Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần quản lý đầu tư và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.65 KB, 94 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục đích của việc phân tích tài chính là giúp người sử dụng thông tin đánh
giá được sức mạnh tài chính, khả năng hoạt động, sinh lời và triển vọng của doanh
nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các chủ
doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp mà các thông tin từ việc phân tích
tài chính mang lại còn hữu ích đối với các nhà đầu tư, nhà cung cấp, nhà cho vay,
người lao động trong doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đặc
biệt, đối với các công ty cổ phần, công tác này đặc biệt chiếm vị trí nổi bật bởi nó
ảnh hưởng rất lớn tới việc ra quyết định của các nhà đầu tư - một nhân tố giữ vai
trò không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp.
Song, vì những lý do khác nhau, trên thực tiễn, công tác phân tích tài chính
tại các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự trở thành công cụ hữu ích cho các đối tượng
liên quan, do vậy chưa thực sự phát huy được vai trò, ý nghĩa tích cực của nó.
Công ty Cổ phần quản lý đầu tư và phát triển là doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, đại lý 04 chức năng bao gồm bán xe, bán
phụ tùng và sửa chữa bảo dưỡng xe ô tô và bước đầu kinh doanh vận tải du lịch
(taxi). Mảng kinh doanh liên quan đến xe mới là mảng kinh doanh chính, doanh
nghiệp chịu sự cạnh tranh khá lớn của 16 doanh nghiệp cùng làm đại lý ủy quyền
của Toyota Việt và các đại lý ủy quyền của các hãng ô tô có mặt tại Việt nam cũng
như các doanh nghiệp kinh doanh ô tô nhập khẩu. Muốn tồn tại và phát triển trong
bối cảnh cạnh tranh, một nhân tố quan trọng là doanh nghiệp cần phải đánh giá
chính xác thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp để có thể ra những
quyết định đúng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có nhận được sự quan tâm của các nhà
đầu tư, các nhà cho vay, các nhà cung cấp… hay không cũng chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan
trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, Công ty Cổ phần quản lý đầu tư và phát
triển cũng quan tâm tới công tác này. Tuy nhiên, công tác phân tích tài chính của



2

Công ty vẫn chưa thực sự có hệ thống, chưa có chiều sâu, chưa thực sự là công cụ
đắc lực cho việc ra quyết định của các nhà quản lý và chưa trở thành đòn bẩy để thu
hút sự quan tâm của các đối tượng liên quan khác. Để khắc phục những tồn tại trong
công tác phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần quản lý đầu tư và phát
triển, tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ
phần quản lý đầu tư và phát triển” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là lý thuyết về phân tích tài chính doanh
nghiệp và đánh giá thực tiễn công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần quản
lý đầu tư và phát triển trong 2 năm gần đây (2008-209).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ
phần quản lý đầu tư và phát triển từ năm 2007 đến năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương
pháp logich, các phương pháp nghiên cứu kinh tế như: thống kê, thu thập dữ liệu,
phân tích, tổng hợp, so sánh và một số phương pháp khác.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài: ”Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần quản lý
đầu tư và phát triển”, kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về công tác phân tích tài chính tại
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần
quản lý đầu tư và phát triển.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ

phần quản lý đầu tư và phát triển.


3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Khi nghiên cứu quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường, Các Mác khái quát qua công thức tổng quát sau:
T -> H -> SX -> H’ -> T’
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành và
nó tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo các chức năng riêng biệt. Mục
đích của doanh nghiệp là sản xuất, cung cấp, trao đổi, hàng hóa và dịch vụ cho thị
trường nhằm tạo ra lợi nhuận. Các hoạt động đó không thể không liên quan đến sự
vận động của đồng tiền (tư bản). Doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất
định để mua các yếu tố đầu vào (trang thiết bị ,cơ sở vật chất ,vật tư hàng hóa, sức
lao động) đưa vào quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các yếu tố đầu vào
này kết hợp với nhau để sản xuất ra các yếu tố đầu ra để trao đổi được các doanh
nghiệp thực hiện trong một thời kỳ nhất định và cần phải có một loại vốn đặc biệt
đó là tiền. Các doanh nghiệp dùng tiền của mình để mua hàng hóa, dịch vụ cần thiết
cho sản xuất và tạo ra các sản phẩm hàng hóa khác, sau đó sản phẩm hàng hóa này
lại được dùng để trao đổi lấy tiền.
Có thể nói, mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian
tiền tệ và trong mỗi doanh nghiệp quá trình này được diễn ra thường xuyên và liên
tục tạo ra các dòng tài chính. Ngược chiều với sự dịch chuyển của các dòng vật
chất (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, sản phẩm dịch vụ..) các dòng tài chính này
dịch chuyển không ngừng tạo ra các nguồn quỹ khác nhau chuyển hóa lẫn nhau như
tài sản cố định, tồn kho, phải thu, phải trả, các khoản vay nợ…

