Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.01 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY

Sù BIÕN §æI V¡N HãA
LµNG NGHÒ TRUYÒN THèNG ë Hµ NéI HIÖN NAY
(Qua trư ờ ng hợ p làng Triề u Khúc và Thiế t Úng)

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số : 62 31 06 40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2015


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ngư ờ i hư ớ ng dẫ n khoa họ c: 1. PGS.TS. Lê Quý Đức
2. TS. Lê Trung Kiên

Phả n biệ n 1: .............................................................
.............................................................
Phả n biệ n 2: .............................................................
.............................................................
Phả n biệ n 3: .............................................................
.............................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp cơ sở tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Vào hồi ........ giờ ...... ngày ......... tháng ..........năm 2015

Có thể tìm hiển luận án tại: Thư viện Quốc gia
và thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Bích Thủy (2014), Hà Nội, mảnh đất của làng nghề, phố nghề,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (7), tr. 19 - 24.
2. Nguyễn Thị Bích Thủy (2014), Giá trị văn hóa làng nghề Hà Nội, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, (10), tr. 24 - 28.
3. Nguyễn Thị Bích Thủy (2014), Làng nghề Hà Nội, quá trình hình thành và
phát triển, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (12), tr. 38 - 43.
4. Nguyễn Thị Bích Thủy (2015), Biến đổi văn hóa làng nghề Triều
Khúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (3),
tr. 34 - 37.
5. Nguyễn Thị Bích Thuỷ (2015), Văn hoá làng nghề truyền thống Thiết Úng,
xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội, Tạp chí Di sản văn hoá, (3),
tr. 57 - 59.


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề Hà Nội phát triển, có nhiều khởi sắc bắt đầu từ khi
Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế chuyển
sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng vì
thế, biến đổi văn hóa ở các làng nghề Hà Nội diễn ra như một điều

tất yếu của quy luật phát triển.
Sự biến đổi văn hóa ở các làng nghề truyền thống Hà Nội không
chỉ tác động đến đời sống xã hội, mà còn tác động đến cơ cấu tổ
chức, diện mạo, quy trình sản xuất, mẫu mã, hình thức, chất lượng sản
phẩm, phong tục tập quán…. của mỗi làng nghề. Xu hướng biến đổi
trên thực sự là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu kịp thời để đưa
ra những căn cứ khoa học, giải pháp phù hợp để giúp các nhà hoạch
định chính sách có những quyết sách hợp lý, vừa gìn giữ, vừa phát huy
được giá trị văn hóa truyền thống của các làng nghề.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng
nghề Hà Nội cho đến nay chưa nhiều, mới chỉ có một số công trình
nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng nghề vùng châu thổ sông Hồng,
qua nghiên cứu một số làng ở Hà Tây, Thái Bình, Gia Lâm, mà chưa
có công trình nghiên cứu tiêu biểu về Sự biến đổi văn hóa làng nghề
truyền thống Hà Nội hiện nay. Do đó, nghiên cứu về sự biến đổi văn
hóa các làng nghề truyền thống Hà Nội nói chung và hai làng nghề
dệt Triều Khúc, đồ gỗ mỹ nghệ Thiết Úng nói riêng không chỉ có ý
nghĩa lý luận, mà còn đáp ứng nhu cầu cấp bách của thực tiễn trong
việc bảo tồn và phát triển văn hóa các làng nghề truyền thống ở
nước ta hiện nay trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
toàn cầu hóa.
Vì những lý do trên, Nghiên cứu sinh nhận thấy việc nghiên cứu
đề tài “Sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống ở Hà Nội hiện
nay” (Qua trư ờ ng hợ p làng Triề u Khúc và Thiế t Úng) là một việc
làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh đổi mới
của xã hội.


2


2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Trong tổng số hơn 750 tài liệu trong và nước ngoài nghiên cứu
về Hà Nội, có khoảng 100 tài liệu về làng nghề, phố nghề, văn hóa
làng nghề Hà Nội từ trước giai đoạn đổi mới (năm 1986) đến hiện
nay (xin được trình bày cụ thể ở chương 1 luận án).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mụ c đích
Trên cơ sở trình bày và đưa ra một số khái niệm mới làm công cụ cho
việc nghiên cứu, Nghiên cứu sinh phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi
của văn hóa làng nghề truyền thống trên địa bàn Hà Nội qua nghiên cứu
trường hợp 2 làng nghề: làng nghề dệt truyền thống Triều Khúc (xã Tân
Triều, huyện Thanh Trì) và làng nghề gỗ mỹ nghệ truyền thống Thiết Úng
(xã Vân Hà, huyện Đông Anh), thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
- Trình bày một số khái niệm công cụ và lý luận về biến đổi văn hóa.
- Khảo sát thực trạng về sự biến đổi của văn hóa làng nghề dệt
Triều Khúc và đồ gỗ mỹ nghệ Thiết Úng.
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa làng
nghề truyền thống Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến đổi của văn hóa làng nghề
truyền thống dệt Triều Khúc và làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng.
4.2. Phạ m vi nghiên cứ u
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu tại hai làng nghề
dệt Triều Khúc và gỗ mỹ nghệ Thiết Úng.
- Về thời gian:Luận án lấy mốc thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luậ n
Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa làng nghề cần dựa trên các khái

niệm về văn hóa, nghề, làng nghề, làng nghề truyền thống, văn hóa làng
nghề truyền thống và lý thuyết về biến đổi văn hoá.


3

5.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u
Để nghiên cứu sự biến đổi về văn hóa làng nghề đem lại hiệu
quả cao, việc áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa vào quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển văn hóa là việc làm
không thể thiếu. Bên cạnh đó, kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu liên ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp điền dã, tham dự của nhân
học văn hóa.
- Phương pháp liên/ đa ngành
Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội là
sự thu thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu của rất nhiều lĩnh vực khoa
học chuyên ngành như nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc
học, xã hội học, tâm lý học, sử học…
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu thứ
cấp liên quan đến vấn đề nghiên cứu, nhằm tìm ra điểm tương đồng
và khác biệt trong biến đổi văn hóa ở các làng nghề truyền thống
trên. Từ đó đưa ra những nhận định đúng đắn, sát thực với tình hình
cụ thể, làm rõ biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Nghiên cứu đề tài này,
Nghiên cứu sinh sử dụng 145 bảng hỏi khảo sát làng Triều Khúc,
182 bảng hỏi anket khảo sát làng Thiết Úng, 20 phiếu phỏng vấn sâu
những người thợ, cán bộ, nhân viên UBND xã am hiểu về lĩnh vực

trên để có kết quả và thông tin mang tính khoa học, khách quan.
- Phương pháp điền dã nhận học/dân tộc học
Trên cơ sở nghiên cứu trực tiếp tại thực địa, thông qua các loại
phiếu điều tra, quan sát, phỏng vấn (phỏng vấn nhóm, phỏng vấn
sâu), ghi chép, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh, qua đó nghiên cứu các
hiện tượng xã hội đặc biệt và tính năng động trong sự hình thành và
biến đổi của các hiện tượng văn hóa ở làng nghề truyền thống.
- Phương pháp thống kê, so sánh
Sử dụng phương pháp này để thu thập các số liệu thống kê ở hai
làng Triều Khúc và Thiết Úng, sau đó khái quát lại các vấn đề nghiên


