Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI CÁC KHU BẢO TỒN BIỂN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.64 KB, 13 trang )

ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI CÁC KHU BẢO TỒN
BIỂN TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

1. Tại sao cần xây dựng mạng lưới khu bảo tồn biển
Các kết quả nghiên cứu khoa học của các chuyên gia trong và ngoài nước đã
đưa ra minh chứng để bảo tồn đa dạng sinh học và quản lý hiệu quả nguồn lợi, chúng
ta nhất thiết phải thiết lập được các hệ thống khu bảo tồn đại diện chiếm từ 20 – 30%
diện tích biển và đại dương (IUCN, 2007). Các mạng lưới này có thể khác biệt về giá
trị sử dụng và mức độ bảo vệ, nhưng tất cả đều phải thiết kế được các khu vực bị cấm
khai thác. Đại diện cho các hệ sinh thái, sinh cảnh và quần xã khác nhau và đa dạng
của môi trường sống ở biển và đại dương của chúng ta.
Hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ chỉ mới bắt đầu xây dựng các khu bảo
tồn biển có kích cỡ nhỏ. Điều không thực tế nếu chúng ta kỳ vọng rằng việc xây dựng
hệ thống các khu bảo tồn biển có thể đạt được chỉ thông qua một bước duy nhất. Thay
vào đó, các nhà hoạch định trông đợi việc phát triển từng bước một cách có chiến
lược để từ đó có thể thực hiện một mạng lưới đầy đủ.
Bước khởi đầu, các quốc gia và vùng lãnh thổ cần tập trung nguồn lực để phát
triển một vài khu bảo tồn được quản lý tốt, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng
địa phương. Các khu vực này có thể được sử dụng nhằm mô hình hóa các lợi ích của
một mạng lưới lớn hơn cho các nhà hoạch định chính sách và công chúng ở mức độ
rộng lớn hơn. Trong tất cả các trường hợp, mạng lưới các khu bảo tồn biển cần phải
được xem xét một cách thực tế và trong một bối cảnh cụ thể. Chúng không thể giải
quyết được các vấn đề thiếu hụt lớn trong quản lý đại dương hoặc quản lý nguồn lợi.
1.1. Mạng lưới khu bảo tồn biển là gì?
Một mạng lưới các khu bảo tồn biển (KBTB) là một tập hợp có tổ chức của
các KBTB đơn lẻ, được thiết kế để liên kết các khu vực đơn lẻ lại với nhau vàđại diện
cho toàn bộ các thuộc tính củađời sống sinh vật biển. Các cam kết quốc tế với các
mạng lưới KBTB nhận ra rằng, mạng lưới KBTB đáp ứng một cách đầy đủ các mục
tiêu về sinh thái và xã hội mà một KBTBđơn lẻ không thể đạt được. Với sự khó khăn
của các hành động phối hợptrong nhiều quốc gia cùng một lúc, một hệ thống toàn cầu
KBTB rất có thể sẽ bao gồm các hệ thống KBTB ở cấp quốc gia vàkhu vực được


phân bố trên toàn cầu.Một mạng lưới các khu bảo tồn biển do đó có thể được định
nghĩa là:Một tập hợp các KBTB đơn lẻ có các hoạt động hiệp đồng hợp tác chặt chẽ
ở phạm vi không gian khác nhau với các mức độ bảo vệ khác nhau, nhằm đáp ứng
các mục tiêu về sinh thái một cách hiệu quả và toàn diện hơn các KBTB đơn lẻ. Mạng


lưới cũng sẽ hiển thị được các lợi ích xã hội và kinh tế, những lợi ích đó sẽ chỉ có thể
đạt được một cách đầy đủ thông qua một khoảng thơi gian nhất định khi các hệ sinh
thái được phục hồi.
Các khu vực được bảo vệ một cách đầy đủ là các khu vực không có bất kỳ
một hành động nào như đánh bắt cá hoặc khai thác nguồn lợi được phép thực hiệnlà
một phần của bất kỳ mạng lưới KBTB nào. Các khu vực này hoạt động như các điểm
trình diễn cho việc đánh giá hiện trạng môi trường và thành công của các phương
thức quản lý được áp dụng. Chúng có vai trò hết sức quan trọng đối với phục hồi và
bảo vệ các hệ sinh thái biển. Các khu BTB được bảo vệ đầy đủ có sự khác biệt với
các khu BTB có mức độ bảo vệ thấp trong cùng mạng lưới phụ thuộc vào mức độ bảo
vệ và khả năng phục hồi tài nguyên biển.
Mạng lưới các KBTB có những đóng góp thiết thực cho phát triển bền vững,
thông qua việc tăng hiệu quả quản lý tổng hợp đại dương và vùng bờ biển ở các khía
cạnh.
Mét m¹ng l-íi c¸c KBTB lµ hai hay nhiÒu KBTB mµ liªn kÕt víi nhau ®Ó ®¹t
®-îc c¸c môc ®Ých sau:

