Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.44 KB, 14 trang )

MỤC LỤC:
LỜI MỞ ĐẦU
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án
1.1 Khái niệm
1.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Bộ luật TTHS Việt Nam
1.2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc
1.2.2 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
1.2.3 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
2. Thực tiễn thi hành và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật
về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
2.1 Những kết quả đạt được.
2.2 Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử.
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm.
KẾT LUẬN


LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003. Bộ
luật này thay thế Bộ luật tố tụng hình sự ngày 28/6/1988 và có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/7/2004 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật tố tụng
hình sự nói chung và thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự nói riêng.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là một trong những qui định trung tâm của chế
định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các
văn bản pháp luật khác về vấn đề này là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
tư pháp những năm qua. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng còn một số bất cập
và vướng mắc khi thực thi xử lý các vụ án trên thực tế. Để phân tích một cách cụ
thể và từ đó đưa ra được hướng hoàn thiện cho vấn đề trên em đã lựa chọn đề tài
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định pháp


luật về vấn đề này”.


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án
1.1 Khái niệm
Theo giáo trình luật TTHS trường Đại học Luật Hà Nội: “Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của
pháp luật”. (T346). Đây là một khái niệm hẹp giới hạn trong phạm vi nghiên cứu
về thẩm quyền xét xử của Tòa án theo quy định tại Chương XVI của Bộ luật
TTHS (thẩm quyền hình thức) còn xét một cách rộng hơn thẩm quyền xét xử của
tòa án còn bao gồm cả thẩm quyền nội dung bao gồm cả quyền hạn giải quyết
quyết định của tòa án đối với những vấn đề cần được xem xét mà trong phạm vi
bài làm này sẽ không đề cập đến.
1.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Bộ luật TTHS Việt Nam
Cũng như đa phần các nước khác trên thế giới hiện nay, pháp luật Việt Nam
phân chia cấp xét xử gồm: tòa án cấp sơ thẩm, tòa án cấp phúc thẩm và tòa án tối
cao. Trong đó, tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ (ngoại trừ tòa
án quân chủng hải quân thuộc tòa án quân sự), đồng thời pháp luật tố tụng Việt
Nam cũng phân chia thẩm quyền xét xử của tòa án thành ba loại: thẩm quyền xét
xử theo sự việc, thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ và thẩm quyền xét xử theo đối
tượng. Thẩm quyền này trong Bộ luật TTHS 2003 được quy định cụ thể như sau:
1.2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
Tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm.
* Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực.
Đây là cấp xét xử đầu tiên trong thứ tự các cấp xét xử theo quy định của Bộ
luật TTHS Việt Nam. Khoản 1 Điều 170 có quy định: “Tòa án nhân dân cấp



huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng,
trừ những tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221,
222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình
sự”.
Theo đó, tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực được xét xử
các loại tội có mức phạt cao nhất 15 năm tù trừ các tội phạm đã liệt kê tại Điểm
a, b, c Điều 170 theo quy định của Bộ luật TTHS. Đây là sự tiến bộ so với ĐIều
145 Bộ luật TTHS năm 1988 khi thẩm quyền xét xử sơ thẩm chỉ giới hạn ở
những tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống trừ:
các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và các tội quy định tại các
Điều 89, 90, 91, 92, 93, 101 (Khoản 3), 102, 179, 231, 232 Bộ luật hình sự. Việc
mở rộng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp huyện xuất phát từ vai trò của nó đối
với thực tiễn xét xử nhằm giảm công việc quá tải cho các tòa án cấp tỉnh, tòa án
cấp phúc thẩm, tòa án nhân dân tối cao. Mặt khác điều này cũng hoàn toàn phù
hợp với quá trình nâng cao năng lực của cán bộ tòa án, cơ sở vật chất tòa án cấp
huyện đáp ứng cho giai đoạn phát triển mới của nước ta.
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân
sự cấp quân khu
Cũng tại Điều 170, Khoản 2 có quy định: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội
phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân


sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình

lấy lên để xét xử”.
“Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa
án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực” được hiểu là các tội thuộc
trường hợp quy định tại Điểm a, b, c Khoản 1 điều 170 Bộ luật TTHS; những vụ
án có bị cáo phạm nhiều tội trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu (Điều 173). Nói
cách khác, thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh là được xét xử các vụ án có tội phạm
mà mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù (tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng) hoặc những vụ án mà bị cáo phạm nhiều tội trong đó có tội thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu thì tòa án cấp trên
xét xử toàn bộ vụ án; hoặc những vụ án không thuộc thẩm quyền của tòa án cấp
huyện hoặc thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án tỉnh thấy cần
thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của nó. Hiện nay, chưa có quy
định pháp luật cụ thể nào đưa ra điều kiện các vụ án được tòa án nhân dân cấp
tỉnh được lấy lên xét xử nên thường phải căn cứ vào tình tiết vụ án (phức tạp hay
không), có liên quan đến các đối tượng chủ chốt cấp huyện và trình độ của cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới (có đủ khả năng xét xử hay không) mà tòa án
nhân dân cấp tỉnh quyết định lấy lên xét xử. Thực tế các cơ quan trên vẫn phải áp
dụng thông tư số 02/ TTLN ngày 12 tháng 1 năm 1989 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư Pháp, Bộ Nội Vụ hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự 1988.
1.2.2 Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử của các
tòa án căn cứ vào những dấu hiệu địa điểm nhất định. Thẩm quyền này của các
tòa án được quy định tại Điều 171, 172 Bộ luật Tố tụng hình sự.


Theo đó: thẩm quyền xét xử sơ thẩm thuộc về tòa án nơi có tội phạm được
thực hiện. Quy định như vậy nhằm mục đích tạo điều kiện đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng (điều tra thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng…) và

người tham gia tố tụng (đảm bảo sự có mặt của họ tại phiên tòa) được thuận lợi.
Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện tội phạm thì tòa án nơi kết thúc điều tra có thẩm
quyền xét xử. Ví dụ: một người chuyên hành nghề trộm cắp trên các chuyến tàu,
thời điểm phạm tội và địa điểm phạm tội thường không thể xác định được, vậy
áp dụng nguyên tắc này thì tòa án nơi tội phạm được phát hiện, nơi bị cáo cư trú
hoặc bị bắt có thẩm quyền xét xử (xác định dựa vào thẩm quyền điều tra).
Riêng đối với “tòa án quân sự quân chủng hoặc tổ chức tương đương có tổ
chức tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử sơ thẩm không phụ thuộc vào nơi thực
hiện tội phạm, nếu người phạm tội thuộc đơn vị của quân chủng hoặc tổ chức
tương đương, hoặc tội phạm gây thiệt hại trực tiếp cho quân chủng hoặc tổ chức
tương đương”. Nếu không xác định được nơi thực hiện tội phạm hoặc trong
nhiều trường hợp có nhiều bị can thuộc nhiều đơn vị khác nhau hay tội phạm đó
được thực hiện ở nhiều nơi, nếu Viện kiểm sát quân sự truy tố bị can trước tòa án
quân sự nào thì tòa án quân sự đó có thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Bên cạnh đó, trong trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài nhưng được
xét xử tại Việt Nam mà thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân thì tòa án
nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền
xét xử (nếu không xác định được nơi này thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm). Còn nếu bị cáo thuộc thẩm quyền xét
xử của tòa án quân sự thì tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm theo quyết
định của Chánh án tòa án quân sự trung ương.


Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong trường hợp tội phạm xảy ra trên tàu bay,
tàu biển của Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam
thuộc về tòa án Việt Nam nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi
tàu bay, tàu biển đó được đăng ký. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với thông
lệ quốc tế cũng như quy tắc chung của Công pháp quốc tế. Máy bay, tàu biển

mang quốc tịch Việt Nam hoạt động ở không phận hoặc lãnh hải nước ngoài vẫn
được xem là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy tội phạm xảy ra trên tàu
bay, tàu biển của Việt Nam phải do tòa án Việt Nam xét xử.
Trong trường hợp chuyển vụ án không thuộc thẩm quyền của mình cho Tòa
án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân
khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. (Điều
174).
1.2.3 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét
xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội.
Tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 có quy định về thẩm
quyền xét xử của tòa án quân sự đó là: “…những vụ án hình sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu;
dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội
trực tiếp quản lý;
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà
phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội”
Dấu hiệu đối tượng tội phạm phân biệt rõ hai thẩm quyền giữa tòa án quân
sự và tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử hầu hết các đối
tượng phạm tội trừ các đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự


(theo Điều 3 pháp lệnh trên). Còn trong các tòa án quân sự thì việc phân định
thẩm quyền xét xử giữa các cấp lại cũng theo cấp bậc, chức vụ quân nhân (Điều
26, Điều 29 Pháp lệnh).
Ngoài những tội phạm có đối tượng không thuộc thẩm xét xử của tòa án
quân sự, Tòa án nhân dân có quyền xét xử những người không còn phục vụ trong
quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ

quân đội, những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của
họ được thực hiện trước khi vào quan đội nếu tội phạm đó không liên quan đến
bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội.
2. Thực tiễn thi hành và đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật
về thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
2.1 Những kết quả đạt được.
Sau 6 năm chính thức được thi hành, Bộ luật TTHS Việt Nam đã đóng góp
quan trọng cho thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là các quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Có thể điểm qua một số kết quả quan trọng sau đây:
Thứ nhất, việc mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện
bước đầu có những kết quả đáng khích lệ. Án tồn đọng cũng như khối lượng
công việc cho các cơ quan tòa án cấp trên có chiều hướng giảm.
Nhờ sự mở rộng thẩm quyền mà đã làm giảm đi áp lực về thẩm quyền xét
xử phúc thẩm không chỉ cho các tòa án nhân dân cấp tỉnh mà còn cho tòa án
nhân dân tối cao để tòa án nhân dân tối cao có thể tập trung vào chức năng giám
đốc thẩm, tái thẩm cũng như tổng kết kinh nghiệm xét xử, v.v..
Thứ hai, Bên cạnh đặt ra chỉ tiêu cho các tòa án cấp huyện , chúng ta cũng
có nhiều biện pháp nâng cao năng lực cán bộ cũng như cơ sở vật chất, đáp ứng
yêu cầu cơ bản trang thiết bị thiết yếu phục vụ cho công tác xét xử.


Ngoài ra, Việc thực hiện chủ trương tăng cường thẩm quyền xét xử cho các
tòa án cấp huyện đã tạo ra sự chuyển biến về nhận thức cho các cấp ủy Đảng và
chính quyền địa phương. Từ đó, có sự quan tâm hơn đối với hoạt động trọng
ngành tòa án nhân dân nói chung và các tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng.
2.2 Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử.
Thứ nhất: Bộ luật TTHS hạn chế quá nhiều trường hợp vụ án hình sự về tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng mà
Toà án cấp huyện không được xét xử tại điểm c khoản 1 Điều 170 (21 tội phạm
cụ thể). Do đó, án tồn đọng của các vụ việc này vẫn còn tương đối nhiều.