4

cứu để đưa ra những đánh giá khách quan về những biến đổi văn hóa
hai làng.
- Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở nội dung luận án, Nghiên cứu sinh tham khảo ý kiến,
nhận định, phỏng vấn các chuyên gia, những người am hiểu về làng
nghề, thu thập được những thông tin cơ bản, khách quan.
6. Kết quả và đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặ t lý luậ n:
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về văn hóa,
tác động của văn hóa làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; vai trò của
người sản xuất ở các làng nghề đối với việc bảo tồn và phát huy văn hóa
làng nghề truyền thống trong sự biến đổi của chúng hiện nay.
- Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
học viên, sinh viên chuyên ngành văn hóa học, xã hội học, kinh tế
học nghiên cứu những vấn đề về biến đổi văn hóa, về mối quan hệ
giữa văn hóa và kinh tế, vấn đề ngoài lĩnh vực văn hóa đối với phát

triển hiện nay.
6.2. Đóng góp về mặ t thự c tiễ n:
- Đề tài chỉ ra xu hướng biến đổi văn hóa làng nghề truyền
thống, giúp các nhà quản lý tham khảo để từ đó nghiên cứu, xây
dựng những chính sách văn hóa hợp lý cho sự phát triển văn hóa làng
nghề Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển văn hóa
làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu (9 trang), kết luận (3 trang), tài liệu tham
khảo (13 trang), phụ lục (115 trang), nội dung của luận án được kết cấu
thành 4 chương, 10 tiết:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận (30 trang).
Chương 2. Khái lược về làng nghề truyền thống Hà Nội và hai
làng Triều Khúc, Thiết Úng (37 trang).


5

Chương 3. Khảo sát sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Triều
Khúc và Thiết Úng (45 trang).
Chương 4. Một số vấn đề cần bàn luận và đề xuất giải pháp bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa làng nghề (24 trang).
Chương 1
T NG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN C U VÀ C S LÝ LU N
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Sách, công trình viết về nghề, làng nghề, văn hóa làng nghề, biến
đổi văn hóa làng nghề Hà Nội có hơn 100 đầu tài liệu. Mặc dầu con số
trên còn khiêm tốn nhưng cũng đặt ra tầm quan trọng của việc nghiên
cứu những vấn đề trên, đặc biệt là trong điều kiện đổi mới hiện nay.

Trên cơ sở tư liệu của các tác giả trong và ngoài nước, kế thừa những
nội dung đã được trình bày trong tư liệu, luận án chia làm 3 nhóm tài
liệu đã được các tác giả viết có liên quan đến đề tài:
1.1.1. Nghiên c u v ngh , làng ngh , v n hóa làng ngh Hà N i
1.1.2. Nghiên cứu về biến đổi văn hóa, biến đổi văn hóa làng,
biến đổi văn hóa làng nghề thời kỳ đổi mới
1.1.3. Nh ng nghiên c u v làng ngh Tri u Khúc và Thi t Úng
1.1.3.1. Những bài viết về làng nghề Triều Khúc
1.1.3.2. Những bài viết về làng nghề Thiết Úng
1.1.4. Nhận xét chung
Điểm lại những công trình nghiên cứu, sách, bài viết nêu trên,
NCS rút ra một số nhận xét sau:
- Các học giả, nhà nghiên cứu đã giới thiệu được: sự phong
phú, đa dạng, sự hội tụ, kết tinh của nghề, làng nghề Thăng Long Hà Nội.
- Đa số các công trình, sách, bài viết đều đánh giá được tầm
quan trọng của làng nghề, văn hoá làng nghề trong đời sống xã hội
và cho rằng, những biến đổi đó có ảnh hưởng nhất định đến đời sống
kinh tế, văn hoá trong cộng đồng, rằng những biến đổi đó là điều tất yếu
trong quá trình phát triển (tuy khái niệm văn hoá làng nghề và văn hoá
làng nghề truyền thống vẫn chưa được nhắc đến).


6

- Công trình của một số học giả nước ngoài viết về sự thiếu năng
động, trì trệ, chậm đổi mới của người nông dân Việt Nam nói chung
và vùng Bắc Bộ nói riêng, trong đó có thợ thủ công. Điều này cần
được xem xét một cách khách quan trong điều kiện đổi mới của xã
hội hiện nay.
- Mỗi công trình đều có nghiên cứu riêng về những nội dung biến

đổi: một số công trình đi sâu vào vấn đề cần thiết phải thực hiện việc đa
dạng hóa sản phẩm, thay đổi mẫu mã để vừa mang tính hiện đại, nhưng
vẫn giữ được yếu tố truyền thống; Một số công trình khác đi sâu vào việc
nghiên cứu về tầm quan trọng của môi trường kinh doanh đối với sự phát
triển và biến đổi của văn hoá làng nghề truyền thống...
- Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu chuyên sâu và hệ
thống về biến đổi văn hoá làng nghề thống Hà Nội nói chung và làng
Triều Khúc, Thiết Úng nói riêng (ngay cả khái niệm văn hoá làng
nghề truyền thống cũng chưa được nhắc tới như đã nói ở trên), để từ
đó có được một cái nhìn toàn cảnh hơn, sâu sắc hơn. Bởi vì chính
những biến đổi này góp phần làm nên một diện mạo mới của các
làng nghề truyền thống Hà Nội ngày nay, trong đó có làng Triều
Khúc và Thiết Úng.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.2.1. Các khái niệm cơ bản và cấu trúc văn hóa làng nghề
truyền thống
1.2.1.1. Văn hóa, Văn hóa nghề
- Văn hóa: Cho đến nay có hơn 500 định nghĩa khác nhau về
văn hóa, tuy nhiên, Nghiên cứu sinh nhận thấy định nghĩa về văn
hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phù hợp với vấn đề của luận án.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ
sinh tồn và mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã


7


sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”.
- Văn hóa nghề: theo Nghiên cứu sinh “Văn hóa nghề là toàn
bộ những tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và phương thức hành nghề ,
được tích lũy trong quá trình sản xuất, bảo quản, phân phối và
quảng bá sản phẩm trong xã hội”.
1.2.1.2. Làng nghề , Văn hóa làng nghề
Nhiều tác giả đưa ra quan niệm làng nghề, văn hóa làng nghề theo
cách mô tả dân tộc học là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, sau khi tham khảo
tài liệu từ các nhà nghiên cứu, với thực tế khảo sát, Nghiên cứu sinh xin
đưa ra quan niệm làng nghề và văn hóa làng nghề như sau:
- Làng nghề là làng làm một hoặc một số nghề thủ công như
một sinh kế hay một phần sinh kế.
- Văn hóa làng nghề là một dạng đặc thù của văn hóa làng nói
chung gắn với việc sản xuất, sinh sống bằng một nghề hay một số
nghề thủ công nghiệp (không tính đến nghề nông) tạo nên tính văn
hóa đặc thù.