Bảo tồn đa dạng sinh học – Một nhóm các KBTB được lựa chọn dựa trên sự phân bố
về địa lí của động, thực vật và các sinh cảnh sống đại diện cũng như sự hiện diện của
các loài và quần thể các loài đặc biệt (các loài bị đe doạ, dễ bị tổn thương) hoặc

Bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao sản lượng khai thác – một nhóm các KBTB
được lựa chọn dựa trên:
 Kích thước của các vùng dự trữ cần thiết để bảo vệ các sinh cảnh sống có thể tồn

tại độc lập
 Sự hiện diện của các loài mục tiêu (có thể khai thác được)
 Các giai đoạn dễ bị tổng thương của một số loài được chọn
 Mối liên hệ giữa các vùng dự trữ và liên kết giữa các hệ sinh thái
 Cung cấp các dịch vụ của hệ sinh thái cho con người
2.2. Các thuộc tính của mạng lưới khu bảo tồn biển
Liªn kÕt sinh th¸i
C¸c KBTB trong mét m¹ng l-íi liªn kÕt vµ t-¬ng t¸c th«ng qua c¸c mèi liªn kÕt sinh
th¸i bao gåm:


Các sinh cảnh sống xung quanh hoặc liên tiếp (các rạn san hô và các thảm cỏ biển)
Sự phát tán ấu trùng trong các vùng n-ớc giữa và bên trong các KBTB
Sự phát tán và lắng xuống của ấu trùng từ KBTB này đến các KBTB khác
Sự di chuyển các các sinh vật biển tr-ởng thành trong các nơi c- trú từ vùng này
đến vùng khác phụ thuộc vào các sinh cảnh sống hoặc do hiệu quả phát tán ngẫu
nhiên hoặc định kì từ các KBTB.
Một mạng l-ới luôn đề cập đến các khía cạnh xã hội (giao tiếp và điều phối giữa
các bên liên quan trong việc lập kế hoạch và hành chính) và các khía cạnh sinh thái
(liên kết tự nhiên giữa và trong cùng các điểm riêng biệt mà làm tăng các chức năng
sinh thái và lợi ích cho vùng khác). Cả hai đều quan trọng trong mạng l-ới các KBTB.

Nhng li ớch ca mng li cỏc KBTB
Nhng thun li ca mng li cỏc KBTB trong tng KBTB hoc cỏc KBTB bt kỡ
bao gm:
Sinh thỏi
m bo rng cỏc sinh cnh sng quan trng nht c bo v, ớt nht l mt
phn no ú.
m bo rng cỏc loi b khai thỏc quỏ mc, hoc d tn thng hoc b e
do trong nhng vựng nht nh s cú cỏc sinh cnh sng phự hp tip tc

sinh sn.
m bo rng mt s u trựng phỏt tỏn t mt KBTB cú th lng xung trong
vựng phỏt tỏn ca nú.
Nõng cao sn lng khai thỏc cho mt vựng qun lớ nht nh nhpwf vo hiu
qu phỏt tỏn u trựng v cỏ c tng cao thụng qua cỏc k hoch.

Xó hi
Nõng cao nng lc qun lớ cỏc KBTB thụng qua cỏc cỏ nhõn, cỏc bờn qun lớ
KBTB
To ra mt c s thụng tin chia s cho tt c cỏc KBTB trong vựng hoc mng
li giỳp thc hin nhng la chn qun lớ
Cung cp nguyờn nhõn lụ-gic cho cỏc nh qun lớ KBTB riờng r v cỏc bờn
liờn quan iu phi v chia s kinh nghim ln nhau.


 Khả năng phối hợp về hành chính và tài chính giữa các bên quản lí KBTB
riêng lẽ với các cơ quan và lĩnh vực khác trong cùng mạng lưới.