Thứ hai, vẫn tồn tại tranh chấp về thẩm quyền và chuyển vụ án giữa các tòa
án. Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân
sự cấp quân khu, Bộ luật TTHS quy định việc Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa
án quân sự cấp quân khu xét xử những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực là hợp lý. Tuy nhiên,
về vấn đề Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có thể lấy
vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án cấp dưới lên để xét xử như hiện nay là chưa
rõ ràng. Thực tế, các cơ quan này vẫn áp dụng theo tinh thần của Thông tư 02
nhưng hiện nay văn bản này đã hết hiệu lực.
Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử vẫn có một số trường hợp giữa Viện kiểm sát
và tòa án không thống nhất với nhau về thẩm quyền xét xử , nên vụ án đã không
được giải quyết theo đúng thẩm quyền. Ví dụ: vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án
tỉnh nhưng viện kiểm sát tỉnh không truy tố nên phải để cho tòa án huyện xét xử
và như vậy là việc xét xử không đúng thẩm quyền. Còn có trường hợp vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án khác cùng cấp (huyện) nhưng khi tòa án
không thuộc thẩm quyền chuyển vụ án thì viện kiểm sát cùng cấp đó không thay
đổi cáo trạng nên không xét xử được.


Sở dĩ như vậy là vì việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền pháp luật mới
chỉ đề cập đến giải quyết tranh chấp giữa các tòa án theo quy định tại Điều 175
Bộ luật TTHS mà chưa có quy định đối với việc thống nhất thẩm quyền giữa tòa
án và viện kiểm sát.
Thứ ba, Bộ luật TTHS 2003 không quy định trực tiếp phân biệt thẩm quyền
xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự mà việc này chỉ được quy định tại
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 là một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp
hơn. Từ đó, dẫn tới việc không phân định được rõ ràng mà đặc biệt là đối với các
vụ án liên quan đến cả hai hệ thống tòa án này.
Theo Điều 5 của Pháp lệnh trên thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án nhân dân, vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của

tòa án quân sự thì tòa án nhân dân xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của tòa án
nhân dân, tòa án quân sự xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự.
Trường hợp không tách được vụ án thì tòa án quân sự sẽ xét xử toàn bộ vụ án.
Như vậy, dẫn tới việc mâu thuẫn với chính Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự:
“chỉ được tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn
thành sớm việc điều tra đối với toàn bộ các tội phạm và nếu việc tách đó không
ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án”.
Thứ tư, hiện tại các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng đối
với việc xác định thẩm quyền xét xử của các vụ án có yếu tố nước ngoài. Bộ luật
TTHS chỉ quy định thẩm quyền xét xử trong các trường hợp bị cáo phạm tội ở
nước ngoài còn các vụ án liên quan đến yếu tố nước ngoài khác: người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự… là người nước ngoài; tội phạm thực hiện cả
nước ngoài và trong nước... thì không có quy định. Điều này dẫn tới việc các cơ
quan tiến hành tố tụng hết sức lúng túng trong việc điều tra, truy tố, xét xử.
Có thể nói một trong những nguyên nhân tác động tới việc xét xử còn nhiều
vướng mắc chính là do các quy định pháp luật trong Bộ luật TTHS cũng như các


văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được đề
cập, giải quyết tạo thành những “lỗ hổng”, giảm hiệu lực cũng như gây nhiều
vướng mắc cho thực tiễn thi hành. Điều này đã đặt ra yêu cầu phải có những
phương hướng khắc phục nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS.
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm.
Trước hết, xuất phát từ thực tiễn là năng lực thực tế của các cơ quan tiến
hành tố tụng nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện nói riêng đã
được nâng cao rất nhiều so với thời điểm BLTTHS có hiệu lực thi hành. Do đó
em đồng ý với quan điểm của Th.S Vũ Gia Lâm thể hiện trong đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, tháng 1 năm 2009: đối với các tội phạm quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS, trong thời điểm hiện tại, các Toà án cấp huyện

