong dân tộc ít người..
o Quy định tại đoạn 2 Khoản 2 Điều 171 BLTTHS trường hợp bị cáo phạm tội ở
nước ngoài bị đưa về nước xét xử nếu thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì
do TAQS cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS
Trung ương. Quy định như vậy là chưa chính xác vì hiện nay theo quy định của
BLTTHS không có một cấp TAQS nào cao hơn TAQS cấp quân khu có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm cả. Vì vậy cần phải bỏ 2 từ “trở lên” thì mới chính xác.
o Đối với tội phạm xảy ra trên tàu bay tàu biển, khi tàu bay tàu biển rời khỏi sân
bay, bến cảng Việt Nam quy định tại Điều 172 BLTTHS: để tránh việc tranh
chấp hoặc đùn đẩy lẫn nhau giữa các Tòa án và thuận lợi cho việc điều tra, thu
thập chứng cứ nên quy định thẩm quyền xét xử cho Tòa án Việt Nam, nơi có
sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên ở trong nước.
o Sửa đổi và bổ sung toàn diện các quy định của luật Tổ chức Tòa án nhân dân và
các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh vấn đề tổ chức và hoạt động của Tòa
án.
 Nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ ngành Tòa án: tăng cường công tác
đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức Tòa án các cấp,
thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiêm vụ công tác của cán bộ, công
chức…
 Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất của Tòa án các cấp để phục vụ công tác xét xử.

KẾT LUẬN
Xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng, là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong các giai đoạn tiếp
15



Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
theo. Bên cạnh việc xác định đúng, chính xác thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
thì việc đổi mới thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp luật TTHS hiện
hành cũng là một vấn đề trọng tâm, nhằm đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp nói
chung, cải cách hệ thống Tòa án nói riêng./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.

2.

Võ Khánh Vinh(chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.

3.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

4.

Nghị quyết số 24/2003/QH11.

5.

Thông tư số 02/TTLN ngày 12/01/1989 của Tòa án nhân dân tối cao- Viện kiểm
sát nhân dân tối cao- Bộ tư pháp- Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988.


6.

Thông tư số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA ngày 18/4/2005 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ
công an hướng dẫn về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự.

7.

Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002.

8.

.

9.

.

16


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………………....1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………………………….1
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN.
1.


Khái

niệm

thẩm

quyền

xét

xử



thẩm…………………………………………1
2. Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án…………………..1
3. Phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm…………………………………………..2
4. Ý nghĩa của việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định của pháp
luật tố tụng………………………………………………………………………
2
II. THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIÊN HÀNH.
1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc…………………………………………………3
2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ………………………………………………..6
3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng………………………………………………8
III. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
1. Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án……………………………………...10

2. Nguyên nhân của những bất cập vướng mắc………………………………….13

17


Bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án………………………………………..13
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………..15

18



×