Mạng lưới các KBTB chức năng
Một mạng lưới KBTB sẽ có cả các chiều hướng sinh thái và xã hội mà có thể gắn
chặt với nhau trong việc hình thành mạng lưới chức năng. Dưới đây là danh sách các
tiêu chí cho một mạng lưới KBTB chức năng:
1. Các KBTB riêng lẽ nên có một mức độ quản lí hiệu quả nhất định.
2. Bước đầu tiên trong việc lập kế hoạch một mạng lưới KBTB đòi hỏi sự phân
tích các sinh cảnh quan trọng, khai thác thuỷ sản, hải dương học và các KBTB
hiện có trước khi tìm các địa điểm KBTB tiềm năng mới.
3. Trong một KBTB nên có từ 5-10% sinh cảnh sống quan trọng được nằm trong
vùng lập kế hoạch.
4. Các bên quản lí KBTB cần có khả năng liên kết với các ban quản lí KBTB
khác trong vùng cũng như chính quyền địa phương và những tổ chức hỗ trợ

khác.
5. Một mạng lưới KBTB nên được đặt trong bối cảnh của các kế hoạch ICM của
vùng.

Cách tiếp cận toàn cầu
Cách tiếp cận toàn cầu được đề xuất cho các quốc gia làm theo lời kêu gọi hình thành
các KBTB cho:
 Một mạng lưới trọng tâm các KBTB được bảo vệ hoàn toàn hoặc các vùng
cấm để bảo vệ các vùng có đa dạng sinh học quan trọng
 Một mạng lưới rộng lớn hơn các KBTB sử dụng đa mục tiêu mà cho phép một
số hoạt động của con người trong đó, nhưng duy trì các chức năng và các quá
trình sinh thái quan trọng
 Mạng lưới tổng thể các KBTB quốc gia được gắn vào trong các chương trình
quản lí vùng bờ quốc gia
2. Các nguyên tắc thiết lập và vận hành mạng lưới khu bảo tồn biển


Với việc áp dụng các nguyên tắc dưới đây trong quá trình thiết kế và xây dựng
mạng lưới, các nhà hoạch định có thể tạo ra được mạng lưới KBTB đáp ứng tối đa
các lợi ích về môi trường, kinh tế, xã hội kèm theo.
 Xác định rõ mục tiêu xây dựng mạng lưới
Ngay từ đầu, các nhà hoạch định mạng lưới KBTB cần phải xác định rõ mục
tiêu trong 3 lĩnh vực:
+ Sinh thái học: tìm kiếm các giải pháp bảo vệ, quản lý và phục hồi các hệ
sinh thái biển và các hợp phần kèm theo của chúng.
+ Kinh tế: các mục tiêu đặt ra cần phải xác định được những lợi ích mà địa
phương thu được và nhóm người sẽ bị tác động tiêu cực về lợi ích kinh tế.
+ Văn hóa – xã hội: mục tiêu đặt ra bao gồm đầy đủ các lợi ích mà đa dạng
sinh học mang lại, đặc biệt những tác động trực tiếp tới sức khỏe và sự phồn thịnh
của cộng đồng. Cơ quan chủ quản cần đảm bảo rằng tất cả các mục tiêu đặt ra của

mạng lưới KBTB được đưa ra một cách cởi mở, minh bạch và cân bằng bao gồm các
bên sử dụng tài nguyên, các đại diện cơ quan chính phủ và các nhóm khác có cùng
quan tâm trong khu vực.Kế hoạch cho việc đạt được các mục tiêu và kỳ vọng cần phù
hợp, thực tế và cảnh báo về những sai lầm có thể vấp phải.
 Xây dựng được ý chí và cam kết chính trị
Cam kết chính trị bắt buộc phải được xây dựng trong giai đoạn sớm của cả quá
trình và cần được duy trì trong suốt thời gian. Ở một số khu vực, ý chí chính trị và
các nguồn lực cần thiết để thực thi các hợp phần của mạng lưới có thể đã tồn tại. Tuy
nhiên, trong hầu hết các trường hợp, việc triển khai mạng lưới KBTB sẽ mất rất nhiều
thời gian, cho nên ý chí chính trị và cam kết kèm theo cho mạng lưới và các hợp phần
của nó nhất thiết cần phải xây dựng. Cácviên chức chuyên mônnếu càng nhận thức rõ
hơn lộ trình quy hoạch và vai trò hỗ trợ cộng đồng, họ càngsẽ hỗ trợ mạng lưới trong
quá trình lập kế hoạch, thực hiện và hơn thế nữa.
Ở một số nơi trên thế giới, khuôn khổ pháp lýthường là cách duy nhất để đảm bảo
tính nhất quán hoặc để tránhkhái niệm về một "khu bảo tồn biển danh nghĩa"-có
nghĩa là, một KBTB đã được công bố hoặc được chỉ định, nhưng không thực sự được
hỗ trợ các hoạt động thực thi. Sự ủng hộ một cách tình nguyện có thể gây ảnh hưởng
tới những thay đổi trong ưu tiên chính trị buộc các chính phủ tập trung vào những ưu
tiên ngắn hạn chocác chi phí của lợi ích lâu dài và rộng hơn choxã hội nói chung.
 Khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan


Phát triển mạng lưới khu bảo tồn biển có hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia củacác
bên liên quan ngay từ đầu.Các bên liên quan tham gia tăng cường trao đổithông tin,
thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các chuyên gia vàcơ quan, làm giảm sự thiếu tin
cậy trong quá trình ra quyết định và cho phép các bên liên quan hợp tác và tìm kiếm
các giải pháp.Cởi mở, quá trình có sự tham gia cũng thúc đẩy một cảm giácquyền sở
hữu và thành tích giữa các nhómtham gia, qua đó tăng cường hỗ trợ và ý chí chính trị
cho mạng lưới KBTB. Cùng với thời gian, quá trình tham vấn kế hoạch BTB hoạt
động ở quy mô không gian có ý nghĩaquan trọng đối với thành công.Các hoạt động

bao gồm các cuộc họp của cộng đồng bản địa do các nhà lãnh đạo truyền thống, các
cơ hội do chính phủ bảo trợ thông tinchia sẻ và bình luận, hoặc các cuộc họp liên
chính phủ về lập kế hoạch.
 Tận dụng tối đa nguồn thông tin sẵn có
Thay vì chờ đợi cho dữ liệu hoàn hảo, bên liên quanphải sử dụng các thông tin tốt
nhất có sẵn cho phân tích các khoảng dữ liệu còn trống, lập kế hoạch và ra quyết
định. Thông tin không nên chỉ bao gồm các dữ liệu khoa học và kinh tế xã hội, nó
phải bao gồm truyền thống và kiến thức sinh thái của người bản địavà các nhóm địa
phương đã đạt được về mộthệ sinh thái của khu vực, tích lũy kinh nghiệm và lưu
truyền qua các thế hệ. Dữ liệu mới xuất hiệntrong và sau khi quá trình lập kế hoạch
có thể được áp dụngthông qua quản lý thích ứng. Sự trì hoãn về thiết kế và thực hiện
hiếm khi mang lại bất kỳ lợi ích bảo tồn biển nào.
 Xây dựng khung quản lý tổng hợp
Điều quan trọng là thiết lập một hệ thống các quy hoạchvà quy mô quản lý, từ
khuôn khổ quy hoạch quốc gia cho tới vùng và địa phương. Không gian dựa vào hệ
thống lập kế hoạch sẽ giúp phối hợp và cải thiệnquản lý, tách bạch sử dụng trái ngược
nhau và đảm bảo dành cáckhoảng không gian thích hợp cho ngành công nghiệp, động
vật hoang dãvà sức khỏe của các hệ sinh thái. Khi ranh giới về sinh thái học không
tồn tại với luật pháp hoặc ranh giới chính trị, các nhà hoạch định có thể giúp đảm bảo
tính nhất quánqua khu vực pháp lý bằng cách tạo ra các chiến lược quản lýphản chiếu
lẫn nhau trong hầu hết các khía cạnh, chẳng hạn nhưquy tắc và quy định, nhưng vẫn
giữ lại các khía cạnh pháp lý độc đáo.
 Sử dụng kỹ thuật quản lý thích ứng
"Quản lý thích ứng" có nghĩa là bằng cách sử dụng tốt nhấtthông tin có sẵn để
phát triển mạng lưới KBTB và tạo ra hệ thống giám sát và đánh giáđể kiểm tra tính
hiệu quả của phương pháp quản lývà tinh chỉnh chúng theo thời gian. Quản lý thích
ứngtrao quyền cho các nhà quản lý để đánh giá sự thành công của họ với nỗ lực và