đã có khả năng xét xử hầu hết các tội phạm này, vì vậy chỉ nên quy định Toà án
cấp huyện không được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 điều luật sau thay
vì 21 Điều như hiện nay đó là Điều 172; 216; 217; 218; 219; 221; 222; 223; 263.
Thứ hai, Bộ luật TTHS nên quy định cụ thể trường hợp nào tòa án nhân
dân cấp tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu được lấy những vụ án thuộc thẩm
quyền của tòa án nhân dân cấp huyện, tòa án quân sự cấp khu vực lên để xét xử.
Vì như đã nói Thông tư 02 trước đây có quy định về vấn đề này nhưng hiện nay
văn bản này đã hết hiệu lực. Do vậy, để đảm bảo cho hoạt động xét xử được
thống nhất cần thiết phải có các quy định rõ hơn đối với các trường hợp này
trong một văn bản hướng dẫn mới, có hiệu lực thi hành.
Thứ ba, cần giải quyết mối quan hệ giữa tòa án với viện kiểm sát trong
trường hợp không thống nhất được về thẩm quyền theo việc. Chúng ta nên quy
định ngay từ đầu giai đoạn điều tra, truy tố: Viện kiểm sát truy tố không đúng
thẩm quyền phải chuyển hồ sơ, phải thay đổi bản cáo trạng chứ không phải đến
khi xét xử mới đề ra vấn đề không thuộc thẩm quyền theo việc. Trường hợp


không nhất trí với quyết định của tòa án thì viện kiểm sát có quyền báo cáo lên
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên.
Thứ tư, bổ sung quy định đối với quy định phân biệt thẩm quyền xét xử
giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự, đặc biệt là
quy định rõ về đối tượng xét xử của hai loại tòa án này. Tránh tình trạng việc
phân định thẩm quyền chỉ được đề cập tại một văn bản có hiệu lực pháp lý thấp
hơn (Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự), trong khi việc phân định thẩm quyền
xét xử giữa tòa án nhân dân và tòa án quân sự luôn có những vấn đề đáng quan
tâm.
Thứ năm, cần quy định về thẩm quyền của tòa án nào được xét xử những
trường hợp vụ án có liên quan đến yếu tố nước ngoài như: bị can, bị cáo là người
nước ngoài, tội phạm xảy ra ở trong nước và nước ngoài, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự là người nước ngoài…nhằm thống nhất trong giải

quyết giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ sáu, về quy định tại Điều 172 đối với tội phạm xảy ra trên tàu bay, tài
biển, khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam, Bộ luật TTHS
hiện hành quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nơi có sân bay, bến cảng
mà tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên ở trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay, tàu
biển đó đăng ký. Quy định như vậy dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn đẩy lẫn
nhau giữa các Toà án nói trên. Hơn nữa, khi sự việc xảy ra thường mang tính
khẩn cấp, việc quy định cả Toà án nơi đăng ký tàu bay, tàu biển có thẩm quyền
xét xử chắc chắn sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ và không
đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời đối với vụ án. Do đó, chỉ cần quy các
tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở vể đầu tiên
ở trong nước.


KẾT LUẬN
Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, tìm ra
những thuận lợi, khó khăn để đưa ra giải pháp khắc phục là việc làm cấp thiết và
quan trọng mà các Cơ quan chức năng cần thực hiện. Thông qua việc xét xử và
đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai đoạn xét xử sơ thẩm còn góp phần
giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của
cuộc sống xã hội nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng
như các hành vi vi phạm khác. Nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Với ý nghĩa quan
trọng như vậy, đòi hỏi pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
phải hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thực tiễn xét xử vụ án hình sự
của Tòa án các cấp.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 345-357
2. Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công, “Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án
hình sự”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008 tr. 103-110
3. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, “Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2003.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường:
“Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh
thần cải cách tư pháp”, Chủ nhiệm đề tài: TS Hoàng Thị Minh Sơn, Hà Nội,
2009.
5. Trần Thị Lê Na, “Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
hình sự của Tòa án nhân dân các cấp”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2009
6. Nguyễn Văn Huyên, “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của tòa án
nhân dân và tòa án quân sự các cấp”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội 1996.
7. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.
8. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
9. Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 04/2002/PL-UBTVQH11
ngày 04 tháng 11 năm 2002 về việc tổ chức tòa án quân sự.
10.Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA
ngày 18/4/2005 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an hướng
dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự.



×