Như vậy, quá trình sản xuất và trao đổi của các doanh nghiệp này sinh ra các
hoạt động tài chính, mặt khác hoạt động tài chính của doanh nghiệp phản ánh kết
quả của các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh của doanh


4

nghiệp qua thước đo giá trị. Hoạt động tài chính có quan hệ chặt chẽ với hoạt động
kinh doanh và nó phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Nói một
cách cụ thể hơn, hoạt động tài chính của doanh nghiệp là hoạt động của các luồng
chuyển dịch, các luồng vận động và chuyển hóa các luồng tài chính trong quá trình
sản xuất, cung cấp và trao đổi để tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ nhằm đạt mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp bao gồm các hoạt động cơ bản sau:
- Hoạt động huy động vốn và hình thành các nguồn vốn.
- Hoạt động sử dụng vốn trong quá trình kinh doanh.
+ Hoạt động phân phối vốn.
+ Hoạt động luân chuyển vốn trong kinh doanh.
- Hoạt động phân phối nguồn tài chính.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp hướng đến các mục tiêu sau:
• Hoạt động tài chính nhằm giải quyết tốt các quan hệ kinh tế, thể hiện qua
việc thanh toán với các đơn vị liên quan (như ngân hàng, nhà đầu tư, các đơn vị
kinh tế khác….). Mối quan hệ này sẽ được cụ thể hóa thành các chỉ tiêu đánh giá
về mặt lượng, chất và thời gian.
• Hoạt động tài chính đảm bảo nguyên tắc hiệu quả. Nguyên tắc này đòi hỏi
tối thiểu hóa việc sử dụng các nguồn vốn sản xuất, nhưng vẫn đảm bảo quá trình
SXKD bình thường và mang lại hiệu quả cao.
• Hoạt động tài chính phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng pháp luật,
chấp hành và tuân thủ các chế độ về tài chính tín dụng, nghĩa vụ đóng góp, kỷ luật
thanh toán với các đơn vị và cơ quan liên quan.

Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh
doanh, do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh hưởng đến tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu đều có
tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc nghiên cứu đánh giá sự chuyển dịch, biến đổi các luồng tài chính cùng
với sự ảnh hưởng của nó tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chính là hoạt
động phân tích tài chính.

1.2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp:


5

Phân tích tài chính là một công cụ của quản lý, trên cơ sở sử dụng hệ thống
chỉ tiêu phân tích phù hợp thông qua các phương pháp phân tích nhằm đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian hoạt động nhất
định. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp và các đối tượng quan
tâm đưa ra các quyết định nhằm tăng cường quản lý tài chính và đạt hiệu quả cao
nhất trong kinh doanh.
(PGS. TS. Phạm Quang Trung (2009) Giáo trình Quản trị tài chính doanh
nghiệp, NXB ĐHKTQD, Hà Nội, trang 203)
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình tổ chức bộ máy làm
công tác phân tích, thu thập và xử lý thông tin, lựa chọn mục tiêu phân tích, lựa
chọn phương pháp phân tích, triển khai phân tích bằng việc tính toán và so sánh các
chỉ số, phân tích các nội dung để đánh giá đầy đủ và chính xác nhất về tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp hướng đến các mục tiêu cơ bản
sau:
- Cung cấp các thông tin về thực trạng của doanh nghiệp như cơ cấu nguồn

vốn, cơ cấu tài sản, công nợ, tình hình sản xuất, kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận,
rủi ro, cơ hội hay thách thức, giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp có thể đánh giá được
các chỉ tiêu kết quả hoàn thành so với chỉ tiêu kế hoạch, những mặt mạnh, mặt yếu,
nguyên nhân qua đó đưa ra được những quyết định quản trị đúng đắn. Muốn vậy
công tác phân tích phải đảm bảo tính chính xác, kịp thời, đầy đủ.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp như lưu chuyển tiền tệ, cơ
cấu nguồn vốn, cơ cấu tài sản, khả năng thanh toán, quy mô hoạt động, tình hình tồn
kho, phân chia lợi nhuận…giúp cho các đối tượng quan tâm đưa ra được những
quyết định đầu tư hay tài trợ đúng đắn.
- Cung cấp số liệu cho các dự báo tài chính, giúp người quan tâm dự đoán
được tiềm năng tài chính của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn.
Hiện nay, công tác phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong
mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc
mọi hình thức, trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức


6

công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của
các thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có
ích và vô cùng cần thiết.

