Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.91 KB, 23 trang )

ĐỀ TÀI: Tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của các Ngân hàng Thương mại ở
Việt Nam
I.

Khái quát sự ra đời của NHTM ở VN

Trước 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống một cấp, không có sự tách biệt
giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh. Ngân hàng nhà nước (NHNN) vừa
đóng vai trò Ngân hàng Trung ương (NHTW) vừa là Ngân hàng thương mại (NHTM).
Đến năm 1990, do nhu cầu cải tổ hệ thống chuyển đổi từ cơ chế quản lý kinh doanh xã
hội chủ nghĩa sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước trong chủ trương phát
triển nền kinh tế đa thành phần. Do vậy, lịch sử ra đời cũng như phát triển của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam có mối liên hệ mật thiết với sự ra đời của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam. Có thể nói, lịch sử hình thành ngân hàng ở Việt Nam đã bắt đầu từ rất sớm, và
có thể tóm tắt theo các giai đoạn dưới đây:
1. Giai đoạn 1945-1951

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tình hình tài chính - tiền tệ của chính quyền cách
mạng gặp vô vàn khó khăn: Kho bạc chỉ còn hơn 1,25 triệu đồng Đông Dương, trong đó
một nửa là tiền rách; Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản thực dân và luôn
tìm cách phá hoại ta về tài chính, tiền tệ; các nguồn thu ngân sách quá ít ỏi so với nhu cầu
chi tiêu của chính quyền… Trước tình hình đó, Chính phủ đã kêu gọi nhân dân quyên
góp tài chính dưới các hình thức như “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, đồng thời gấp rút
chuẩn bị phát hành tiền.
Để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế kháng chiến, Chính phủ cho thành lập 3 khu
vực tiền tệ và cho phép phát hành các đồng tiền khu vực. Nhiều biện pháp đã được áp
dụng để tạo nguồn thu cho ngân sách, như: phát hành Công phiếu kháng chiến, Công trái
quốc gia… Ngày 3/2/1947, Nha tín dụng sản xuất, tổ chức tín dụng đầu tiên ở nước ta
được thành lập với nhiệm vụ giúp vốn cho nhân dân phát triển sản xuất, hạn chế cho vay
nặng lãi ở nông thôn, làm hậu thuẫn cho chính sách giảm tức và hướng dẫn nhân dân đi
vào con đường làm ăn tập thể.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951) đề ra chủ trương, chính sách mới về
kinh tế-tài chính, trong đó chỉ rõ: Chính sách tài chính phải kết hợp chặt chẽ với chính
sách kinh tế; thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới để ổn định tiền tệ,
cải tiến chế độ tín dụng. Thực hiện chủ trương đó, ngày 6/5/1951, tại hang Bòng thuộc xã
Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, với những nhiệm vụ chủ yếu là: Quản
lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ; quản lý Kho bạc Nhà nước; huy


động vốn và cho vay phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa; quản lý hoạt động kim dung
bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và đấu tranh tiền tệ với địch.
2. Giai đoạn 1954 - 1964

Hòa bình lập lại, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tiến hành thu hồi tiền địch ở vùng
mới giải phóng, thiết lập thị trường tiền tệ thống nhất trên Miền Bắc. Mạng lưới ngân
hàng được mở rộng tới các huyện, quận, thị xã; đội ngũ cán bộ được tăng cường, nâng
cao trình độ. Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động.
3. Giai đoạn 1965 – 1975

Đây là thời kỳ Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chiến sự diễn ra rất ác liệt, mọi
hoạt động của Ngân hàng Nhà nước phải chuyển hướng để phù hợp với hoàn cảnh thời
chiến.
Ngân hàng Nhà nước đã cử hàng trăm cán bộ vào giúp Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam xây dựng nền tài chính - tiền tệ, đấu tranh với địch trên
mặt trận kinh tế, tài chính; triển khai phong trào tiết kiệm, góp sức người, sức của xây
dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến.
4. Giai đoạn 1975 - 1985


Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, nước ta bước sang một thời kỳ mới: thời kỳ hoà
bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước đã đề
ra nhiều chủ trương, chính sách để khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội sau chiến tranh.
Ngành Ngân hàng đã khẩn trương tiếp quản và cải tạo hệ thống ngân hàng của chế độ cũ
ở miền Nam, xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách mạng, thực hiện
thống nhất tiền tệ trong cả nước; ban hành và thực hiện nhiều biện pháp về tiền tệ, tín
dụng, quản lý ngoại hối, thanh toán để góp phần ổn định tình hình kinh tế và lưu thông
tiền tệ, đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt cho sản xuất, quốc phòng, an ninh và đời sống
kinh tế - xã hội; mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho
công cuộc tái thiết đất nước.
Tuy đạt được một số kết quả tích cực trong khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội,
song do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch
hóa tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nặng nề, bội chi ngân


sách ở mức cao trong nhiều năm, lạm phát có lúc ở mức 3 con số, hoạt động sản xuất, lưu
thông phân phối và đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
II.

Quá trình phát triển của các NHTM
1. Thời kỳ trước 2007
 Giai đoạn 1954 - 1964

Hòa bình lập lại, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tiến hành thu hồi tiền địch ở vùng
mới giải phóng, thiết lập thị trường tiền tệ thống nhất trên Miền Bắc. Mạng lưới ngân
hàng được mở rộng tới các huyện, quận, thị xã; đội ngũ cán bộ được tăng cường, nâng
cao trình độ. Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Hoạt động tín dụng được đẩy mạnh để đáp ứng yêu cầu khôi phục kinh tế, phục vụ

yêu cầu hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phát triển kinh tế quốc
doanh. Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều cải tiến trong công tác thanh toán không dùng
tiền mặt, mở rộng quan hệ thanh toán đến hầu hết các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan
của nhà nước; tập trung quản lý và đẩy mạnh các nguồn thu ngoại hối để đáp ứng nhu cầu
kiến thiết nước nhà.
Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động.
Đến cuối năm 1964, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với
265 ngân hàng tại 41 nước trên thế giới.
 Giai đoạn 1965 – 1975