1.2.1.3. Làng ngh truy n th ng, V n hóa làng ngh truy n th ng
- Làng nghề truyền thống là làng có một hoặc nhiều nghề thủ
công truyền thống, có các nghệ nhân và những người thợ giỏi
chế tác ra các sản phẩm độc đáo, tinh xảo, mang đặc trưng văn
hóa cộng đồng, có cùng tổ nghề, có bí quyết làm nghề, giữ nghề
và truyền nghề, các thành viên trong làng phải tuân theo luật lệ
làng nghề.
- Văn hóa làng nghề truyền thống là một kiểu văn hóa làng nghề
được quy định bởi việc sản xuất, buôn bán và sinh sống bằng một
nghề thủ công truyền thống của làng.
1.2.1.4. Cơ cấ u văn hóa làng nghề truyề n thố ng

Văn hóa làng nghề truyền thống gồm 3 thành tố tạo nên, đó là:
Văn hóa vật chất, văn hóa tổ chức cộng đồng và văn hóa tinh thần.
1.2.2. Lý thuyết về biến đổi văn hóa
Biến đổi văn hóa là chủ đề nghiên cứu rộng của nhiều ngành
khoa học. Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về biến đổi văn hóa và


8

đều có điểm chung giống nhau khi cho rằng không có nền văn hóa
nào đứng yên một chỗ, cũng như không có một nền văn hóa nào
không có sự thay đổi gì so với thời kỳ khai nguyên của nó.
Lý thuyết về văn hóa sản xuất vật chất của A.A.Radughin và biến đổi
văn hóa của các học giả trong và ngoài nước cho thấy ở bất kỳ xã hội nào,
trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nhất định nào cũng đều có những biến đổi,
cũng trộn lẫn những sự tiếp nối và biến đổi. Những tiếp nối và biến đổi
bao hàm cả biến đổi về số lượng, chất lượng, trạng thái; Biến đổi giữa cái
cũ và cái mới; từ cái chưa hoàn thiện đến hoàn thiện và văn hóa làng nghề
truyền thống cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Tiểu kết
Mặc dù có nhiều công trình của những tác giả là các chuyên gia
am hiểu sâu trong lĩnh vực văn hóa làng nghề, tuy nhiên nghiên cứu
về biến đổi văn hoá làng nghề truyề n thố ng Hà Nộ i vẫn còn là vấn
đề còn bỏ ngỏ, đặc biệt là các nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng
nghề Triều Khúc và Thiết Úng vẫn đang là khoảng trống. Công trình
nghiên cứu về biến đổi văn hóa hai làng nghề thực sự còn rất khiêm
tốn. Các bài viết, tạp chí về hai làng nghề hiện nay chỉ mang tính thời
sự, phóng sự, chưa đi sâu phân tích, đánh giá những biến đổi về văn
hóa cũng như đề xuất hướng giải quyết.
Kế thừa kết quả nghiên cứu cùng với các khái niệm về nghề,

làng nghề, văn hóa làng nghề truyề n thố ng cùng lý thuyết văn hóa
học về văn hóa sản xuất vật chất và lý luận về biến đổi văn hóa đã
được các nhà khoa học dày công đúc kết, với kiến thức và hiểu biết
qua việc nghiên cứu, ở nội dung chương 1, Nghiên cứu sinh đã nêu
lên và bổ sung thêm một số khái niệm về Văn hóa nghề; Làng nghề,
Làng nghề truyền thống; Văn hóa làng nghề; Làng nghề truyền
thống; Văn hoá làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó, Nghiên cứu
sinh lựa chọn các phương pháp, thao tác nghiên cứu làm công cụ
thực hiện trong quá trình điền dã, tham dự nhằm hoàn thành mục tiêu
luận án đề ra.


9

Chương 2
KHÁI LƯỢC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI,
LÀNG NGHỀ TRIỀU KHÚC, THIẾT ÚNG VÀ CÁC NHÂN T
TÁC
NG
N S BI N
I V N HÓA LÀNG NGH
2.1. KHÁI LƯỢC LÀNG NGHỀ HÀ NỘI
2.1.1. Khái quát điều kiện hình thành và phát triển làng
nghề, văn hóa làng nghề Hà Nội
2.1.1.1. Điều kiện địa lý, tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hóa
2.1.1.2. Sự trình hình thành, phát triển văn hóa làng nghề truyền
thống Hà Nội
2.1.2. Đặc trưng văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội
2.1.2.1. Đặc trưng phong phú và đa dạng
2.1.2.2. Kỹ thuật chế tác tinh hoa, tinh xảo

2.1.2.3. Văn hoá làng nghề luôn tích hợp, giao thoa, toả sáng
2.1.2.4. Văn hóa làng nghề Hà Nội gắn với đô thị, thị trường
2.1.2.5. Văn hoá làng nghề Hà Nội nhạy bén, năng động, thích ứng
2.2. LÀNG NGH TRUY N TH NG TRI U KHÚC VÀ THI T ÚNG
2.2.1. Làng Triều Khúc (xã Tân Triều, huyện Thanh Trì)
Làng Triều Khúc tên nôm là Kẻ Đơ thuộc xã Tân Triều, huyện
Thanh Trì, Hà Nội. Xưa kia, Triều Khúc thuộc Trang Khúc Giang, sau
này thường gọi là Đơ Đồng, khi có nghề thêu gọi là Đơ Thao. Làng
Triều Khúc nằm ở phía Nam đường Nguyễn Trãi, nối Cầu Mới với quận
Hà Đông, đoạn đầu đường Quốc lộ 6. Trước năm 1961, Triều Khúc thuộc
tỉnh Hà Đông, từ năm 1961, nhập vào huyện Thanh Trì.
2.2.2. Làng Thiết Úng (xã Vân Hà, huyện Đông Anh)
Làng Thiết Úng (làng Ống) còn được gọi là thôn Thiết Úng. Xưa
kia, Thiết Úng nằm bên dòng Hoàng Giang, tức sông Ngũ Huyện
Khê (cũ) thuộc hệ thống sông hào thành Cổ Loa, là nơi có cư dân cổ
sinh sống, lập nên xóm làng, phường thợ, vì vậy có tên là Xa Lập.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, thôn Thiết Úng thuộc
tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Sau