1.2.2. Vai trò của công tác phân tích tài chính
Với những mục tiêu trên, công tác phân tích tài chính có vai trò rất to lớn và
trở thành công cụ đắc lực cho các nhà quản trị doanh nghiệp, các nhà đầu tư, cho
vay, cơ quan thuế và các đối tượng quan tâm khác.
Phân tích tài chính đối với nhà quản trị doanh nghiệp.
Công tác phân tích tài chính trong doanh nghiệp trước tiên là nhằm phục vụ
cho công tác quản trị doanh nghiệp. Nhà quản trị cần các thông tin phân tích tài
chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh,

điểm yếu, thời cơ, thách thức của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các
quyết định của Ban Giám đốc về kế hoạch, kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, kiểm soát
các hoạt động quản lý.
Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư.
Nhà đầu tư là người cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức, cổ
phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư, khả năng an toàn của đồng vốn đầu tư. Họ
quan tâm tới phân tích để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một
căn cứ giúp họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp đó hay không.
Phân tích tài chính đối với người cho vay.
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của
khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người
cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không và khả
năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào.


7

Phân tích tài chính đối với cơ quan thuế.
Cơ quan thuế quan tâm đến số thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Thông tin tài
chính giúp họ nắm được tình hình nộp thuế, số phải nộp, số đã nộp, số còn phải nộp
của doanh nghiệp.
Ngoài ra phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người làm công trong
doanh nghiệp, thanh tra, cảnh sát kinh tế, các cơ quan thống kê…..
Như vậy sự cần thiết của phân tích tài chính cho các nhóm đối tượng sử dụng
thông tin khác nhau, có thể được khái quát như bảng sau:
Bảng 1: Vai trò của phân tích tài chính doanh nghiệp

Đối tượng quan
tâm


Cần thông tin để
quyết định cho các
mục tiêu

Yếu tố cần dự báo

Câu trả lời nhận được
từ các thông tin

-Lập kế hoạch cho-Chọn phương án nào
tương lai.
cho hiệu quả cao nhất.
Nhà quản trị
Điều hành hoạt động
-Đầu tư dài hạn.
-Huy động nguồn đầu tư
doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh.
-Chiến lược sản phẩmnào.
và thị trường
-Năng lực quản trị đơn
-Giá trị đầu tư nào sẽvị trong việc điều hành
thu được trong tương
Đầu tư hay rút vốn
Nhà đầu tư
lai.
khỏi đơn vị này?
-Các lợi ích khác có
thể thu được
Có nên cho đơn vị này-Đơn vị có khả năng

vay vốn hay không?trả theo đúng hợp
Nhà cho vay
Cho vay bao nhiêu?đồng không?
Như thế nào?
-Các lợi ích nào khác
-Hoạt động của
Cơ quan nhà nước-Các khoản đóng gópđơn vị có hợp pháp và
và người làm công cho Nhà nước.
thích hợp không?
-Có nên tiếp tục hợp-Đơn vị có thể tăng
đồng không?
thêm thu nhập cho
người làm không?
Qua đây ta thấy rất rõ vai trò của công tác phân tích tài chính. Tất cả các


8

thông tin mà các đối tượng khác nhau quan tâm và mong muốn phải được giải đáp
đều không có sẵn trong bất cứ một tài liệu nào của doanh nghiệp. Các thông tin có
được đều phải qua phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, thông qua việc
phân tích các báo cáo tài chính và các thông tin liên quan khác.

1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính.
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin, từ những thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài
doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin có đều
giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận kinh tế và thích
đáng.
Với các thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung (thông

tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi
suất), thông tin về ngành kinh doanh, thông tin vĩ mô, thông tin về khung pháp lý.
Tuy nhiên trong các nguồn thông tin có thể sử dụng, thông tin kế toán nội bộ
doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng
hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan
trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính.Vả lại, các doanh nghiệp
cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên
ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo
kế toán.
Báo cáo kế toán tài chính là những tài liệu có tính lịch sử và được lập với độ
chính xác cao, được pháp lệnh quy định và được báo cáo công khai phục vụ cho các
đối tượng cần tìm hiểu. Báo cáo kế toán tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các
chỉ tiêu kinh tế tài chính nhất định, nó phản ánh tình hình tài sản, tình hình sử dụng
vốn và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Qua đó có thể thấy báo cáo tài chính có mối liên hệ hữu cơ với công tác phân
tích tài chính trong doanh nghiệp. Trong đó, báo cáo kế toán tài chính là nơi chứa
đựng thông tin tài chính được phân tích tài chính sử dụng để phân tích xử lý và
đánh giá toàn bộ tình hình tài chính, tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của


9

doanh nghiệp. Mặt khác nếu xét trong mỗi quan hệ với quá trình quản lý tài chính
doanh nghiệp thì phân tích tài chính là công cụ trực tiếp phục vụ quản lý, đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Còn báo cáo kế toán tài chính được lập nhằm
phục vụ tốt hơn cho việc phân tích đánh giá quá trình này …Do đó chất lượng
thông tin tài chính của hệ thống báo cáo kế toán tài chính quyết định rất lớn đến kết
quả phân tích tài chính.
Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở thông tin từ các báo cáo tài
chính, đó là Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển

tiền tệ.