Đây là thời kỳ Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, chiến sự diễn ra rất ác liệt,
mọi hoạt động của Ngân hàng Nhà nước phải chuyển hướng để phù hợp với hoàn cảnh
thời chiến.
Ngân hàng Nhà nước đã cải tiến và mở rộng các quan hệ tín dụng, thanh toán,
quản lý tiền mặt, quản lý quỹ ngân sách nhà nước, giúp các xí nghiệp sơ tán và phân tán
sản xuất, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh tín dụng ngân hàng phục vụ
phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể; tích cực khai thác các nguồn ngoại tệ cho


Nhà nước, bảo đảm thanh toán quốc tế thông suốt, đáp ứng yêu cầu sản xuất, chiến đấu
và đời sống.
Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong thời kỳ này đạt bình quân 85,5% tổng
mức chu chuyển tiền tệ qua quỹ ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước đã cử hàng trăm cán bộ vào giúp Chính phủ cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam xây dựng nền tài chính - tiền tệ, đấu tranh với địch
trên mặt trận kinh tế, tài chính; triển khai phong trào tiết kiệm, góp sức người, sức của
xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến.
 Giai đoạn 1975 - 1980


Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước
nhà. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ thống Ngân hàng
thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam.
Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã được quốc hữu
hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ
thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc vào năm 1978.
Trong giai đoạn này, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một
công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường.
Thực hiện chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng theo Quyết định
32/CP ngày 11/2/1977 của Hội đồng Chính phủ, Tổng giám đốc NHNN đã ban hành Thể
lệ cho vay vốn lưu động và quy định về cho vay đầu tư xây dựng cơ bản đối với các xí
nghiệp quốc doanh.
Hoạt động tín dụng bước vào thời kỳ cải tiến mạnh mẽ và mở rộng các loại cho
vay, trước hết là đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Hệ thống thanh toán thống nhất
trong cả nước được thiết lập; tình trạng công nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp, tổ chức,


đơn vị được giải quyết đáng kể. Quan hệ tín dụng và thanh toán quốc tế với các nước
XHCN được tăng cường.
Tháng 5/1977, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tham gia Ngân hàng Đầu tư quốc
tế (MIB), Ngân hàng hợp tác kinh tế quốc tế (MBES).
Để thống nhất tiền tệ trên cả nước, ngày 1/4/1978, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
08/NQ-TW về việc phát hành tiền ngân hàng mới, thu hồi tiền cũ ở cả hai miền. Ngày
2/5/1978, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên cả nước.
Tuy đạt được một số kết quả tích cực trong khôi phục và phát triển kinh tế - xã
hội, song do hậu quả của chiến tranh kéo dài, cộng với việc duy trì quá lâu cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đã khiến kinh tế nước ta rơi vào tình trạng suy thoái nặng nề, bội chi
ngân sách ở mức cao trong nhiều năm, lạm phát có lúc ở mức 3 con số, hoạt động sản

xuất, lưu thông phân phối và đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Để loại bỏ đồng tiền của chính quyền Sài Gòn ra khỏi đời sống kinh tế xã hội
thống nhất tiền tệ trong cả nước, Bộ Chính trị quyết định phát hành đồng tiền ngân hàng
Việt Nam ở miền Nam, thu đổi đồng tiền của chế độ Sài Gòn. Đợt thu đổi diễn ra từ ngày
22/9/1975 đến ngày 30/9/1975 với tỷ lệ 1 đồng tiền ngân hàng Việt Nam mới bằng 500
đồng tiền của chính quyền Sài gòn cũ.
Sau khi đổi tiền, Việt Nam hình thành hai khu vực lưu hành tiền tệ: tiền ở miền
Bắc do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành, tiền ở miền Nam do Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phát
hành. Hai đồng tiền đều là giấy bạc của Ngân hàng Nhà nước phục vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên cả nước.
 Giai đoạn 1980 - 1985

Trong thời kỳ 1989-1985 , hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối
gặp rất nhiều khó khăn. Thực hiện Nghị quyết 26/NQTW ngày 23/6/1980 của Bộ Chính
trị và các quyết định của Hội đồng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản pháp quy, chế độ nghiệp vụ về tiền tệ, tín dụng, thanh toán, cấp phát đầu tư xây


dựng cơ bản, ngoại hối; thực hiện “chính sách tín dụng tích cực, coi tín dụng là mặt trận
phía trước”, mở ra nhiều hình thức cho vay mới nhằm đáp ứng nhu cầu vốn và tiền mặt,
góp phần thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, hỗ trợ ngành thương nghiệp quốc doanh
thu mua nắm nguồn hàng phục vụ đời sống nhân dân và ổn định giá.
Cuộc thu đổi tiền tháng 9/1985 là chính sách kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước
trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một bộ phận trong kế hoạch tổng điều chỉnh giá lương - tiền nhằm ổn định sức mua của đồng tiền, phục vụ công cuộc xây dựng và cải tạo
xã hội chủ nghĩa.
 1986 đến 2007

Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để theo Nghị quyết Đại hội
Đảng VI và các Nghị quyết Đại hội Đảng sau đó, công cuộc đổi mới đất nước được triển

khai mạnh mẽ, nền kinh tế chuyển dần từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước và từng bước hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hệ thống Ngân hàng cũng từng bước đổi mới và phát triển, hoàn thiện về mô hình
tổ chức, thể chế pháp lý, công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Mô hình ngân hàng một cấp
chuyển thành mô hình ngân hàng hai cấp, tách bạch dần chức năng quản lý nhà nước của
Ngân hàng Nhà nước với chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng của các TCTD.
Hệ thống các TCTD có bước phát triển mạnh cả về quy mô và mạng lưới, loại
hình sở hữu, công nghệ, dịch vụ, ngày càng đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển
kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau một thời gian tiến hành làm thử việc chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh
doanh XHCN, ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT với
định hướng cơ bản là “chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh”. Tổ
chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước được kiện toàn, sắp xếp lại để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, đồng thời làm chức năng ngân hàng của các
ngân hàng; các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tín dụng và dịch
vụ ngân hàng.