10

Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thiết Úng là một thôn của xã
Thiết Hà Châu. Từ năm 1949, Thiết Úng trở thành một trong năm
thôn của xã Vân Hà.
* Hai làng nghề đều có truyền thống hiếu học và yêu nước, di
tích lịch sử, văn hoá được xếp hạng cấp quốc gia (đình, đền, chùa,
nhà thờ Tổ nghề), có nghề thủ công truyền thống hình thành từ vài
trăm năm trước (làng Triều Khúc có nghề dệt, nghề làm nón quai
thao...; làng Thiết úng có nghề đồ gỗ mỹ nghệ chạm trổ công phu,

tinh xảo).
2.3. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG
NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI

Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của văn hóa làng nghề
Hà Nội hiện nay, đó là: sự đổi mới đường lối của Đảng và Nhà nước;
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Ngoài
ra, việc Việt Nam gia nhập WTO đã góp phần làm cho bộ mặt làng
nghề khởi sắc hơn rất nhiều nhờ sự giao lưu, mua bán sản phẩm,
hàng hóa; Bên cạnh đó, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật,
công nghệ thông tin trong quá trình sản xuất, quảng bá và giới thiệu
sản phẩm cũng góp phần tác động đến văn hóa làng nghề. Có thể
khái quát các nhân tố chính sau:
2.3.1. Nhân tố chính trị
2.3.1.1. Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
2.3.1.2. Mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế
2.3.2. Nhân tố kinh tế
2.3.2.1. Sự đổi mới chính sách, cơ chế tổ chức sản xuất, kinh doanh
2.3.2.2. Gia nhập WTO, mở rộng thị trường
2.3.3. Nhân tố văn hóa - xã hội
2.3.3.1. Nhận thức mới về văn hóa và vai trò của văn hóa
2.3.3.2. Tác động của giao lưu văn hóa
2.3.4. Nhân tố khoa học - kỹ thuật
2.3.4.1. Ứng dụng khoa học công nghệ
2.3.4.2. Thông tin, quảng bá, tiếp thị


11

2.3.5. Điều kiện hạ tầng kỹ thuật

Việc nhận diện và nêu rõ các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự
biến đổi văn hoá làng nghề truyền thống Hà Nội sẽ làm rõ được
nguyên nhân tác động tạo ra biến đổi, giúp chúng ta tìm ra những
giải pháp phù hợp, góp phần khắc phục những hạn chế, để văn hóa
làng nghề có hướng đi đúng, phù hợp trong điều kiện mới nhưng vẫn
duy trì và bảo tồn được văn hóa làng nghề truyền thống.
Tiểu kết
Làng nghề truyền thống Hà Nội với những điều kiện vị trí địa lý,
kinh tế, chính trị, giao thông thuận lợi đã và đang góp phần làm thay
đổi diện mạo văn hóa làng nghề. Ở chương 2 này, Nghiên cứu sinh
phân tích cơ cấu và đặc trưng văn hóa làng nghề truyền thống, Với
việc nhận diện và nêu rõ các nhân tố chính ảnh hưởng đến sự biến
đổi văn hoá làng nghề truyền thống Hà Nội, nghiên cứu sinh đã phân
tích và chỉ ra được những nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hoá
làng nghề Hà Nội hiện nay. Tiếp đó, Nghiên cứu sinh phân tích 5 đặc
trưng cơ bản của văn hoá làng nghề truyền thống Hà Nội, trong đó
đặc trưng nhạy bén, năng động, thích ứng là một trong 5 đặc trưng
thể hiện rõ nhất ở hai làng nghề Triều Khúc và Thiết Úng trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường. Đây
chính là đặc trưng không thể thiếu đối với bất kỳ làng nghề truyền
thống Hà Nội nào muốn bảo tồn, giữ gìn và phát huy văn hoá làng
nghề của địa phương.
Chương 3
KH O SÁT S BI N
I V N HÓA LÀNG NGH
TRUY N TH NG TRI U KHÚC VÀ THI T ÚNG
3.1. BI N I V N HOÁ V T CH T, C NH QUAN MÔI TR NG
Lĩnh vực văn hoá vật chất bao gồm: chế tác, sử dụng công cụ sản
xuất, cách thức chọn, sử dụng nguyên liệu sản xuất, sản phẩm làng
nghề, cảnh quan, không gian tồn tại nghề, không gian mưu sinh, cư trú

của làng nghề. Do hoàn cảnh khách quan và chủ quan của quá trình đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã tác động làm cho
chúng thay đổi. Ở tiết 3.1 này, Nghiên cứu sinh trình bày những biến


12

đổi dễ nhận biết ở một số công đoạn trong văn hoá sản xuất của làng
nghề truyền thống Triều Khúc và Thiết Úng.
3.1.1. Biến đổi công cụ làm nghề
Làng nghề dệt Triều Khúc hiện nay đã sử dụng máy dệt chạy mô
tơ điện, khung dệt được cải tiến để đem lại chất lượng và số lượng sản
phẩm cao hơn. Làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ và mộc dân dụng Thiết Úng,
người thợ đã áp dụng kỹ thuật, công nghệ máy móc hiện đại trong công
đoạn pha, cắt, tiện gỗ và đánh bóng sản phẩm.
Sự kết hợp giữa công cụ truyền thống và máy móc hiện đại trong
quá trình sản xuất của Triều Khúc và Thiết Úng đã góp phần tạo ra
năng suất lao động cao hơn hẳn, sản phẩm làm ra hàng loạt, không
còn mang tính đơn chiếc như trước kia, người thợ cũng nhờ đó đỡ
vất vả hơn, có thêm thời gian để sáng tạo những mẫu mới.
3.1.2. Biến đổi nguyên liệu sản xuất
Đối với làng nghề Triều Khúc, bên cạnh nguyên liệu chính là tơ,
sợi được người Triều Khúc dùng cho dệt chỉ, băng, đai, phù hiệu,
còn có các phụ gia đi kèm để tạo thành sản phẩm, như thuốc nhuộm
dùng cho tơ sợi dệt; Đối với làng nghề Thiết Úng, bên cạnh nguyên
liệu chính là gỗ, người Thiết Úng còn dùng sơn, keo cho công đoạn
hoàn thiện sản phẩm. Những phụ gia này ngày nay đều làm từ hoá
chất, chất liệu hoá học.
3.1.3. Biến đổi quy mô và địa điểm sản xuất
Trước năm 2000, người Triều Khúc và Thiết Úng dùng chung

một địa điểm cho việc vừa sản xuất, vừa bán hàng, vừa ở, thì hiện
nay, việc dùng chung địa điểm đã khác. Bên cạnh đó, tính chuyên
nghiệp thể hiện rõ ở các khâu trong quá trình sản xuất. Yếu tố này đã
góp phần tiên quyết, chi phối sự thay đổi của hoạt động sản xuất.
Nếu người thợ không thay đổi quy mô sản xuất, địa điểm sản xuất,
phương thức sản xuất thì sẽ không tạo ra được năng suất cao và như
vậy họ khó có thể tiếp tục duy trì, phát triển được nghề.
3.1.4. Biến đổi cảnh quan, môi trường làng nghề
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, cùng với việc biến đổi cách thức
sản xuất, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, làng nghề Triều Khúc ở