1.2.3.1.Bảng cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó, thường là tại thời điểm đầu
năm, cuối năm tài chính. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối
với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh, và quan hệ quản lý với
doanh nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng
cân đối số dư các tài khoản kế toán, một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh
nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện
có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, đó
là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành
các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo. Đó là vốn của chủ và
các khoản nợ.
Các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo sự giảm dần của
tính thanh khoản.
Bên tài sản:
Phần tài sản phản ánh giá trị toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo
cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, gồm 2 loại: tài sản lưu động
và tài sản cố định. Số liệu của phần này cho biết mỗi loại tài sản mà doanh nghiệp
có là bao nhiêu? Tình hình phân bổ tài sản đó như thế nào? Tỷ trọng từng loại trong


10

tổng số? Các số liệu này được tập hợp từ số dư các tài khoản kế toán loại 1 (tài sản
lưu động và đầu tư ngắn hạn) và các tài khoản loại 2 (tài sản cố định và đầu tư dài
hạn). Xét về mặt pháp lý, đây là các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
Bên nguồn vốn:

Nợ ngắn hạn (nợ phải trả cho nhà cung cấp, các khoản phải nộp, phải trả
khác, nợ ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng), nợ dài hạn (nợ
vay hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, vay bằng cách phát
hành trái phiếu), vốn chủ sở hữu (thường bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận
không chia, phát hành cổ phiếu mới). Từ trên ta có phương trình cơ bản sau:
Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Hay
Tổng tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản, bên
nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập về tài
chính của doanh nghiệp .
Bên tài sản và bên nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán đều có các cột chỉ
tiêu, số đầu kỳ, số cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số
khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán như: một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng
hóa nhận giữ hộ, nhận gia công, hàng hóa nhận giữ hộ, ngoại tệ các loại……..
Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình
doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế
toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được
khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của
doanh nghiệp.
Qua kết cấu nội dung của Bảng cân đối tài sản, có thể rút ra một số đặc điểm sau:
Một là, các chỉ tiêu được phản ánh dưới hình thức giá trị nên cho phép ta
tổng hợp được để đánh giá toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Hai là, bảng cân đối tài sản phản ánh vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp ở


11

tại một thời điểm nhất định. Do đó ta có thể thấy được tình hình biến động của tài
sản và nguồn vốn giữa các kỳ để thấy được tình hình biến động, qui mô, cơ cấu vốn,

mối quan hệ giữa năng lực sản xuất kinh doanh với trình độ sử dụng vốn và triển
vọng kinh tế tài chính của doanh nghiệp.
Ba là, thông qua các phương trình cơ bản, ta có thể đánh giá được một trong mối
quan hệ với các mục tiêu kinh doanh để biết được hướng đầu tư vốn của doanh nghiệp
đã hợp lý chưa. Và kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu là từ nguồn vốn vay
hay nguồn vốn tự có,từ đó rút ra kết luận về thực trạng tài chính của doanh nghiệp.

1.2.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh
Nguồn thông tin quan trọng khác được sử dụng trong phân tích tài chính là
những thông tin tài chính phản ánh trong báo cáo Kết quả kinh doanh. Khác với
bảng cân đối kế toán, báo cáo Kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền
trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả
năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo Kết quả kinh doanh cũng
giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa,
dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh
nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuấtkinh doanh, lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo Kết quả kinh doanh phản ánh
kết quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình
hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản
lý sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo Kết quả kinh doanh,
doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính,
doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng loại hoạt động đó.
Những loại thuế như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất không phải là
doanh thu và không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được phản ánh trên báo
cáo Kết quả kinh doanh. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản
phải nộp khác được phản ánh trong phần tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.


12


1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT) là một bộ phận quan trọng của hệ
thống các báo cáo tài chính trong doanh nghiệp, phản ánh việc hình thành và sử
dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. BCLCTT cung cấp
thông tin giúp người sử dụng đánh giá các thay đổi trong tài sản thuần, cơ cấu tài
chính, khả năng chuyển đổi của tài sản thành tiền, khả năng thanh toán và khả năng
của doanh nghiệp trong việc tạo ra các luồng tiền trong quá trình hoạt động.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được thiết kế để trả lời câu hỏi: Sự tăng trưởng và
mở rộng của doanh nghiệp được tài trợ như thế nào? Doanh nghiệp đã đi vay hay
phát hành cổ phiếu hay chỉ dùng chính số tiền đã được gia tăng qua hoạt động sản
xuất kinh doanh?