Theo đó, bốn ngân hàng chuyên doanh được thành lập trên cơ sở chuyển và tách ra
từ Ngân hàng Nhà nước, gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển
nông nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua 2 Pháp lệnh Ngân hàng. Hệ thống
ngân hàng bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, căn bản và toàn diện phù hợp với chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng, Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách lãi suất dương, kết hợp sử dụng các
công cụ gián tiếp với công cụ kiểm soát trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ; hình
thành các thị trường tiền tệ; bước đầu hiện đại hóa công nghệ và tăng cường đào tạo
nguồn nhân lực cho việc vận hành hệ thống ngân hàng mới. Vốn tín dụng được mở rộng

cho mọi thành phần kinh tế và đạt mức tăng trưởng bình quân 36%/năm, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng trong nhiều năm.
Thời kỳ này, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
tế (IMF, WB, ADB) được tái lập và khơi thông.

Năm 1997, Quốc hội thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các
tổ chức tín dụng, tạo nền tảng pháp lý căn bản và mạnh mẽ hơn cho hệ thống Ngân hàng
tiếp tục đổi mới hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, góp phần giảm
thiểu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997; tiếp tục hoàn
thiện cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là cơ chế điều hành lãi suất.
Hệ thống các tổ chức tín dụng được chấn chỉnh, củng cố, từng bước xử lý nợ tồn
đọng và nâng cao năng lực tài chính. Công nghệ ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ;
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được đưa vào vận hành chính thức từ tháng
5/2002, các dịch vụ ngân hàng điện tử xuất hiện (E-Banking, Internet banking,...).


Ngân hàng Nhà nước tham gia đàm phán gia nhập WTO và tích cực triển khai các
cam kết về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
2. Thời kỳ 2007 đến nay
a. Tác động của thời kì hội nhập đến ngân hàng thương mại
 Các yếu tố tác động mang tính tích cực:


Các yếu tố tác động gián tiếp:

- Nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn
- Thị trường Việt Nam được mở rộng:
- Trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, việc sử dụng và ứng dụng công nghệ hiện

đại được nâng cao
- Thể chế kinh tế thị trường đã được xác lập và ngày càng hoàn thiện


Các yếu tố tác động trực tiếp:

Gia nhập WTO đã làm cho áp lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng gia tăng, và đây
cũng là động lực buộc các ngân hàng trong nước có sự chuyển mình mạnh mẽ,
- Quy mô tổng tài sản và năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng trên cả nước nói
chung và các ngân hàng trên địa bàn TP.HCM nói riêng liên tục tăng trưởng và phát triển
- Việc đầu tư và ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng ngày càng được đẩy mạnh và
phát triển,
- Chất lượng nguồn nhân lực, trình độ quản trị ngân hàng, tính chuyên nghiệp trong
hoạt động quản lý, kinh doanh từng bước được nâng cao.
 Các tác động tiêu cực

- Cạnh tranh trong ngành ngân hàng trở nên gay gắt và quyết liệt hơn, trong đó cạnh
tranh trong hoạt động tín dụng vẫn là cạnh tranh cơ bản, làm phát sinh những hệ lụy
gây bất ổn định trên thị trường tiền tệ


- Rủi ro hệ thống gia tăng và tần suất xuất hiện nhiều hơn,
- Thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển, gánh nặng cung ứng vốn cho nền
kinh tế vẫn đặt lên vai hệ thống ngân hàng, trong khi các chính sách vĩ mô của Việt Nam
lại chịu tác động từ việc hội nhập kinh tế quốc tế
- Cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý, mặc dù tổng huy động vốn của toàn ngành tăng,
song nguồn vốn trung và dài hạn vẫn hạn chế, trên 90% tỷ trọng vốn của ngân hàng hiện
nay là nguồn vốn ngắn hạn, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc quản
trị nguồn vốn, khó đảm bảo cân đối kỳ hạn
- Các ngân hàng thương mại VN đầu tư quá nhiều vào doanh nghiệp nhà nước, trong

khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các
ngành có khả năng cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các ngân
hàng thương mại (ví dụ như trường hợp Vinashin, Vinalines).
b. Đánh giá những kết quả của quá trình phát triển Ngân hàng Thương mại
 Về quy mô, số lượng các ngân hàng và số vốn điều lệ

-


Số lượng các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) ít, từ bốn
NHTMNN được thành lập ban đầu, sau đó ngân hàng Nhà Đồng Bằng Sông Cửu
Long (MHB) được thành lập thêm vào năm 1997. Trong khi đó, số lượng các
NHTMCP tăng mạnh trong thập kỷ 90, lên đỉnh điểm với 51 ngân hàng trong năm
1996, nhưng đã giảm dần từ đó xuống còn 34 ngân hàng do các quy định liên quan
tới vốn điều lệ tối thiểu và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, dẫn đến việc sáp nhập và
hợp nhất của một loạt các ngân hàng nhỏ và yếu kém.


Ngân hàng thương mại nhà nước

Hiện nay chỉ còn 1 NHTMNN ở Việt Nam: NH Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn (Agribank). Với vốn điều lệ 28840 nghìn tỷ đồng và 943 chi nhánh,
phòng giao dịch Agribank cung cấp tài chính cho phát triển nông thôn, nông
nghiệp và thương mại, công nghiệp trên toàn quốc.