13

trong lòng đô thị, những ngôi nhà ống, nhà cao tầng san sát mọc lên. Làng
Thiết Úng có lẽ xa trung tâm hơn, nên sự đổi thay không đạt đến tốc độ
nhanh như Triều Khúc. Nhưng so với trước, theo những người cao tuổi
trong làng thì vẫn khác trước rất nhiều, về cảnh quan làng nghề sạch đẹp
so với trước năm 2000 đã tăng lên, về mức độ chưa sạch đẹp giảm
xuống. Mặc dù đây đó còn những nhận xét về cảnh quan làng nghề,
nhưng về cơ bản, dân làng đều nhận thấy sự thay đổi cảnh quan theo
chiều hướng tích cực hơn, mang lại nhiều thuận lợi hơn cho cuộc sống
sinh hoạt và sản xuất của họ.
3.2. BI N
I L NH V C V N HOÁ T CH C C NG
NG
3.2.1. Biến đổi quan hệ gia đình
Xuất phát từ biến đổi phương thức truyền nghề và giữ gìn bí
quyết nghề nghiệp, từ việc chuyển đổi sang nghề nghiệp khác, vì
vậy, việc truyền nghề cho tất cả mọi người trong gia đình của người

thợ tăng hơn rất nhiều so với những năm 2000 trở về trước. Chính sự
truyền nghề theo hướng mở này cùng với sự tiến bộ xã hội là những
nguyên nhân tạo nên biến đổi quan hệ giữa vợ và chồng, bố mẹ và
con cái, anh chị em, họ hàng người Triều Khúc và Thiết Úng.
3.2.1.1. Biế n đổ i trong quan hệ vợ /chồ ng
Việc biến đổi về vai trò giữa người chồng và người vợ ngày nay
đã thay đổi rất nhiều, việc thay đổi đó là do người vợ không quá bị lệ
thuộc vào người chồng nữa, chỉ cần họ giỏi nghề, nắm vững nghề là
có thể tham gia cùng chồng trong mọi hoạt động: từ sản xuất đến kinh
doanh và nuôi dạy con. Người vợ mà giỏi nghề, đảm đang, tháo vát có
thể là người đứng ra cắt đặt công việc làm ăn, buôn bán, sản xuất trong
gia đình. Trong việc nuôi dạy con cũng vậy, không chỉ người bố mới có
vai trò chính trong việc dạy dỗ hay hướng dẫn con cái làm nghề, mà
người vợ cũng góp phần không nhỏ trong quá trình dạy dỗ con cái trưởng
thành, tạo nghề, tạo nghiệp cho chúng, cùng chồng xây dựng gia đình
ngày một ấm no, sung túc, con cái ngoan, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ,
xóm làng.


14

3.2.1.2. Biế n đổ i trong quan hệ bố , mẹ và con cái, giữ a anh chị
em và quan hệ vớ i xóm làng
Trước kia và hiện nay, trong các gia đình Triều Khúc và Thiết Úng,
người bố vẫn là trụ cột, khi người bố nhiều tuổi thì con trai sẽ đứng ra
điều hành, cắt đặt mọi việc làm ăn, nhà cửa, đối ngoại. Thông thường khi
người bố có tuổi, giao lại công việc cho con trai, thì người con đó cũng đã
ở vào tuổi chín chắn, từ 30 - 40 tuổi. Tuy nhiên, có một bước tiến đáng kể
trong mối quan hệ giữa bố mẹ và con cái, đó là con cái được phép bàn
bạc công việc làm ăn với bố mẹ. Nhiều gia đình Triều Khúc và Thiết Úng

ngày nay đã mở công ty, mở xưởng sản xuất lớn, họ đã tin tưởng và
mạnh dạn giao quyền quản lý cho những người con của họ chịu trách
nhiệm chính trong sự phát triển kinh tế.
Quan hệ anh chị em họ, ngày nay do nhiều mối quan tâm chi phối hơn
trước, nên việc thăm hỏi nhau không diễn ra thường xuyên. Trước đây, khi
nhà anh em nào có đám, người Triều Khúc và Thiết Úng thường tạm gác tất
cả việc nhà lại để đến giúp nhau. Nhưng ngày nay, do mỗi người đều có
những công việc nhất định, đặc biệt là công việc sản xuất không cho phép
chậm bàn giao sản phẩm, nên người thợ không thể bỏ công việc sang giúp
được mà chỉ cử người trong gia đình đại diện có mặt. Trừ khi có sự kiện
trọng đại tổ chức (như mừng thọ, hiếu hỷ), lúc đó tất cả các thành viên trong
gia đình mới tham dự.
Trong quan hệ hàng xóm láng giềng thì cho đến nay, người
Triều Khúc và Thiết Úng vẫn duy trì mối quan hệ làng xóm thân
thiết, thể hiện tình cảm gắn bó, đoàn kết, nhất là những khi “tắt lửa,
tối đèn”.
3.2.2. Biến đổi các quan hệ khác của làng nghề
Trước sự nghiệp CNH, HĐH, toàn cầu hoá, trước những biến đổi
của nghề, chủ thể văn hoá làng nghề là thợ thủ công cũng đã tự thay
đổi, do vậy các mối quan hệ xã hội làng nghề giữa chủ và thợ, giữa
thầy và trò, giữa người mua và người bán, giữa các phe, giáp,
phường, hội cũng vì thế mà biến đổi theo.