thích ứng phương pháp của họ như điều kiệnvà thay đổi kiến thức.Quản lý thích ứng

có thể được sử dụng để cải thiệnnăng lực quản lý và hiệu quả, đặc biệtthông qua các
chương trình phát triển chuyên môn cho người quản lý mạng và chuyên viên. Khả
năng thúc đẩy cơ hội để thu hút và cung cấpgiám định bổ sung, nguồn lực và công
nghệ cho mạng lưới KBTB.
3. Lịch sử nghiên cứu quy hoạch và vận hành hệ thống khu bảo tồn biển của
Việt Nam
Ở Việt Nam công tác nghiên cứu cơ sở khoa học để thiết lập các KBTB được
bắt đầu từ những năm 1993 - 1995 với sự giúp đỡ về mặt kỹ thuật và lý luận của
WWF, Viện Hải dương học Nha Trang và Viện Tài nguyên và Môi trường Biển đã
tiến hành khảo sát đánh giá đa dạng sinh học và tiềm năng bảo tồn tại 7 vùng rạn san
hô biển nước ta. Ngoài ra, một số các đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình biển
(KT-03, KHCN - 06), Chương trình Biển Đông - Hải đảo cũng đã được thực hiện
trong giai đoạn 1991 - 2005.
Năm 1998 - 1999 Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường kết hợp với Phân
viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên và Môi trường Biển) đã
tiến hành nghiên cứu tổng thể nguồn lợi đa dạng sinh học biển. Qua các số liệu
nghiên cứu, bước đầu tiến hành đề xuất 15 khu bảo tồn biển để trình Chính phủ xem
xét và sau đó hệ thống KBTB này lại được Bộ Thủy sản (nay là Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn) tiếp tục đề xuất vào năm 2004 (bảng 1).
Bảng 1. Thứ tự ưu tiên thiết lập 15 khu bảo tồn biển Việt Nam
STT Tên gọi các khu bảo tồn biển
Tổng số điểm
Xếp hạng ưu
tiên
1
KBTB Cô Tô (Quảng Ninh)
13
9
2
KBTB Đảo Trần (Quảng Ninh)

7
14
3
KBTB Cát Bà (Hải Phòng)
19
2
4
KBTB Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)
13
8
5
KBTB Hòn Mê (Thanh Hóa)
6
15
6
KBTB Cồn Cỏ (Quảng Trị)
7
13
7
KBTB Sơn Chà – Hải Vân (Thừa Thiên
11
11
Huế)
8
KBTB Cù Lao Chàm (Quảng Nam)
14
6
9
KBTB Lý Sơn (Quảng Ngãi)
12

10
10 KBTB Hòn Mun (Nha Trang)
15
4
11 KBTB Nam Yết (Khánh Hòa)
10
12
12 KBTB Phú Quý (Bình Thuận)
14
7
13 KBTB Hòn Cau (Bình Thuận)
15
5
14 KBTB Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu)
20
1
15 KBTB Phú Quốc (Kiên Giang)
17
3
(Nguồn: Nguyễn Chu Hồi và nnk, 2004)


Để xếp loại theo thứ tự ưu tiên các KBTB, các nhà nghiên cứu đã tiến hành
thiết lập các bảng ma trận cho điểm theo các tiêu chí về giá trị bảo tồn như đa dạng
sinh học, nghề cá, du lịch, tầm quan trọng quốc tế (tích cực) và đe dọa: mức độ đô thị
hoá, khu công nghiệp, ảnh hưởng khác (tiêu cực). Từ phân hạng ưu tiên theo bảng
1sẽ đề xuất các KBTB trọng điểm cần được quan tâm đầu tư theo thứ tự thời gian.
Năm 2005 - 2007, Viện Tài nguyên và Môi trường biển thực hiện dự án quy
hoạch tổng thể các khu bảo tồn biển Hải Phòng. Dự án này không chỉ quan tâm đến
các khu bảo tồn biển MPA mà còn quan tâm đến các đối tượng khu dự trữ sinh