Ngân hàng thương mại cổ phần


Tính đến 31/12/2014 Việt Nam có 37 NHTMCP với nhóm chín ngân hàng dẫn đầu có

tổng tài sản trên 100 nghìn tỷ VND. Tổng vốn điều lệ của các NHTMCP ở Việt Nam đạt
trên 160 nghìn tỷ VND tại thời điểm 30/12/2012, lớn gấp đôi so với con số 75 nghìn tỷ
VND ở khu vực NHTMNN. Số lượng các NHTMCP áp đảo số lượng NHTMNN nhưng
tính riêng vốn điều lệ của từng NHTMCP lại thấp hơn rất nhiều so với vốn điều lệ của
một NHTMNN. Cụ thể, một nửa số NHTMCP có số vốn điều lệ dưới 4.000 tỷ VND và
chỉ có bốn NHTMCP bao gồm NHTMCP Xuất Nhập khẩu Việt Nam (EIB), NHTMCP
Sài Gòn Thương Tín (STB), NHTMCP Sài Gòn (SCB) và NHTMCP Quân đội (MBB) có
số vốn điều lệ trên 10.000 tỷ VND. Ngân hàng nhỏ nhất ở khu vực NHTMNN trừ MHB
có số vốn điều lệ trên 23.000 tỷ VND trong khi EIB, NHTMCP lớn nhất, chỉ có 12.355 tỷ
đồng vốn điều lệ. Sáu trong 34 NHTMCP là công ty đại chúng bao gồm EIB, STB, MBB,
NTMCP Á Châu (ACB), NHTMCP Sài Gòn (SHB) và NHTMCP Nam Việt (NVB).
NHTMCP là nhóm ngân hàng có nhiều thương vụ mua bán sáp nhập (M&A) diễn ra nhất
trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong khoảng thời gian trước năm 2005, phần
lớn các thương vụ M&A diễn ra giữa các ngân hàng trong nước với nhau. Khi đó, rất
nhiều ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn đã được mua lại và sáp nhập. NHTMCP
Phương Nam đã mua lại các ngân hàng: NHTMCP Nông thôn Đồng Tháp, Ngân hàng
Châu Phú, Ngân hàng Đại Nam và Ngân hàng Cái Sắn. STB mua Ngân hàng Nông thôn
Thanh Thắng, và NHTMCP Phương Tây mua Ngân hàng Nông thôn Tây Đô. Từ sau năm
2005, các hoạt động M&A ở khu vực NHTMCP đã thay đổi nhờ sự tham gia của các nhà
đầu tư trong nước và đặc biệt là các đối tác nước ngoài đầu tư vốn vào ngân hàng và trở
thành nhà đầu tư chiến lược. Sự tham gia của các đối tác nước ngoài ở các NHTMCP đã
thực sự trở thành xu hướng ngày càng gia tăng ở ngành ngân hàng Việt Nam. Việc tham
gia vào các NHTMCP sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài tiết kiệm thời gian và chi phí
khi lần đầu bước chân vào một thị trường mới và đổi lại, các NHTMCP sẽ nhận được
không chỉ vốn mà còn có sự hỗ trợ chuyên môn và kỹ thuật tốt hơn từ những nhà đầu tư
chiến lược này.


Ngân hàng nước ngoài


Các ngân hàng nước ngoài (NH nước ngoài) có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, ngay sau khi
Chính phủ Việt Nam dỡ bỏ hàng rào và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở các chi
nhánh hoặc thành lập các ngân hàng liên doanh với ngân hàng Việt Nam theo Sắc lệnh về
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và các công ty tài chính năm 1990. Trong những năm đầu
thập niên 90, chỉ có bốn ngân hàng liên doanh giữa NHTMNN và NH nước ngoài được
thành lập.
 Về sở hữu nhà nước


Tại diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam vào tháng 12/2013, tình hình tư nhân hóa các
NHTMNN đã được cập nhật. Ở sự kiện này, Thủ tướng phát biểu rằng Nhà nước sẽ tiếp
tục bán các cổ phần của mình ở bốn NHTMNN trong năm 2014 và 2015. Thêm vào đó,
việc cổ phần hóa 500 doanh nghiệp nhà nước sẽ được khởi động, với mục tiêu hoàn thành
kế hoạch vào năm 2020. Mặc dù diễn ra chậm hơn rất nhiều so với kế hoạch ban đầu,
Chính phủ vẫn đang thể hiện cam kết của mình đối với kế hoạch tư nhân hóa các
NHTMNN và doanh nghiệp nhà nước. Tốc độ của quá trình cổ phần hóa và số lượng cổ
phiếu của các NHTMNN sẽ được chào bán phụ thuộc chủ yếu vào diễn biến của thị
trường chứng khoán Việt Nam trong những năm sắp tới. Nguồn cung cổ phiếu ồ ạt nói
chung có khả năng sẽ tạo áp lực khiến thị trường chứng khoán đi xuống.
 Về tăng trưởng tài sản

Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, khu vực ngân hàng cũng chứng kiến sự tăng trưởng
đáng kể về quy mô tài sản. Tổng tài sản khu vực ngân hàng tăng hơn gấp hai lần từ năm
2007 đến năm 2010, tăng từ 1.097 nghìn tỷ VND (tương đương 52,4 tỷ USD) lên 2.690
nghìn tỷ VND (tương đương 128,7 tỷ USD) theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Con số này đã đạt 5.637 nghìn tỷ VND tính đến 30/09/2013.
Trong thời kỳ này, các NHTMCP rõ ràng tăng trưởng nhanh hơn các NHTMNN. Điều
này có thể được giải thích bởi quy mô tài sản nhỏ hơn của nhóm này so với các
NHTMNN. Nói chung, quy mô càng nhỏ, tăng trưởng càng nhanh. Ở nhóm NHTMNN,
CTG phát triển nhanh nhất trong khi Agribank có tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm

(CAGR) ở mức 10,21%, thấp nhất trong nhóm. Ở nhóm NHTMCP, chỉ có ACB tăng
trưởng thấp hơn 20% một năm, các ngân hàng còn lại đều tăng trưởng nhanh với tỷ lệ
CAGR hơn 40%. Các ngân hàng có con số ấn tượng nhất là SHB và VPB với tỷ lệ
CAGR lần lượt là 69% và 53%. Tuy nhiên khi nhìn vào tỷ lệ CAGR từ năm 2011 đến
Quý 3/2013, con số này đã giảm mạnh xuống chỉ còn 4,6% trên toàn hệ thống, cụ thể là
10,8%, -1% và 7,6% lần lượt ở các nhóm NHTMNN, NHTMCP, NH nước ngoài. Nhóm
NHTMNN tuy tăng trưởng chậm hơn so với những năm trước đó nhưng vẫn thành công
khi tiếp tục tăng trưởng trong một năm đầy khó khăn như năm 2012. Trong khi đó, tài
sản của một vài NHTMCP đã bốc hơi như ACB, EIB và MSB, cụ thể hơn ACB đã bị
giảm đi một phần ba giá trị tài sản. Tỷ lệ tăng trưởng cao nhưng thiếu bền vững của một
vài NHTMCP là một biểu hiện của mức độ rủi ro cao hơn ở nhóm ngân hàng này. Mặc
dù đã tăng trưởng vượt bậc, so với các ngân hàng trong khu vực, các ngân hàng Việt Nam
vẫn còn rất khiêm tốn về quy mô tài sản.