15

3.2.2.1. Biế n đổ i quan hệ chủ và thợ
Trước đây, nếu người thợ Thiết Úng muốn học nghề, họ mang
biếu thầy nồi gạo, ngày nay thì đơn giản và cởi mở hơn, người thợ
nào muốn học nghề, thầy sẽ tận tình chỉ dạy, miễn là người đó chăm

chỉ, chịu khó. Ngoài ra, người thợ nào giỏi sẽ được chủ nhà quý mến,
tạo nhiều điều kiện làm việc và được trả công cao.
3.2.2.2. Biế n đổ i trong quan hệ thầ y/trò và bạ n hàng
Có một thời gian khi nền KTTT bắt đầu phát triển, người thợ
làng nghề chưa định hình rõ hướng đi, chữ tín trong quan hệ bạn
hàng vì thế mà giảm xuống rất thấp, người bán, người mua cứ theo ý
mình mà thay đổi giá cả, chất lượng mặt hàng, không nhất quán
trước sau như một. Điều đó làm giảm sút và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến công việc sản xuất, kinh doanh, buôn bán.
Hiện nay, người Triều Khúc và Thiết Úng cũng hiểu rằng cần phải có
những mối quan hệ tốt hơn, mở rộng hơn với bạn hàng trong và ngoài
nước thì họ mới có chỗ đứng vững trên thị trường có nhiều biến động, vì
vậy, quan hệ bạn hàng đã được họ đặt lên tầm quan trọng với 72.9% người
đồng ý đánh giá này, chỉ có 27,1% cho rằng quan hệ đó chỉ đặt ở mức bình
thường. Tỷ lệ 27,1% người đánh giá trên thuộc về những người làm ăn
nhỏ lẻ theo lối thủ công truyền thống trước đây.
3.2.2.3. Biế n đổ i quan hệ phe giáp, phư ờ ng, hộ i
Xưa kia, phe của hai làng Triều Khúc và Thiết Úng đều có nhiệm vụ
là “phụ giúp giáp thu thuế, biện lễ thờ thành hoàng và lo tang lễ cho người
quá cố”. Ngày nay, do tính chất công việc của các phe giáp không phù
hợp, nên cũng không tồn tại phe giáp. Các việc phụ giúp thu thuế cho xã
bây giờ đã có trưởng thôn. Việc sửa soạn lễ trong ngày hội đã có Ban
Quản lý Di tích của làng do UBND xã thành lập đứng ra lo liệu. Việc tang
lễ cho người quá cố cũng đơn giản hơn, bớt đi nhiều hủ tục. Do vậy,
phe giáp không còn cũng là điều hợp lý.
3.2.3. Biến đổi quan hệ xã hội trong việc truyền nghề, giữ nghề
Đối với người dân Triều Khúc, Thiết Úng, hoạt động truyền nghề và
giữ bí quyết nghề trong điều kiện hiện nay đang bị ảnh hưởng nhiều nhất



16

bởi yếu tố kinh tế, thu nhập. 60% người được hỏi đều trả lời rằng sẽ
hướng dẫn cho mọi người cùng làm nghề nếu người đó hỗ trợ họ trong
công việc hay tham gia làm trong các cơ sở sản xuất của họ. Yếu tố ảnh
hưởng thứ hai trong việc truyền nghề là tôn vinh nghề thủ công và tôn
vinh nghệ nhân.
Tiếp theo đó là mức độ tài hoa của bàn tay khối óc, tâm hồn của từng
cá nhân, quy luật kinh tế thị trường, tính chất bí quyết nghề, sự thay đổi
công năng của sản phẩm, nhu cầu lao động việc làm, tác động của CNH,
HĐH, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đều có ảnh hưởng đến việc
truyền nghề và giữ bí quyết nghề. Việc giữ bí quyết nghề còn được người
Triều Khúc và Thiết Úng thực hiện với mục đích đầu tiên là để duy trì
sức mạnh của gia đình, dòng họ, sau đó là chi phối quan hệ hôn nhân,
quan hệ thầy trò và quan hệ bất bình đẳng giới.
3.3. BI N

I L NH V C V N HOÁ TINH TH N

3.3.1. Biến đổi lễ hội làng và hội thờ Tổ nghề
Biến đổi trong lễ hội làng và lễ hội thờ Tổ nghề thể hiện ở
nhiều khía cạnh của đời sống văn hóa nhân dân làng nghề với
những nét biến đổi cơ bản về chủ thể tham gia tổ chức, quy mô,
không gian, thời gian, hình thức tổ chức; là quan niệm của người
thợ biến đổi khi đánh giá về tầm quan trọng trong lễ hội Tổ nghề; lễ
vật dâng cúng Tổ nghề mở rộng hơn, phong phú hơn do kinh tế phát
triển, người dân làng nghề có thu nhập cao hơn, cuộc sống ổn định
và đầy đủ hơn trước.
3.3.2. Biến đổi phong tục, tập quán làng nghề
3.3.2.1. Biế n đổ i trong cư ớ i hỏ i

Trong cộng đồng xã hội truyền thống làng nghề Triều Khúc,
Thiết Úng, gia đình nào có con trai, con gái thạo nghề, giỏi nghề
thường hay hứa hẹn làm thông gia và gả con cho nhau. Ngày nay, do
sự biến đổi nghề khác trước, nam nữ Thiết Úng và Triều Khúc có
người theo nghề truyền thống, có người học lên cao trở thành kỹ sư,
bác sĩ, cán bộ nhà nước hay làm trong các công ty liên doanh, do vậy
tiêu chuẩn chọn dâu, chọn rể chăm chỉ, giỏi nghề thủ công không còn


17

là tiêu chuẩn hàng đầu nữa, cơ bản chỉ cần người đó có nghề nghiệp
ổn định, biết kính trên nhường dưới.
Làng nghề Triều Khúc và Thiết Úng đều có những quy ước
tương đối giống nhau trong việc cưới xin và nộp cheo cho làng, đó
là: trước kia, con gái Thiết Úng đi lấy chồng thiên hạ phải nộp cheo,
tức là nộp 1.000 viên gạch cho làng để xây đường cái, nếu lấy chồng
trong làng thì không phải nộp, chỉ cần đến ngày giỗ Tổ về đình cúng
lễ và công đức cho làng là được. Cũng như vậy, xưa kia, con gái
Triều Khúc lấy chồng khác làng phải nộp gạch để lát đường làng.
Ngày nay không bắt buộc, đường làng bây giờ đã được đổ bê tông,
nếu ai có lòng thành thì công đức cho làng vào những ngày lễ hội
làng và giỗ Tổ nghề, làng không quy định phải nộp gạch như trước.
Lễ cưới ở Triều Khúc và Thiết Úng đều được tiến hành đầy đủ
các bước: dạm ngõ, ăn hỏi, cưới, lại mặt. Trước kia, ở Triều Khúc, sau
khi chú rể đón cô dâu về nhà trai, tổ chức các nghi lễ bên nhà chồng
xong, cô dâu theo họ hàng trở lại nhà cha mẹ đẻ, tiếp họ hàng, bạn bè
đến chúc mừng hạnh phúc ở nhà cô dâu. Đến tối, chú rể đến xin phép
cha mẹ vợ đón vợ về. Ngày nay, tục lệ cô dâu về lại nhà cha mẹ đẻ
vẫn còn, nhưng chỉ thực hiện khi cô dâu lấy chồng trong làng, hoặc