quyển, các khu rừng sinh thái và đặc dụng ven biển, danh thắng ven biển, đất ngập
nước ven biển.v.v.
Năm 2007 - 2009 Viện Nghiên cứu Hải sản đã tiến hành thực hiện đề tài khoa
học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước thuộc chương trình KC.09.04/06-10 (Bộ
Khoa học & Công nghệ) "Đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội các KBTB
trọng điểm (Cồn Cỏ, Bạch Long Vĩ, Phú Quốc, Côn Đảo) phục vụ cho xây dựng và
quản lý", kết quả của đề tài đã bổ sung và cập nhật các thông tin về điều kiện tự nhiên
và môi trường, kinh tế - xã hội của các đảo trọng điểm từ đó đề xuất định hướng xây
dựng và quản lý các KBTB của Việt Nam.
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu của các đề tài với những sản phẩm đã đạt
được sẽ là những tài liệu quan trọng giúp cho việc thực hiện công tác quy hoạch chi
tiết và vận hành có hiệu quả hệ thống các KBTB của Việt Nam trong tương lai.
Những đề tài nghiên cứu đó đã tạo cơ sở khoa học rất quan trọng cho việc xây dựng
và ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ sau này.
Ngày 26 tháng 5 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
742/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ thống Khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm
2020. Theo Quyết định này, từ giai đoạn 2010 đến 2015 sẽ tiến hành quy hoạch và
đưa vào hoạt động 16 KBTB (bảng 2, hình1).
Bảng 2. Danh sách các KBTB Việt Nam đến năm 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 742/QĐ/TTg ngày 26 tháng 5 năm 2010
của Thủ tướng Chính phủ)
STT Tên gọi các KBTB
Tổng diện tích (ha) Diện tích biển
(ha)
1
KBTB Đảo Trần/Quảng Ninh
4.200
3.900
2
KBTB Cô Tô/Quảng Ninh

7.850
4.000
3
KBTB Bạch Long Vĩ/Hải Phòng
20.7000
10.900
4
KBTB Cát Bà/Hải Phòng
20.700
10.900
5
KBTB Hòn Mê/Thanh Hoá
6.700
6.200
6
KBTB Cồn Cỏ/Quảng trị
2.490
2.140
7
KBTB Sơn Chà - Hải Vân
17.039
7.626


8
9
10
11
12
13

14
15
16

KBTB Cù Lao Chàm/Quảng Nam
KBTB Lý Sơn/Quảng Ngãi
KBTB Nam Yết/Khánh Hoà
KBTB Vịnh Nha Trang/KH
KBTB Núi Chúa/Ninh Thuận
KBTB Phú Quý/Bình Thuận
KBTB Hòn Cau/Bình Thuận
KBTB Côn Đảo/Vũng tàu
KBTB Phú Quốc/Kiên Giang

8.265
7925
35.000
15.000
29.865
18.980
12.500
29.400
33.657

6.716
7.113
20.000
12.000
7.352
16.680

12.390
23.000
18.700

Hình 1. Sơ đồ hệ thống các KBTB Việt Nam
Quá trình thiết lập và đưa các KBTB trong hệ thống vào hoạt động có thể tóm
tắt như sau:
 Khu BTB Hòn Mun – nay là khu BTB vịnh Nha Trang là khu BTB được thành
lập đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2001 do sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới và chính
phủ Đan Mạch. Hiện nay khu BTB vịnh Nha Trang được xem như một trong hai khu
BTB trình diễn được Hợp phần Sinh kế bền vững bên trong và xung quanh các khu
bảo tồn biển (LBTB) thuộc Chương trình Môi trường, hợp tác Việt Nam - Đan Mạch
(DCE) do DANIDA tài trợ (2005-2010) hỗ trợ từ năm 2006. Trên cơ sở đó khu BTB


mới sẽ được thành lập với mục đích là mở rộng và phát triển mạng lưới các khu BTB
ở Việt Nam.
 Lần lượt các khu BTB khác được thiết lập tiếp theo: Năm 2006, KBTB Cù
Lao Chàm được Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam ký quyết định chính thức thành
lập. Vào năm 2007, khu BTB Phú Quốc được UBND tỉnh Kiên Giang chính thức
thành lập. Vào giữa năm 2008, với sự đề xuất của UBND tỉnh Ninh Thuận, Hợp phần
LBTB đã bắt đầu hỗ trợ cho Vườn quốc gia Núi Chúa các hoạt động BTB. Gần đây
nhất khu BTB Cồn Cỏ đi vào hoạt động cuối năm 2008 và khu BTB Cù Lao Cau đi
vào hoạt động cuối năm 2010. Cho đến nay, cả nước có hơn 5 khu BTB đã được đi
vào hoạt động trên tổng số 16 khu BTB theo quyết định số 742/QĐ-TTg ngày
26/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Giai đoạn 2012 -2015 dự kiến tiến hành quy
hoạch chi tiết, thành lập và đưa vào hoạt động 11 khu BTB, giai đoạn 2006 – 2012
tiến hành đề xuất mở rộng hệ thống, bổ sung thêm vào mạng lưới một số khu BTB
đạt tiêu chuẩn.
4. Các thách thức trong công tác quản lý hệ thống khu bảo tồn biển