 Tăng trưởng vốn

Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua ba lần thay đổi quy định về vốn điều lệ qua
việc ban hành Quyết định 67/QĐ-NH5 (ban hành ngày 27/03/1996), Nghị định
82/1998/NĐ-CP (ban hành ngày 03/10/1998), và Nghị định 141/2006/NĐ-CP (ban hành
ngày 22/11/2006). Cụ thể, bắt đầu từ năm 1996, quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu để
thành lập một NHTMCP khá thấp và nó thay đổi phụ thuộc tùy thuộc vào nhiều yếu tố
như ngân hàng được thành lập ở khu vực thành thị hay nông thôn, mở thêm hay không
mở thêm chi nhánh. Ví dụ, Ba tỷ VND là số vốn tối thiểu để mở một ngân hàng mà
không mở thêm chi nhánh ở khu vực nông thôn, trong khi để mở một ngân hàng ở Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh cần ít nhất số vốn lần lượt 100 tỷ VND và 150 tỷ VND.
Do những yêu cầu về vốn thấp, khả năng sinh lời tương đối tốt và tính ổn định của ngành
ngân hàng thời bấy giờ, đã có một làn sóng mạnh mẽ thành lập các NHTMCP cỡ nhỏ.
Tuy nhiên, không phải tất cả các ngân hàng nhỏ này đều hoạt động hiệu quả như mong
đợi. Đối với một vài ngân hàng, sự thiếu kiểm soát và kinh nghiệm, hoạt động cho vay

nghèo nàn cùng sự cạnh tranh dữ dội đã đưa họ đến tình trạng thiếu thanh khoản, mất khả
năng thanh toán và âm vốn chủ sở hữu. Nền tảng vốn mỏng không đủ khả năng hấp thụ
thua lỗ do hoạt động yếu kém đã khiến các ngân hàng này không còn sự lựa chọn nào
khác ngoài việc phá sản hoặc bị mua lại bởi những ngân hàng mạnh hơn. Đối với những
ngân hàng nhỏ còn sống sót, họ ý thức rõ được sự cần thiết trong việc duy trì tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu (CAR) và tích cực gia tăng vốn điều lệ. Với việc ban hành Nghị định 141
năm 2006, Chính phủ đã nâng mức vốn pháp định áp dụng cho tất cả các tổ chức tín dụng
ở Việt Nam lên mức mới như sau:


Nghị định này quy định rằng bất kỳ ngân hàng thương mại nào không đáp ứng được yêu
cầu về vốn điều lệ trước ngày 31/12/2010 sẽ bị buộc phải hợp nhất, thu hẹp quy mô hoạt
động, hoặc bị rút giấy phép. Chỉ có 20 ngân hàng đáp ứng được yêu cầu này đúng thời
hạn. 29 ngân hàng thương mại không có khả năng đáp ứng yêu cầu này đúng hạn một
phần do hoạt động yếu kém của thị trường chứng khoán, một phần do sự gia tăng phát
hành cổ phiếu của một loạt ngân hàng muốn tăng vốn đồng thời. Trước tình hình đó,
chính phủ đã gia hạn tới ngày 31/12/2011 (theo Thông tư 10/2011/ND-CP). Quy định này
làm giảm bớt áp lực lên việc tăng vốn ngay lập tức và giúp các ngân hàng có thêm thời
gian để thực hiện kế hoạch tăng vốn trong năm 2011. Tính đến cuối 2011, chỉ còn hai
ngân hàng chưa đáp ứng đủ yêu cầu về vốn, gồm có NHTMCP Xăng dầu Petrolimex
(PGBank) với mức vốn 2.000 tỷ VND và NHTMCP Bảo Việt với mức vốn điều lệ 1.500
tỷ VND. Tính đến nay, tất cả các ngân hàng thương mại đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về
vốn điều lệ. Tổng số vốn đăng ký của 39 ngân hàng thương mại Việt Nam là 298.383 tỷ
VND, với quy mô trung bình là 7.651 tỷ VND một ngân hàng. Bốn ngân hàng có số vốn
điều lệ lớn nhất đều là NHTMNN, trong đó CTG giữ vị trí thứ nhất với số vốn điều lệ trị
giá 32.661 tỷ VND.


Trong 34 NHTMCP, chỉ có bốn ngân hàng có số vốn trên 10.000 tỷ VND. Dễ thấy độ
lệch chuẩn của vốn điều lệ của các ngân hàng này khá lớn, và giá trị trung bình lớn hơn

rất nhiều so với trung vị, điều này cho thấy hệ thống ngân hàng đang phân phối lệch về
phía các ngân hàng nhỏ. Khi chúng tôi so sánh quy mô của các ngân hàng đã niêm yết
(màu xanh đậm), CTG, ngân hàng lớn nhất, thậm chí cũng không thể so sánh được với
các ngân hàng trong khu vực.
 Tăng trưởng huy động và tín dụng

Khu vực ngân hàng Việt Nam đã thể hiện sự tăng trưởng ấn tượng cả về huy động lẫn tín
dụng từ năm 2000. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2012, tỷ lệ CAGR(tốc độ tăng
trưởng hàng năm kép) là 28,87% đối với huy động và 28,28% đối với tín dụng. Tốc độ


tăng trưởng nhanh nhất diễn ra vào giai đoạn từ năm 2002 đến 2007, khi tỷ lệ CAGR đạt
37,5% đối với huy động và 35,8% đối với tín dụng. Sự tăng trưởng này đạt đỉnh vào năm
2007 ở mức 51,49% đối với huy động và 53,89% với tín dụng. Tăng trưởng của mức
cung tiền M2 đạt tỷ lệ CAGR ở mức 27,69% từ năm 2000 tới năm 2012.