gần làng, trường hợp lấy chồng khác làng được miễn thủ tục trên.
3.3.2.2. Biế n đổ i trong lễ mừ ng thọ , khao vọ ng, đình đám
Trong xã hội truyền thống làng nghề Triều Khúc và Thiết Úng, lễ
mừng thọ, khao vọng, đình đám luôn được người làng coi trọng.
Ở Triều Khúc trước đây, lễ mừng thọ kéo dài 3 ngày, nay rút
xuống còn 2 hoặc 1 ngày, tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình.
Bên cạnh việc ăn uống là lệ đánh chắn ăn tiền của những người đến
mừng thọ như con cháu, họ hàng, làng xóm. Thời gian đánh chắn kéo
dài không chỉ ban ngày, mà còn diễn ra thâu đêm. Ngày nay, lệ đánh
chắn không diễn ra thâu đêm, suốt sáng nữa, nếu họ hàng, làng xóm
có đến mừng thọ, gặp đám chơi thì họ cũng chỉ tham gia chốc lát cho
vui, chứ không sa đà như trước kia.
Đối với làng Thiết Úng, tục mừng thọ xưa kia được quy định
nam giới đến 50 tuổi thì gọi là lão hạng, có cơi trầu đưa đến đình xin


18

vọng lão, được miễn giảm một nửa số sưu dịch. Người già 60 tuổi
được gọi là lão nhiêu, được miễn trừ hoàn toàn sưu dịch. Ngày nay
không còn chế độ sưu dịch nữa, người Thiết Úng khi đến tuổi 50, 60
vẫn sửa cơi trầu lên đình lễ, đến tuổi 70, 80 thì con cháu trong nhà
họp nhau lại để bàn việc tổ chức mừng thọ, làm cỗ mời họ hàng, làng
xóm đến chia vui.
3.3.2.3. Biế n đổ i trong tang ma
Với quan niệm “Nghĩa tử là nghĩa tận”, khi một gia đình nào đó
trong làng Triều Khúc có người mất, họ hàng, làng xóm đều đến
động viên, chia buồn, cùng gia đình tang quyến lo liệu chu đáo cho
người đã khuất. Tuy nhiên, hiện nay, hiện tượng thuê người khóc
mướn đã và đang diễn ra ở Triều Khúc là việc cần xem xét lại. Đây

không phải là phong tục truyền thống của người Triều Khúc, mà là
do tính thương mại hóa của kinh tế thị trường đưa lại. Mặc dù đã
được chính quyền vận động, nhưng một số gia đình vẫn chưa thực
hiện, họ coi việc thuê người khóc mướn như thể hiện sự báo hiếu đối
với cha mẹ.
Xưa kia, trước khi khâm liệm cho người quá cố, người Thiết
Úng làm lễ mộc dục (tắm gội cho người chết) và lễ phạn hàm (bỏ
một nhúm gạo nếp và 3 đồng tiền vào miệng). Ngày nay, người Thiết
Úng cũng giản tiện khá nhiều, họ chỉ lau người cho người chết được
sạch sẽ chứ không làm lễ mộc dục nữa và làm lễ nhập quan theo
đúng ngày giờ đã được xem trước.
3.3.2.4. Biế n đổ i đạ o đứ c làng nghề
Vấn đề biến đổi đạo đức làng nghề trong quan hệ mua bán ngày
nay của làng nghề Triều Khúc và Thiết Úng cũng có những thay đổi
đáng kể. Trước đây, việc đảm bảo chữ tín của người Thiết Úng,
người Triều Khúc nói riêng và của người thợ làng nghề thủ công
truyền thống nói chung là vô cùng quan trọng. Người mua và người
bán chỉ cần giao kèo với nhau bằng miệng là xong, sản phẩm được
giao đảm bảo vẫn đúng hẹn; mẫu mã, chất liệu không thay đổi. Ngày
nay, ngoại trừ việc mua bán những sản phẩm riêng lẻ được thực hiện
trực tiếp giữa người mua và người bán, còn lại đều được thực hiện


19

bằng văn bản có thủ tục ký nhận giữa bên mua và bên bán, trong đó
ghi đầy đủ yêu cầu về mẫu mã, kích thước, chất liệu, thời gian giao,
nhận và thanh toán sản phẩm.
Tiểu kết
Việc biến đổi văn hóa làng nghề Triều Khúc và Thiết Úng diễn

ra trong bối cảnh hiện nay là điều tất yếu. Biến đổi văn hóa hai làng
đan xen cả yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực.
Về biến đổi mang tính tích cực, đó là biến đổi về hình thức công
cụ, công nghệ, cách thức sản xuất, mua nguyên vật liệu, biến đổi về
mẫu mã, sản phẩm. Bên cạnh những biến đổi mang tính tích cực, có
những biến đổi cần quan tâm để khắc phục, không nên để thấm sâu
hơn nữa vào đời sống cộng đồng.
Do đó, rất cần sự quan tâm của chính quyền địa phương, từ đó
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho người dân
làng nghề. Bên cạnh đó, cần sự hiểu biết hơn nữa, cũng như sự trân
trọng giá trị văn hóa làng nghề của những người thợ làng nghề. Chỉ
có những người thợ làng nghề hiểu được những giá trị cốt lõi đó,
chắc chắn họ sẽ điều chỉnh được suy nghĩ và hành động, để giữ gìn
nguyên vẹn tinh hoa của văn hóa làng nghề cha ông để lại.
Chương 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN BÀN LUẬN
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY
VĂN HÓA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
4.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN BÀN LUẬN
4.1.1. Vai trò c a ch th
i v i s bi n i v n hoá làng
ngh truy n th ng
Có nhiều đối tượng ngoài cộng đồng chủ thể tham gia bảo vệ di
sản: cơ quan nhà nước, nhà nghiên cứu, tổ chức xã hội..., nhưng vai
trò quyết định thuộc về các chủ thể là cộng đồng sở hữu di sản. Qua
thực tiễn sự biến đổi văn hoá làng nghề ở hai làng Triều Khúc, Thiết
Úng và một số làng nghề truyền thống Hà Nội, Nghiên cứu sinh cho
rằng, chính những người thợ thủ công làng nghề với tư cách là chủ thể
văn hoá làng nghề truyền thống đã trực tiếp tạo ra những biến đổi văn