BCLCTT cung cấp thông tin về những sự kiện và nghiệp vụ

kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tiền của một doanh nghiệp, cụ thể là
những thông tin về các vấn đề sau:
- Doanh nghiệp đã bằng cách nào kiếm được tiền và chi tiêu như thế nào?
- Quá trình đi vay và trả nợ của doanh nghiệp.
- Quá trình mua bán lại chứng khoán vốn của doanh nghiệp và của các doanh
nghiệp khác.
- Quá trình thanh toán cổ tức và các quá trình phân phối khác cho chủ sở hữu
và cho các đối tượng khác.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Những thông tin từ BCLCTT cùng với các thông tin ở các báo cáo tài chính
khác sẽ giúp cho những người sử dụng các báo cáo tài chính đánh giá khả năng tạo
ra các luồng tiền trong tương lai, khả năng thanh toán các khoản nợ, khả năng chi
trả lãi cổ phần cũng như những nhu cầu của nó đối với những nguồn tài chính ngoại
sinh. Những thông tin này còn giúp cho người sử dụng xem xét những lý do về sự
khác nhau giữa lãi với các khoản thanh toán bằng tiền.

Những luồng tiền vào và những luồng ra của tiền và các khoản coi như tiền
của BCLCTTD được tổng hợp và phân thành 3 nhóm: các hoạt động sản xuất kinh
doanh, các hoạt động đầu tư và các hoạt động tài chính.
- Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Luồng tiền phát sinh


13

từ hoạt động kinh doanh là luồng tiền có liên quan đến các hoạt động tạo ra doanh
thu chủ yếu của DN, cung cấp thông tin cơ bản để đánh giá khả năng tạo tiền của
DN từ các hoạt động kinh doanh để trang trải nợ, duy trì hoạt động, trả cổ tức và
tiến hành các hoạt động đầu tư mới mà không cần đến nguồn tài chính bên ngoài.
Thông tin về luồng tiền này khi sử dụng kết hợp với các thông tin khác sẽ giúp
người sử dụng dự đoán luồng tiền từ hoạt động kinh doanh trong tương lai. Các

HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH

luồng tiền chủ yếu từ hoạt động kinh doanh gồm: tiền thu từ bán hàng, cung cấp
dịch vụ; tiền trả cho người cung cấp hàng hóa dịch vụ, tiền chi trả lãi vay, tiền chi
Dòng thu
Dòng chi
trả cho người lao động….
- Lưu chuyển- Doanh
tiền tệthu
từbán
hoạt
động đầu tư: -Luồng
phát bán
sinh từ hoạt động

hàng
Chi trả tiền
cho người

đầu tư là luồng tiền -có
liên
quan
xây
nhượng bán, thanh lý
Thu
từ nợ
phảiđến
thu việc mua sắm,
- Chi
trảdựng,
CBCNV
tài sản dài hạn và các
khoản
đầuđầu
tư tư
khác
khoản
-Thu
cổ phiếu
bằngkhông
tiền thuộc
- Đóng các
thuế,trả
lãi tương đương tiền.
Các luồng tiền chủ yếu

hoạt động đầu tư gồm:- tiền
thu từ việc thanh lý, nhượng
- Thutừ
khác
Chi khác
bán tài sản cố định và các khoản tài sản dài hạn khác; tiền thu hồi đầu tư góp vốn

TIỀN VÀ
TIỀN VÀ
vào các đơn vị khác (trừ trường hợp tiền thu- từ
đích
CÁC
Chibán
kháclại cổ phiếu đã mua vì mục
CÁC
thương mại); tiền thu hồi cho vay (trừ trường hợp tiền thu hồi cho vay củaKHOẢN
ngân
KHOẢN
TƯƠNG
hàng, tổ chức tín dụng và các tổHOẠT
chức tài
chính);ĐẦU
tiền chi
sản
TƯƠNG
ĐỘNG
TƯmua sắm, xây dựng tài
ĐƯƠNG
ĐƯƠNG
cố định và tài sản dài hạn khác; tiền chi đầu tư góp vốn vào các đơn vị khác (trừ

TIỀN
TIỀN
trường hợp tiền chi mua cổ phiếu vì mục đích thương mại).
Dòng thu
Dòng chi
CUỐI KỲ
ĐẦU KỲ
- Lưu chuyển từ hoạt động tài chính: Bao gồm các khoản tiền thu được các

lý TSCĐ
Chi thanh lý TSCĐ
chủ sở hữu hay các-Thanh
nhà đầu
tư dưới hình- thức
phát hành cổ phiếu hoặc trực tiếp
-Hoàn
- Chi đầu
tư dàicho
hạn,vay
góp dưới
vốn, lDhình thức phát
nhận tiền góp vốn của
cácnhập
chủdựsởphòng
hữu, từ những
người

hành trái phiếu hay vay ngắn hạn hay dài hạn. Luồng tiền ra bao gồm các khoản tiền
-Thu khác


- Chi khác

đã chi ra để mua lại cổ phiếu của chủ sở hữu,tiền cổ tức đã trả các cổ đông và số
tiền đã chi ra để chuộc lại các trái phiếu đã tới hạn và để trả các khoản nợ vay.
Quá trình tiền tệ lưu chuyển ở doanh nghiệp qua các dòng thu và chi của 3

HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH

mặt hoạt động trên có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:
Dòng thu
-Phát hành trái phiếu và

Dòng chi
-Chi chuộc lại trái

phiếu nợ phải trả.

phiếu đã tới hạn.