Sự tăng trưởng tín dụng quá mức thường được coi là dấu hiệu của những vấn đề trong
tương lai của khu vực tài chính và không nhất thiết là một điều hay. Theo một nghiên cứu
của Schularick & Taylor (2009), sự bùng nổ tín dụng là một dự báo rõ ràng cho khủng
hoảng tài chính. Trong một khoảng thời gian kéo dài, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt
Nam gấp bốn lần tốc độ tăng trưởng GDP. Nói một cách khác, tín dụng đã tăng trưởng
quá nóng. Tốc độ tăng trưởng trong ba năm gần đây đã giảm đáng kể. Thị trường đã
chứng kiến tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng thấp nhất kể từ thập niên 90’. Tăng
trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt 9,14%. Trong ba quý đầu năm 2013, tăng trưởng tín
dụng chỉ đạt 6,87%, thấp hơn nhiêu chỉ tiêu 12% của NHNN đặt ra, và chậm hơn nhiều
so với sự tăng trưởng huy động. Lần đầu tiên từ năm 2000, tỷ lệ tín dụng/ huy động của
toàn hệ thống ngân hàng rơi xuống thấp hơn một (đạt 0,94 vào Quý 3/2013).


 Sở hữu chéo và những hệ lụy


Nhìn chung, thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như tỷ lệ nắm
giữ giữa các tổ chức, vai trò của các cổ đông và công tác giám sát vai trò này là những
vấn đề hết sức phức tạp bởi quan hệ chồng chéo mang tính lịch sử, đồng thời cũng mang
tính biến động cao, kết hợpvới nguồn thông tin hạn chế. Trước hết, rất nhiều công ty lớn,
đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các tập đoàn cổ phần, dù không thuộc lĩnh
vực tài chính nhưng hiện đang đầu tư dài hạn vớivai trò nhà sáng lập, nhà đầu tư chiến
lược trong các NHTM. Theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế Quốchội, hiện tại có khoảng
gần 40 các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có sở hữu trên 5% tại cácNHTMCP.
Đối với hình thức sở hữu chéo giữa các ngân hàng với nhau, Vietcombank hiện là TCTD
sở hữunhiều nhất cổ phần của những ngân hàng khác. Sau khi thoái vốn khỏi NHTMCP
Gia Định (tên mới làBản Việt), Vietcombank đang còn là cổ đông của SaigonBank,
Eximbank, Quân đội, Phương Đông vàOceanbank với các tỷ lệ nắm giữ khác nhau. Theo
thống kê, có khoảng 8 NHTMCP có quan hệ cổ phầnvới 4 NHTMNN. Quan hệ sở hữu
này hình thành chủ yếu từ những hạn chế nghiệp vụ ngân hàng củacác NHTMCP trong
giai đoạn đầu thành lập cũng như trong giai đoạn khủng hoảng 1997 – 1998. Ngoàira,
hiện tượng sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP cũng có xu hướng tăng lên trong thời
gian qua.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng còn tồn tại những quan hệ ràng buộc phức tạp về mặt
sởhữu khi mà các ngân hàng có những công ty con, công ty liên kết và những công ty này
cũng nắm giữcổ phiếu ngân hàng. Đơn cử, tính đến ngày 17/5/2012, CTCK Sài Gòn – Hà
Nội (SHS) sở hữu 3,74% vốntại NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB), đồng thời, SHB sở
hữu 8,22% vốn tại SHS. Với những biến đổingày càng phức tạp như vậy, sở hữu chéo


giữa các ngân hàng thuộc các nhóm 4, 5 và 6 nêu trênđang tạo ra những hệ lụy tác động
trực tiếp đến tính ổn định và lành mạnh của hệ thống.
Thứ nhất, nguồn lực và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng không được đánh
giáđúng mức. Sở hữu chéo đã cho phép nhiều ngân hàng với quy mô vốn điều lệ nhỏ lách
được quyđịnh của Nghị định 141/2006/ NĐ-CP về mức vốn pháp định của các TCTD,

theo đó vốn điều lệ thựcgóp của các ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và
3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thôngqua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng A có thể
vay tiền ngân hàng B thông qua một công ty đầutư tài chính của mình để góp vốn vào
ngân hàng A và ngược lại hoặc là ngân hàng A đầu tư vào ngânhàng B, ngân hàng B đầu
tư vào ngân hàng C và ngân hàng C lại quay lại đầu tư vào ngân hàng A.Chính điều này
đã tạo ra luồng vốn tưởng là góp thật vào hệ thống nhưng thực chất lại là vốn vay
lẫnnhau giữa các ngân hàng. Trong 4 năm qua, hàng loạt các NHTMCP đã nâng vốn điều
lệ lên 3.000 tỷđồng. Nhưng trên thực tế, quy mô của dòng vốn mới thực sự được bổ sung
vào hệ thống ngân hàng vẫn chưa được làm rõ. Với quy mô vốn điều lệ tăng, các ngân
hàng được phép huy động thêm tiền gửitrong dân cư và hàng nghìn tỷ đồng vốn huy động
mới này lại có thể được dùng để tài trợ cho nhữngdự án sân sau của chính các cổ đông
lớn của ngân hàng. Ngoài ra, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánhgiá rủi ro của hệ thống
ngân hàng vì rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn tự có như hệ số an toàn (CAR),hay tỷ lệ vốn
tự có/tổng tài sản, trong khi đó vốn tự có của các ngân hàng không thực chất là có quymô
như vậy mà bao gồm cả nguồn vốn ảo do sở hữu chéo. Trong những năm gần đây, tăng
trưởng tíndụng của các ngân hàng liên tục nóng khiến hệ số đòn bẩy tài chính tăng lên và
hệ số an toàn vốnCAR giảm, đồng thời tấm đệm để phòng ngừa rủi ro là vốn tự có lại
mỏng và bị gây nhiễu bởisở hữu chéo, tất cả những điều đó càng làm trầm trọng hơn
những khó khăn của hệ thống.Các chỉ số không chính xác lại dẫn đến sai lệch cả về quản
trị ngân hàng cũng như việc giámsát đối với hệ thống tài chính. Điều này là đặc biệt nguy
hiểm vì những rủi ro trong lĩnh vựcngân hàng tài chính khi bùng phát thì có sức lan tỏa
rất rộng và hậu quả nghiêm trọng chotoàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối vớicác doanh
nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho phép mộtdoanh
nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM có thể gây áp lực (mộtcách
hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị với vị thế cổ đông chiến lược) để
ngânhàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp
hay ngânhàng của mình. Hay nói các khác, khi một TCTD lớn chiếm cổ phần chi phối
ngân hàng khácvà biến ngân hàng này thành “sân sau” của mình, họ có thể buộc ngân
hàng bị chi phối cấptín dụng cho những dự án rủi ro hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ

thân thiết. Mặc dù theoquy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình
vay vốn, nhưng các ngânhàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con
của các doanh nghiệp vay vốn.Mặt khác, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của ngân
hàng chi phối lạm dụng quyền lựcbuộc ngân hàng mà mình có thể chi phối cấp tín dụng
để phục vụ lợi ích cá nhân.