20

hoá làng nghề truyền thống trong quá trình tồn tại và phát triển của
nó, đặc biệt là trong quá trình đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đô thị hoá, hình thành nên kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
4.1.1.1. Tính n ng ng, nh y bén c a ch th quy t nh s

bi n

i v n hoá làng ngh truy n th ng

Hiện nay, không chỉ có hai làng Triều Khúc và Thiết Úng năng
động, nhạy bén, biết kế thừa từ các sản phẩm truyền thống để đổi
mới thêm lên, mà nhiều làng nghề truyền thống Hà Nội cũng có xu
hướng phát triển như vậy. Sự kế thừa và đổi mới đó đã đem lại giá
trị kinh tế cao từ các sản phẩm làng nghề, góp phần không nhỏ
trong giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người thợ, đó là các làng nghề gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Hạ
Thái, mây tre đan Phú Vinh, điêu khắc mỹ nghệ Sơn Đồng, dệt lụa
Vạn Phúc, khảm trai Chuôn Ngọ, thêu ren Quất Động, xương sừng
Thuỵ Ứng…
4.1.1.2. Nhu cầ u củ a chủ thể quy đị nh việ c bả o tồ n và phát
huy, phát triể n văn hoá làng nghề truyề n thố ng
Việc bảo vệ, phát huy văn hóa làng nghề truyền thống cần luôn
gắn với con người - chủ thể của di sản, văn hoá làng nghề được thể
hiện thông qua thực hành của chủ thể. Hiểu được điều đó, người dân
làng nghề luôn là người tham gia tích cực trong vấn đề giữ gìn môi
trường cảnh quan, sinh thái làng nghề, luôn có ý thức trong vấn đề xã
hội hóa hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích, trong phát triển kinh tế và tổ

chức sản xuất sản phẩm, họ sẽ có những sáng tạo trong việc giữ gìn
và xây dựng đời sống văn hóa nông thôn.
4.1.2. Cơ chế, chính sách của cơ quan quản lý nhà nước, vai
trò của các tổ chức đoàn thể, chính trị, xã hội trước những biến
đổi của văn hoá làng nghề truyền thống
NCS nêu lên 6 vấn đề về vai trò, nhiệm vụ của cơ quan quản lý
nhà nước các cấp; các tổ chức đoàn thể; các hệ thống thiết chế trong
việc giáo dục cho mọi người cùng góp sức trong việc bảo tồn và phát
huy văn hóa làng nghề truyền thống, nhằm ngăn chặn những biến đổi
tiêu cực, không để những biến đổi đó làm xói mòn đi nét đẹp truyền
thống của các làng nghề.


21

4.2. GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức và chính sách
4.2.1.1. Bảo tồn, phát huy văn hoá làng nghề truyền thống là một
con đường (biện pháp) để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn
4.2.1.2. Bảo tồn, phát huy văn hoá làng nghề truyền thống để
góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hoá dân tộc
4.2.2. Nhóm giải pháp về kinh tế, khoa học, công nghệ
4.2.2.1. Giải pháp về khoa học, công nghệ
4.2.2.2. Đầu tư vốn cho bảo tồn, phát huy, nhân cấy nghề truyền
thống và văn hoá làng nghề truyền thống
4.2.2.3. Đào tạo nghề, xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế
4.2.2.4. Mở rộng thị trường cho sản phẩm làng nghề truyền
thống và nguồn nguyên liệu sản xuất
4.2.2.5. Phát triển du lịch làng nghề truyền thống (kết hợp làng

nghề với du lịch và dịch vụ)
4.2.3. Nhóm giải pháp về văn hoá và truyền thông
4.2.3.1. Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy văn
hoá làng nghề truyền thống (bảo tồn nguyên gốc, bảo tồn kế thừa,
bảo tồn phát huy)
4.2.3.2. Tôn vinh chủ thể văn hoá làng nghề truyền thống
4.2.3.3. Giáo dục lòng tự hào và trách nhiệm bảo tồn, phát huy
văn hoá làng nghề truyền thống cho cộng đồng và thế hệ trẻ
4.2.3.4. Quảng bá văn hoá làng nghề truyền thống ra các địa
phương nước và quốc tế
Tiểu kết
Trong nội dung ở chương này, Nghiên cứu sinh đã bàn luận về vai
trò của chủ thể quy định việc bảo tồn và phát huy, phát triển văn hoá
làng nghề truyền thống. Nếu không có sự nhạy bén, năng động, linh
hoạt và thích nghi của những người thợ thủ công thì các làng nghề khó
có thể phát triển lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao, khó có thể tạo ra mẫu mã sản phẩm mới, phát triển
các sản phẩm truyền thống, mở rộng thị trường tiềm năng. Nếu không


22

có sự sáng tạo, tìm hướng đi mới cho làng nghề của chủ thể thì ngày
nay không còn tồn tại di sản văn hoá làng nghề truyền thống ở Hà Nội
nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Từ góc nhìn văn hoá học, cần phải
đánh giá đúng vai trò của chủ thể văn hoá trong việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá quá khứ.
Để những giá trị văn hoá làng nghề không tiếp tục bị mai một,
rất cần sự quan tâm của các ngành, các cấp, chính sách hỗ trợ làng
nghề đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng, khắc phục

ô nhiễm môi trường, phát triển các làng nghề truyền thống kết hợp
với du lịch, thực hiện các chương trình khuyến công quốc gia, đào
tạo thợ lành nghề, thợ giỏi, hỗ trợ khoa học công nghệ….
KẾT LUẬN
1. Đề tài tập trung nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của làng
nghề truyền thống Triều Khúc và Thiết Úng trong thời gian từ năm
2000 đến nay.
Luận án đã hệ thống hoá và xác định nội hàm một số khái niệm
về văn hóa, văn hóa nghề, văn hóa làng nghề, văn hóa làng nghề
truyền thống. Trên cơ sở đó, luận án vận dụng các quan điểm, đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để nghiên cứu
những vấn đề biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội hiện
nay. Nhằm đem lại kết quả khách quan, luận án sử dụng các phương
pháp nghiên cứu liên/đa ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp điền dã, tham dự của
nhân học văn hóa.
2. Kết quả nghiên cứu của luận án đã đánh giá, phân tích thực
trạng biến đổi văn hoá đã và đang diễn ra tại làng nghề Triều Khúc
và Thiết Úng, trong đó nghiên cứu sinh đã làm rõ biến đổi về văn
hoá sản xuất, biến đổi về văn hoá tinh thần và biến đổi văn hoá tổ
chức cộng đồng của người dân hai làng. Những biến đổi đó vừa có
hạn chế tiêu cực, vừa có tác động tích cực đối với người dân làng
nghề, là động lực để thúc đẩy họ luôn tìm tòi, đổi mới, không ngừng
vận động theo xu hướng đổi thay và phát triển của xã hội.


×