ỞViệt Nam, hiện đã có 5 khu bảo tồn biển (KBTB) đã được thành lập và đi
vào hoạt động, 5 khu bảo tồn biển khác đã được quy hoạch chi tiết và đềxuất thành
lập. Với kết hoạch đã được phê duyệt, đến hết 2015, mạng lưới 16 khu bảo tồn biển
Việt Nam sẽđược hình thành và đi vào hoạt động. Giai đoạn tiếp theo 2016-2020
sẽtập trung vào mởrộng mạng lưới các khu bảo tồn biển Việt Nam để đảm bảo đến
hết 2020 sẽcó khoảng trên 20 khu bảo tồn biển được thành lập và đi vào hoạt động.
Vềthểchế, đã có nhiều văn bản pháp lý ban hành liên quan đến thành lập và
quản lýKBTB, tuy nhiên cần phải bổsung các văn bản như:
+ Thông tưhướng dẫn vềquản lý khu bảo tồn biển tại Việt nam (từTW đến địa
phương); hiện đã xây dựng xong đang trình Bộ trưởng ký và ban hành;
+ Quyết định vềquy chếquản lý khu bảo tồn biển cấp tỉnh; hiện đang trình để
ký ban hành.
+Hướng dẫn vềtiêu chí lựa chọn thành lập và quản lý khu bảo tồn biển: hiện đã
soạn thảo xong bản dự thảo, chuẩn bị trình ký ban hành;
+Xây dựng tiêu chuẩn, định mức kinh tếkỹthuật cho đầu tưxây dựng một khu
bảo tồn biển cấp quốc gia và 1 khu bảo tồn biển cấp tỉnh (chưa triển khai);
+ Đềxuất Chính phủbổsung phí bảo tồn biển vào Quyết định ban hành phí và lệphí
vềbảo vệnguồn lợi thủy sản (chưa triển khai).
 Các thách thức cho quản lý các KBTB bao gồm:


- Sựphối hợp giữa Bộchủquản và các Bộ, ban ngành tại Trung ương? Ở thời điểm
hiện tại chưa có một cơ quan nào có trách nhiệm cụ thể và rõ ràng đối với việc quản
lý KBTB ở Việt Nam. Hai bộ chủ chốt là Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tài
nguyên môi trường đều được giao trách nhiệm bảo vệ môi trường và bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên. Về phương diện lý thuyết đều có trách nhiệm pháp lý đối với
quản lý KBTB. Chưa có một cơ quan nào được giao nhiệm vụ quản lý các KBTB ở
các đảo xa bờ (hình 2).
- Sự ủng hộcủa địa phương trong quá trình thiết lập KBTB?
- Xung đột vềphát triển kinh tế- xã hội với bảo tồn, bảo vệ?

- Chuyển đổi nghề, tạo sinh kếthay thếcho cộng đồng dân cư địa phương?
- Nguồn vốn đầu tư, xây dựng thành lập?

CHÍNH PHỦ

BỘ KHCN

BỘ NNPTNT

BỘ VHTT

BỘ TNMT

UBND CÁC TỈNH VEN
BIỂN

SỞ NNPTNT

SƠ VHTT VÀ TT

SỞ TN VÀ MT

SỞ KHCN

BAN QUẢN LÝ KBT

BAN QUẢN LÝ KHU DI
SẢN
Mối liên hệ hành chính
Mối liên hệ kỹ thuật


Hình 2.Sơ đồ phân cấp quản lý hệ thống khu bảo tồn biển
 Sựchồng chéo vào chưa thống nhất trong quản lý các KBTB:
Do đặc thù của từng địa phương cho nên việc quản lý các KBTB trong hệ thống
còn chưa được tập trung, thống nhất và thiếu đi một “nhạc trưởng” để chỉ đạo vận
hành hệ thống KBTB (hình 2). Về quản lý các KBTB hiện đang hoạt động như sau:
+ KBTB Vịnh Nha Trang - Ủy ban nhân dân TP Nha Trang quản lý;
+ KBTB Cù Lao Chàm – SởNông nghiệp và Phát triển nông thôn;