Thứ ba, các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủiro của
NHNN có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng doanhnghiệp
không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dự phòng
rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợxấu
mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng A có sở hữu) cho vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong
những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống
ngânhàng.
 Nợ xấu

Nợ xấu được hiểu là một món nợ phải thu khó đòi. Việc xác định tính chất “khó đòi” của
nợ xấu được xác định khác nhau ở mỗi quốc gia. Phòng Thống kê – Liên Hiệp Quốc xác
định , “một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày;
hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm
trả theo thoả thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý
do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Tại Việt Nam, các khoản nợ của các TCTD được phân loại thành 5 nhóm theo thứ tự từ 1
đến 5 và từ nhóm 3 trở lên được xác định là nhóm “dưới tiêu chuẩn” tương đương với
việc thể hiện tính chất “khó đòi”. Cụ thể, theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban
hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt
động ngân hàng của TCTD được sửa đổi bổ sung bởi Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN,
nợ từ nhóm 3 gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ lần đầu, các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng. Đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy

định các ngân hàng thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán
các khoản vay vào các nhóm thích hợp. Như vậy nợ xấu theo pháp luật Việt Nam xác
định theo 2 phương pháp: (i) phương pháp định lượng dựa vào tính chất quá hạn của
khoản nợ và (ii) phương pháp định tính căn cứ theo khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Xét về bản chất, nợ xấu ngân hàng là do khách hàng vay vốn sử dụng vốn vay không hiệu
quả, nó thường phát sinh sau một chu kỳ vay vốn, thậm chí sau một thời gian dài. Do đó
nợ xấu là vấn đề tồn tại từ lâu trong hoạt động của các TCTD. Tuy nhiên, trong thời gian
gần đây nợ xấu của hệ thống các TCTD đang có chiều hướng gia tăng nhanh. Trong giai
đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng
trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại
đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012 dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng
tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh. Và
theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 9 năm 2012 tỷ lệ ngành ngân hàng
là 4,9 %. Tuy nhiên, theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế về đánh giá tình hình kinh tế xã hội
2012 – 2013 ra ngày 19/10/2012, tỷ lệ nợ xấu theo cơ quan thanh tra của NHNN đưa ra
tại cuối quý 2 năm 2012 là 8,82%, cao hơn con số 8,6% vào cuối quý 1 năm 2012 và cao


hơn nhiều con số báo cáo từ các TCTD (4,49%) tại cùng thời điểm. Trong khi đó, nợ xấu
của nhiều ngân hàng vẫn tiếp tục tăng lên trong quý 3

-

Bảng 1. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành (Nguồn: SBV.VCBS Tổng hợp)

III.

Xu hướng phát triển của NHTM trong thời kỳ hội nhập

Hoạt động của các NHTM VN sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng không chỉ của nền kinh tế

VN, mà còn chịu tác động từ các nhân tố từ bên ngoài. Điều này đặt ra một số vấn đề
vấn đề mà các NHTM phải quan tâm :


Thứ nhất ,một hệ thống NH không thể phát triển bền vững, năng lực cạnh tranh
cao trong bối cảnh năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp Xét trong nội bộ
ngành NH, sự có mặt của các NH nước ngoài đã làm tăng sức ép cạnh tranh trong
lĩnh vực NH. Các NH nước ngoài không chỉ cạnh tranh với các NH trong nước
trong việc cung cấp các dịch vụ NH hiện đại, mà còn cạnh tranh ngay cả về các
sản phẩm truyền thống như tín dụng, thanh toán, nhận tiền gửi v.v.. Mặc dù các
NH VN có lợi thế so sánh về mạng lưới, về khách hàng truyền thống nhờ vai trò
lịch sử nhưng kém hơn so về năng lực cạnh tranh với các NH nước ngoài về mức


độ hiện đại hóa công nghệ NH, về nguồn nhân lực, về trình độ quản trị hoạt động
và vấn đề quản lý rủi ro.
Một số công trình nghiên cứu cho rằng: một tổ chức tín dụng có khả năng cạnh
tranh cần có các đặc điểm sau:


Năng lực sáng tạo



Năng lực phân bổ và tái phân bổ danh mục tài sản và nợ



Năng lực cải thiện năng suất và quản lý nguồn lực




Khả năng thanh toán, vốn và thanh khoản



Chủ sở hữu mạnh.

 Điều đó có nghĩa là, để nâng cao năng lực cạnh tranh, việc tăng vốn là rất cần

nhưng chưa đủ mà cần phải tạo năng lực và động lực để cạnh tranh.
o Thứ hai , về chất lượng dịch vụ ngân hàng : Các dịch vụ mà các NH VN đang

cung cấp hiện nay, dù đã được đa dạng hoá nhưng vẫn đơn điệu, chủ yếu vẫn là
các sản phẩm truyền thống. Các dịch vụ NH hiện đại chưa phát triển hoặc phát
triển nhưng đồng bộ. Rất nhiều dịch vụ phát triển chưa xứng với tiềm năng, đặc
biệt là các dịch vụ bán lẻ, dịch vụ dành cho khách hàng thượng lưu, dịch vụ quản
lý tài sản, tư vấn và hỗ trợ tài chính, trung gian tiền tệ, trao đổi công cụ tài chính,
cung cấp thông tin tài chính và dịch vụ chuyển đổi. Hoạt động NH đầu tư và kênh
phân phối điện tử đã tăng trưởng nhanh chóng nhưng tính tiện tích và hiệu quả
kinh tế chưa cao. Các hoạt động tiền tệ, lãi suất, công cụ tỷ giá, công cụ phát sinh
ngoại hối, đầu tư vẫn trong giai đoạn đầu.
 Dịch vụ NH được cải tiến mạnh mẽ nhữn hạn chế, phát triển dịch vụ ngân hàng

về số lượng, chất lượng và khả năng tiếp cận.
o Thứ ba, về năng lực quản trị và công nghệ : Đến nay công tác quản trị rủi ro đối