-Thu từ vay ngắn hạn,dài

-Chi trả nợ bằng tiền

hạn

-Chi khác


14


Sơ đồ 1.1: Quá trình lưu chuyển tiền tệ

Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ bao gồm: dòng tiền nhập quỹ
từ hoạt động đầu tư, tài chính, dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất bao gồm: dòng tiền xuất quỹ thực


15

hiện sản xuất kinh doanh, dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính,
dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện
cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ.
Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm
mục tiêu đảm bảo chi trả.

1.2.4. Quy trình phân tích tài chính.
Quy trình phân tích tài chính trong doanh nghiệp thông thường bao gồm các
bước như sau:
Bước 1- chuẩn bị: Chuẩn bị các thông tin phân tích, bao gồm thông tin nội
bộ và thông tin bên ngoài. Thông tin nội bộ là các số liệu kế toán, các báo cáo kế
toán…. Thông tin bên ngoài là thông tin về ngành kinh doanh, chính sách vĩ mô, thị
trường…
Bước 2-Xác định mục tiêu: Mục tiêu bao gồm mục tiêu ngắn hạn, dài hạn.
Nhóm mục tiêu ngắn hạn có thể là đánh giá khả năng trả nợ, thu nợ ngắn hạn, cơ
hội kinh doanh ngắn hạn…
Mục tiêu dài hạn có thể là: Khả năng phát triển, khả năng thanh toán, khả
năng thu nợ, vay ngân hàng, cơ hội kinh doanh dài hạn …
Bước 3-Xem xét các báo cáo tài chính: Các chỉ tiêu cần xem xét như doanh
thu, lợi nhuận, cơ cấu tài sản, nguồn vốn, chi phí, tồn kho….Lập bảng ính toán các

chỉ tiêu như lợi nhuận sau thuế, dòng tiền, cơ cấu tài trợ, tài sản…
Bước 4-Phân tích: Nhằm trả lời cho các vấn đề như khả năng sinh lời, khả
năng thanh khoản, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, thu nhập vốn cổ phần…
Bước 5-Dự báo: Dự báo ngắn hạn về các chỉ tiêu như sinh lời ngắn hạn,
dòng tiền ngắn hạn, thanh khoản ngắn hạn… Dự báo các chỉ tiêu trong dài hạn như
sinh lời, dòng tiền, rủi ro, thu nhập vốn cổ phần….
Bước 6-Hoàn thiện, lập báo cáo và đề xuất.
Các bước phân tích như trên sẽ mang lại hiệu quả đối với doanh nghiệp do
xác định được mục tiêu của công tác phân tích nhằm trả lời những câu hỏi của nhà


16

quản trị. Quy trình phân tích rõ ràng mạch lạch cũng giúp đối tượng phân tích tiết
kiệm được chi phí và thời gian phân tích.

1.2.5. Phương pháp phân tích tài chính.
1.2.5.1. Phương pháp tỷ số.
Phương pháp tỷ số là phương pháp dùng các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ
tiêu này so với chỉ tiêu khác để phân tích. Đây là phương pháp truyền thống áp
dụng trong phân tích tài chính. Phương pháp này có tính hiện thực cao với điều kiện
áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ:
Thứ nhất, nguồn thông tin kế toán tài chính được cải tiến và được cung cấp
đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh
giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
Thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc
đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số.
Thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian
liên tục hoặc theo từng giai đoạn.

Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ
số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh
các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh
luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân
tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian để nhận biết xu hướng thay đổi
tình hình tài chính doanh nghiệp, theo không gian để đánh giá vị thế của doanh
nghiệp trong ngành.

1.2.5.2. Phương pháp DUPONT
Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính
DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên
nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất
của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh
nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu


17

(ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó
cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
Chẳng hạn, khi phân tích chỉ tiêu ROA(Doanh lợi tổng tài sản)
ROA

=

Thu nhập sau thuế
Tổng tài sản

Chỉ tiêu ROA phản ánh mức sinh lợi của toàn bộ danh mục tài sản của doanh
nghiệp, khả năng quản lý tài sản của các nhà quản lý doanh nghiệp. Tùy thuộc vào

tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta
lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so với tổng tài sản.
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác
động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách chỉ
tiêu ROA như sau:

PM : Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thế trong doanh thu
của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu
và quản lý chi phí có hiệu quả.
AU: Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Đến đây, có thể nhận biết được các yếu tố cơ bản tác động tới ROA của một
doanh nghiệp: Đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí và quản lý
tài sản.