+ KBTB Phú Quốc – SởNông nghiệp và Phát triển nông thôn;
+ KBTB Cồn Cỏ- Chi cục Khai thác và Bảo vệnguồn lợi thủy sản;
+ KBTB Cù Lao Cau - Chi cục Khai thác và Bảo vệnguồn lợi thủy sản.
Ngoài ra còn có các KBTB do các cộng đồng địa phương tự thiết lập và quản lý
như KBTB rạn trào (Khánh Hòa), khu dự trữ nguồn lợi Phù Long (Hải Phòng). Trong
tương lai khi mở rộng mạng lưới các KBT mới có nên đưa loại hình BTB này vào hệ
thống hay không?
Do vậy về tổchức đềnghịcác KBTB nên được thống nhất cơquan quản lý, cụthểlà:
- Tại trung ương: BộNông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Tổng cục Thủy
sản)
- Tại địa phương: SởNông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc Ủy ban nhân
dân huyện đảo (Bạch Long Vỹ, Phú Quý...).
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Chu Hồi, 1998 Cơ sở khoa học qui hoạch các khu bảo tồn biển
2. Đặng Ngọc Thanh
1998

Hướng dẫn thiết lập các khu bảo tồn thiên nhiên
biển


3. Bộ Thủy sản , 2000

Đề án qui hoạchHệ thống khu bảo tồn biển
Việt Nam

4. Chính Phủ, 2000

Qui chế quản lý các khu bảo tồn biển

5. Đặng Ngọc Thanh, 1996 Cơ sở khoa học của việc xây dựng hệ thống khu
bảo tồn biển Việt Nam (Báo cáo tổng kết Đề tài)
6. .Đặng Ngọc Thanh...
1996

Luận chứng khoa học kĩ thuật cho việc thiét lập
và quản lý khu bảo tòn biển Cát Bà ( Hải Phòng).

7. Đỗ Văn Khương...
2005

Cơ sở khoa học cho việc qui hoạch và quản lý
khu bảo tồn biển Cát Bà

8. Đỗ Văn Khương...
2005

Đánh giá tiềm năng bảo tốn quần đảo Cô Tô Thanh Lân

9. UBND h.Vạn Ninh IMA


Dự án khu bảo tồn biển Rạn Trào( 2001-2004)

10 UBQG MAB
. 2005

Sinh quyển và các Khu Dự trữ sinh quyển

11 Vũ Văn Dũng...
. 2002 (Cục Kiểm Lâm)

Dự thảo báo cáo Đề xuất Hệ thống phân hạng
các khu bảo tồn của Việt Nam

12 C. Cheung (WWF)

Survey report on the biodiversity , resource


. 1993

utilisition and conservation potential of Cat Ba
reg.

13 C.Cheung (WWF)
. 1993

Survey report on the biodiversity, resource
utilisation and conservation potential of Hon
Mun isl.


14 C. Cheung (WWF)
. 1994

Survey report on the biodiversity, resource
utilisation and conservation potential of Co To
isl.

15 C. Cheung (WWF)
. 1994

Survey report on the biodiversity, resource
utilisation and conservation potential of Phu
Quoc isl.

16 .C. Cheung (WWF)
. 1994

16Survey report on the biodiversity, resource
utilisation and conservation potential of Con Dao
isl.

17 Sue Stolton, N.T.Dao
. 2004

Categorising protected areas in VietNam P,
Vol.14/3

18 B. O’ Callaghan , 2004
.


Aire protegee marine de la baie de Nha Trang :
preserver les moyens d’existence. PC. No 2/2004

19 A.M. Helmbrecht
. 2004

Gestion adaptative des APM facon
vietnamienne PC 1/04

20 S. Braatz, 1992
.

Conserving Biological Diversity. Astrategy for
P.A. in the Asia – Pacific Region.

21 Rodney V. Salm & John
. R. Clark, 2000

Marine and Coastal Protected Areas, IUCN,
Gland, Switzerland and Cambridge, UK



×