với mỗi NH tuy đã được chú trọng, nhưng chưa thực sự trở thành công cụ hữu
hiệu phục vụ quản trị điều hành. Tình trạng vay mượn với lãi suất lên xuống thất
thường trên thị trường tiền tệ liên NH trong thời gian qua suy cho cùng đều bắt

nguồn từ việc các NH chưa quản trị tốt tài sản và thanh khoản. Do sự yếu kém từ
quản trị tài sản Nợ, tài sản Có và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu,


trong khi một số NHTM lại muốn sử dụng triệt để phần vốn này để cho các hoạt
động kinh doanh sinh lời, nên xảy ra thiếu thanh khoản cục bộ tại một số NH.
 Các NH VN cần phải nâng cao được chất lượng, tính tiện ích của dịch vụ, lợi thế

công nghệ và trình độ quản lý để cạnh tranh, mà chỉ dựa vào lãi suất và chính sách
khuyến mại ,phải khảng định được uy tín và thương hiệu với khách hàng
 Các ngân hàng thương mại Việt Nam phải từng bước chuyên môn hóa sâu hơn

các nghiệp vụ ngân hàng ,nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn ,nhanh chóng tiếp
cận và phát triển các hình thức dịch vụ ngân hàng hiện đại , đào tạo lại đội ngũ cán
bộ ngân hàn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ .

 Những biện pháp khắc phục những hạn chế

Thứ nhất, ngân hàng phải có tiềm lực tài chính mạnh. Tiềm lực tài chính thể hiện
ở quy mô vốn của ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn tự có lớn chắc chắn
sẽ tạo được một niềm tin nhất định từ công chúng. Hơn nữa, vốn tự có còn là cơ
sở nền tảng để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh khác như huy động
tiền gửi và cho vay, vì các hệ số an toàn trong tỷ lệ huy động tiền gửi hay cho vay
đều dựa vào yếu tố nguồn vốn tự có
 Thứ hai, khả năng sinh lời của ngân hàng phải cao. Với mức sinh lời cao, các
ngân hàng sẽ chứng minh cho các nhà đầu tư và khách hàng thấy khả năng hoạt
động và sử dụng nguồn vốn của mình hiệu quả như thế nào. Rõ ràng, khi so sánh
giữa các ngân hàng với nhau trước khi ra quyết định đầu tư, những bên có liên
quan không thể không xét đến các hệ số về khả năng sinh lời của ngân hàng như
ROA, ROE…

 Thứ ba, ngân hàng phải đảm bảo độ an toàn tài chính. Độ an toàn tài chính của
một ngân hàng thương mại thể hiện rõ nhất qua hai hệ số: tỷ lệ nợ xấu và tỷ trọng
vốn tự có trên tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro. Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam đã giảm rõ rệt trong những năm qua. Theo tiêu
chuẩn mới của quyết định 4932 , tỷ lệ nợ xấu giữa năm 2005 do các ngân hàng
thương mại tự xác định là trên 5%, do Ngân hàng Nhà nước phúc tra thì trên mức
7%; đến cuối năm 2005 giảm xuống chỉ còn 3,2%. Kết quả đó là do các tổ chức
tín dụng đã sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn tự có trên
tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro của toàn hệ thống chưa đạt được 8% (tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu). Thực tế cho thấy, chính các ngân hàng thương mại cổ phần lại



đạt được yêu cầu an toàn vốn tối thiểu 8% trong giai đoạn 2007 - 2008 theo hiệp
ước Basel Việt Nam đã ký kết với IMF, trong khi 5 ngân hàng thương mại nhà
nước lại cần rất nhiều nỗ lực mới đạt được tỷ lệ này. Sau khi các ngân hàng
thương mại nhà nước được NHNN VN cấp bổ sung 12.000 tỷ đồng vốn điều lệ,
các ngân hàng này mới đạt được yêu cầu an toàn vốn 4,5%. Các ngân hàng của
Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và Châu Âu đều đã đạt tỷ lệ từ 10 đến 14%.
 Thứ tư, các ngân hàng phải có uy tín cao và nắm giữ thị phần lớn trên thị trường.
Tuy hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện đang giữ vai trò chủ đạo
trong việc cung ứng dịch vụ ngân hàng so với các định chế tài chính khác trên thị
trường dịch vụ ngân hàng, nhưng thị phần huy động vốn và cho vay đang có xu
hướng giảm. Hơn nữa, trong một cuộc khảo sát gần đây do Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc UNDP phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư cho thấy uy tín
của các ngân hàng thương mại Việt Nam đang có nguy cơ giảm sút nghiêm trọng
khi có đến 42% doanh nghiệp, 50% dân chúng được hỏi đều cho rằng họ sẽ lựa
chọn vay ở các ngân hàng nước ngoài và 50% doanh nghiệp, 62% dân chúng sẽ
lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền khi chúng ta hội nhập đầy đủ với thị
trường tài chính trong khu vực và thế giới.

 Năm là, các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
So với các ngân hàng nước ngoài, trình độ cơ bản nguồn nhân lực của các NHTM
Việt Nam còn khá thấp, đặc biệt là trong kỹ năng quản lý, điều hành và trình độ
quản trị công nghiệp hiện đại. Sự hiện diện của các Trung tâm đào tạo trực thuộc
các NHTM NN đã thể hiện rõ kỳ vọng không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
nhân lực thông qua các hình thức đào tạo trong và ngoài nước, với mục tiêu nâng
cao tầm và kỹ năng cán bộ lãnh đạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ có kỹ năng sâu
về chuyên môn, nghiệp vụ, giỏi về ngoại ngữ, có khả năng về quản trị công nghệ
hiện đại, có phẩm chất tốt về đạo đức nghề nghiệp nhằm phục vụ khách hàng tốt
hơn và có sức cạnh tranh trên thị trường và có đủ khả năng hội nhập vào hệ thống
tài chính khu vực và thế giới.
 Sáu là, ngân hàng phải được trang bị trình độ công nghệ hiện đại. Quá trình triển
khai thành công Dự án hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán – giai đoạn
1 đã giúp các ngân hàng từng bước đưa trình độ công nghệ ngân hàng Việt Nam
tương đương các nước tiên tiến trong khu vực



×