1.2.5.3. Phương pháp so sánh
Cùng với phương pháo tỷ số, phương pháp so sánh là phương pháp được
dùng để so sánh sự biến động và mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích.
Để tiến hành so sánh được, cần phải giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
- Chọn chỉ tiêu so sánh: tiêu chuẩn so sánh ở đây là chỉ tiêu được chọn làm
căn cứ so sánh ( kỳ gốc để so sánh ). Tùy theo yêu cầu của phân tích mà chọn các
căn cứ hoặc kỳ gốc thích hợp.
Thí dụ: khi nghiên cứu về tốc độ tăng trưởng , kỳ gốc được chọn làm căn cứ


18

so sánh là tài liệu của năm trước hoặc kỳ trước. Khi nghiên cứu biến động so với
các mục tiêu đặt ra thì kỳ gốc được chọn có thể là số kế hoạch, dự toán. Khi xem
xét kết quả đạt được của doanh nghiệp với các đơn vị khác thì kỳ gốc được chọn có
thể là tiêu chuẩn trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành kinh doanh.

- Điều kiện có thể so sánh được : giữa các chỉ tiêu kinh tế khi so sánh với
nhau phải được quan tâm cả về thời gian lẫn không gian và đảm bảo các điều kiện
sau:
+ Phản ánh cùng nội dung kinh tế
+ Có cùng phương pháp tính toán
+ Có cùng đơn vị tính toán
Ngoài ra các chỉ tiêu kinh tế phải được quy đổi về cùng một quy mô hoạt
động với các điều kiện kinh doanh tương tự như nhau.
- Mục tiêu so sánh: Các chỉ tiêu kinh tế khi so sánh với nhau phải được thể
hiện dưới 3 hình thức:
+ So sánh số tuyệt đối: là kết quả so sánh giữa các kỳ phân tích được thực
hiện bằng phép trừ (-) giữa các mức độ của chỉ tiêu đang xem xét ở các kỳ khác
nhau. Kết quả so sánh bằng số tuyệt đối phản ánh biến động về mặt quy mô hoặc
khối lượng của chỉ tiêu phân tích.
+ So sánh số tương đối: là kết quả so sánh giữa các kỳ phân tích được thực
hiện bằng phép chia giữa các mức độ của chỉ tiêu đang xem xét ở các kỳ khác nhau.
Kết quả so sánh bằng số tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ, kết cấu của từng chỉ
tiêu trong tổng thể, hoặc biến động về tốc độ của chỉ tiêu nghiên cứu giữa các kỳ
khác nhau.
+ So sánh số bình quân: là chỉ tiêu biểu hiện tính phổ biến,tính đại diện của
các chỉ tiêu khi so sánh giữa các kỳ phân tích.
Ngoài ra khi tiến hành so sánh, người ta thường tiến hành so sánh theo chiều
dọc của các bản báo cáo để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số. Tiến
hành so sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt
đối của một khoản mục nào đó qua các năm tiếp theo.

1.2.6. Nội dung phân tích tài chính
Nội dung phân tích tài chính hướng đến các mục tiêu của nhà quản trị, nhà
đầu tư và nó mang tính quyết định phương pháp phân tích. Bởi vậy, các doanh



19

nghiệp tùy theo đặc điểm kinh doanh của mình mà lựa chọn nội dung cho phù hợp.
Ta có thể khái quát lại nội dung của phân tích tài chính theo từng nhóm dưới
đây:
• Xét về khả năng thanh toán: có các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả
năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
• Xét về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: có các chỉ tiêu phản ánh
mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh
nghiệp.
• Xét về khả năng hoạt động: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử
dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
• Xét về khả năng sinh lãi: nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất
kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
• Xét về diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: Chỉ tiêu này cho biết thông tin
về tình biến động tài sản được tài trợ bằng tình hình biến động vốn như thế nào.
Tùy theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn
tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt
quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà
đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất –
kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá
khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi
nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ
cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng
kể tới lợi ích của họ.
Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích.

1.2.6.1. Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán

Các tỷ số này được rất nhiều người quan tâm như các nhà đầu tư, người cho
vay, người cung cấp. Họ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên
góc độ: doanh nghiệp có khả năng trả các món nợ ngắn hạn hay không?
Các món nợ ngắn hạn là những khoản phải chi trả trong kỳ. Đó là các khoản


20

vay ngắn hạn, nợ dài hạn tới hạn trả, phải trả nhà cung cấp, các khoản phải nộp…
Nợ ngắn hạn được xác định bằng chênh lệch giữa nợ phải trả với nợ dài hạn ở phần
nguồn vốn của bảng cân đối tài sản.
Để thỏa mãn yêu cầu này, doanh nghiệp cần phải dùng toàn bộ phần tài sản
thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới hạn. Tuy nhiên
không thể dùng tài sản cố định để thanh toán vì nó có thời gian thu hồi vốn lớn hơn
thời gian đáo nợ. Phần tài sản dùng để trả nợ chỉ có thể là tài sản lưu động vì nó là
những tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong vòng thời gian nhất định, thông
thường là dưới một năm.
Thuộc nhóm này gồm:
• Khả năng thanh toán hiện hành: Được tính bằng công thức
Khả năng thanh toán hiện hành

=

Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn

Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển
nhượng, các khoản phải thu và dự trữ, còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản
vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải
trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác. Các tài sản lưu động và nợ

ngắn hạn đều có thời gian nhất định - tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện
hành là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức
độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể
chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ
đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các
nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (net working capital)
hay vốn lưu động thương xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố
quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một
doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và
tổng nợ ngắn hạn, hoặc phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản
cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán , mở rộng quy mô sản xuất


21

kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ
thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy, sự phát triển của không ít doanh
nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng vốn lưu động.
• Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
Là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay
vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền bao gồm:
tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ là các tài sản khó
chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do
vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn
hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ và được xác định bằng cách lấy tài
sản lưu động trừ phần dự trữ chia cho nợ ngắn hạn.
Khả năng thanh toán nhanh =

Tài sản lưu động-Dự trữ

Nợ ngắn hạn

• Tỷ số dự trữ (tồn kho) trên vốn lưu động ròng.
Tỷ số này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng. Nó
được tính bằng cách chia dự trữ cho vốn lưu động.
Tỷ số dự trữ

=

Dự trữ
Tài sản lưu động

1.2.6.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các chủ doanh nghiệp đều mong muốn
gia tăng lợi nhuận, nhưng họ lại không thích rủi ro. Nghiên cứu tính cân đối vốn sẽ
góp phần giải quyết vấn đề này.
Tỷ số này được dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh
nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan
trọng trong phân tích tài chính. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu
công ty để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu
chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro
xảy ra trong sản xuất- kinh doanh chủ yếu là do các chủ nợ gánh chịu. Mặt khác,
bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm
soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ


22

tiền vay thì lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
• Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ) : Tỷ số này được sử dụng để xác

định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn và được
xác định bằng công thức:
Tỷ số nợ

=

Tổng nợ phải trả*100
Tài sản

Trong đó:
-

Tổng số nợ của doanh nghiệp là toàn bộ số nợ vay ngắn hạn, dài hạn và

các khoản phải thanh toán khác. Nó được xác định bằng tổng số nợ phải trả ở phần
nguồn vốn trong bảng cân đối tài sản.
- Tổng số vốn được xác định là số vốn mà doanh nghiệp đang có quyền
quản lý và sử dụng.
Thông thường các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số
này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị
phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ
muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Song,
nếu tỷ số nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.
• Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thể trả lãi: Thể hiện ở tỷ số
giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm
bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này
sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Tỷ lệ thanh toán lãi vay


=

LN trước thuế và lãi vay *100
Lãi vay

1.2.6.3. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác
nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan
tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả


23

sử dụng của từng bộn phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh
thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các tỷ số này để xem xét khả năng hoạt
động của doanh nghiệp.
• Vòng quay tiền:
Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số
tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân ( chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng ), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
• Vòng quay dự trữ (tồn kho ):
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm
và giá trị dự trữ ( nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm )
bình quân.
• Kỳ thu tiền bình quân.
Các khoản phải thu*360
Doanh thu
Trong kỳ phân tích tài chính, kỳ thu tiền được sử dụng để đánh giá khả năng

Kỳ thu tiền bình quân

=

thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một
ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương
mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.
• Hiệu suất sử dụng tài sản cố định.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ

Doanh thu
Tài sản CĐ

=

Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo
cáo.

• Hiệu suất sử dụng tổng tài sản.
Chỉ tiêu này được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số

giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng
doanh thu.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

=

Doanh thu

Tài sản


24

1.2.6.4. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lãi.
Tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh
doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
• Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm.
Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm(PM)

=

Thu nhập sau thuế
Doanh thu

Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
Thu nhập sau thuế
Vốn CSH
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập
ROE

=

sau thuế cho vốn chủ sở hữu. Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và
được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong
hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp
Khi sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT nhằm đánh giá tác
động tương hỗ giữa các tỷ số tài chính, nhà phân tích có thể thực hiện việc tách

ROE như sau:
ROE = PM × AU × EM
EM là hệ số nhân vốn chủ sở hữu, nó phản ánh mức độ huy động vốn từ bên
ngoài của doanh nghiệp. Nếu EM tăng, điều đó chứng tỏ doanh nghiệp tăng vốn
huy động từ bên ngoài.
PM : Doanh lợi tiêu thụ phản ánh tỷ trọng lợi nhuận sau thế trong doanh thu
của doanh nghiệp. Khi PM tăng, điều đó thể hiện doanh nghiệp quản lý doanh thu
và quản lý chi phí có hiệu quả.
AU: Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Đến đây, có thể nhận biết được các yếu tố cơ bản tác động tới ROE của một
doanh nghiệp: Đó là khả năng tăng doanh thu, công tác quản lý chi phí, quản lý tài
sản và đòn bẩy tài chính
Như vậy có thể hệ thống hóa các chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp


25

nói trên theo bảng liệt kê dưới đây:


×