Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ hạ đường máu giai đoạn sơ sinh sớm tại khoa nhi bệnh viện trường Đại học Y-Dược Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 109 trang )

1

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

CHẾ THỊ ÁNH TUYẾT

Nghiªn cøu mét sè yÕu tè nguy c¬
h¹ ®êng m¸u giai ®o¹n s¬ sinh sím t¹i khoa nhi
bÖnh viÖn trêng §¹i häc Y-Dîc HuÕ

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn
PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIỀU NHI

HUẾ, 2013


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hạ glucose máu sơ sinh là tình trạng giảm nồng độ glucose trong máu,
đây là hội chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh đặc biệt là những ngày đầu sau sinh
[58], nguyên nhân gây bệnh thường là sự suy giảm sản xuất glucose hoặc dự trữ
glycogen ở gan trong thời kỳ bào thai, hoặc sự gia tăng nhu cầu sử dụng glucose,
rối loạn tân tạo glucose, phân hủy glycogen. Bình thường mức độ sử dụng
glucose ở trẻ sơ sinh cao hơn người lớn trong đó não là nơi sử dụng glucose như
một nguồn năng lượng chủ yếu. Đối với trẻ sơ sinh non tháng, thấp cân, dự trữ
glycogen thường giảm, khả năng phân hủy glycogen tạo đường cũng giảm nên
trẻ dễ bị hạ đường máu trong những giờ đầu sau sinh [53].
Từ trong bào thai glucose là loại thức ăn cung cấp năng lượng duy nhất,


chính vì vậy sau sinh theo thời gian lượng đường trong máu trẻ giảm hoàn
toàn là sinh lý, chính sự giảm này sẽ cân bằng hormone trong cơ thể đặc biệt
là insulin. Khi mọi thứ hoạt động nhịp nhàng thì đường trong máu được duy
trì, nếu không hạ đường máu sẽ xảy ra. Tuy nhiên, ở những trẻ có nguy cơ
cao, chẳng hạn trẻ sinh ra từ mẹ đái tháo đường, do có quá nhiều nồng độ
insulin trong máu nên trẻ luôn bị hạ đường máu sau sinh. Ngoài ra, những trẻ
có yếu tố nguy cơ như dự trữ glucose kém, những trẻ được cung cấp dồi dào
nguồn glucose trong thai kỳ hoặc trong thời gian chuyển dạ hoặc trẻ bị mắc
bệnh lý giai đoạn sơ sinh sớm đều là những trẻ có nguy cơ hạ đường máu sau
sinh [37].
Hạ đường máu trẻ sơ sinh triệu chứng rất nghèo nàn và không điển
hình, có thể gây nhầm lẫn với các nguyên nhân khác trong giai đoạn sơ sinh
đặc biệt là trong giai đoạn sơ sinh sớm. Glucose là nguồn cung cấp năng
lượng duy nhất cho tổ chức thần kinh và não sử dụng cho quá trình trao đổi
chất nên thiếu glucose cũng như thiếu oxy nếu không được chẩn đoán và xử


3

trí kịp thời sẽ gây rối loạn chức năng tế bào não [58] và tổn thương não ngay
cả không có triệu chứng lâm sàng của hạ đường máu [71], để lại di chứng
nặng nề thậm chí có thể tử vong. Theo nghiên cứu hồi cứu của tác giả
Kerstjens JM và cộng sự cho thấy trẻ đẻ non bị hạ đường máu thì nguy cơ
chậm phát triển ở độ tuổi mẫu giáo gấp 2,19 lần [46]. Do đó kiểm soát đường
máu ở trẻ sơ sinh đặc biệt trẻ sơ sinh giai đoạn sơ sinh sớm là rất quan trọng
nhằm tránh những hậu quả nặng nề và đáng tiết xảy ra [71]. Tuy nhiên rối
loạn này có thể phát hiện và tầm soát sớm bằng xét nghiệm đường máu mao
mạch ở trẻ sơ sinh và xử lý theo phát đồ của tổ chức y tế thế giới.
Cho đến nay trong điều kiện kinh tế phát triển vấn đề phát hiện và tầm
soát hạ đường máu trẻ sơ sinh rất đơn giản. Điều quan trọng là phải tiên lượng

trước vấn đề cũng như các yếu tố nguy cơ gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh và
có kế hoạch để đối phó kịp thời bằng cách sàng lọc tất cả những trẻ có nguy
cơ hạ đường máu trong giai đoạn sơ sinh sớm. Vì vậy, đề tài: “Nghiên cứu
một số yếu tố nguy cơ hạ đường máu giai đoạn sơ sinh sớm tại khoa nhi
bệnh viện trường Đại học Y-Dược Huế’’ nhằm các mục tiêu sau:
1. Mô tả tỉ lệ hạ đường máu theo loại sơ sinh và một số bệnh lý thường
gặp giai đoạn sơ sinh sớm.
2. Xác định một số yếu tố nguy cơ từ mẹ, con liên quan đến hạ đường
máu giai đoạn sơ sinh sớm.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN HẠ ĐƯỜNG MÁU SƠ SINH
1.1.1. Tầm quan trọng của nồng độ glucose bình thường ở trẻ sơ sinh
Trẻ sơ sinh là con người duy nhất trong số động vật có vú có một bộ
não rất lớn so với kích thước cơ thể. Vấn đề chuyến hóa glucose có tương
quan với trọng lượng não vì não đòi hỏi lượng lớn glucose cho các hoạt động
chức năng bình thường của nó, cũng như nồng độ glucose ở não có quan hệ
tuyến tính với nồng độ glucose huyết tương, khi nồng độ glucose huyết tương
thấp thì nồng độ glucose trong não cũng giảm theo thậm chí bằng 0, trong khi
đó não không thể tổng hợp glucose cũng như không có nguồn dự trữ
glycogen, chính vì lẽ đó tổn thương não thường hay xảy ra [51]. Nhiều nghiên
cứu đã chứng minh các nguồn năng lượng glucose dự trữ thường là thấp ở trẻ
sơ sinh non, trẻ sơ sinh hạn chế tăng trưởng trong tử cung, cũng như những
trẻ dễ bị tổn thương đó là những trẻ sơ sinh bị đa hồng cầu, tăng độ nhớt máu,
hạ huyết áp và giảm cung lượng tim, lại là những vấn đề gặp phổ biến trong
cả hai trẻ chậm tăng trưởng trong tử cung và trẻ sinh non. Do đó, càng làm

giảm lưu lượng huyết não và càng giảm cung cấp glucose đến não hậu quả tổn
thương chức năng của não cũng như thiếu oxy thiếu máu cục bộ ảnh hưởng
rất lớn đến sự phát trển thần kinh sau này ở trẻ [65].
1.1.2. Chuyển hóa glucose ở thai nhi
Trong suốt thời kỳ mang thai, toàn bộ glucose của thai nhi do mẹ cung
cấp cho thông qua con đường khuếch tán qua nhau thai. Như vậy, quá trình
tổng hợp glucose trong thai nhi bình thường là không xảy ra hoặc
rất thấp, mặc dù các enzym cần cho tổng hợp glycogen ở thai nhi có mặt của
tháng thứ ba thai kỳ. Nếu nhu cầu glucose thai nhi không được đáp ứng bởi


5

tình trạng hạ đường huyết của mẹ hay suy nhau thai, thai nhi có thể sử dụng
chất thay thế, chẳng hạn như các ceton có nguồn gốc từ các acid béo. Với
nguồn cung cấp glucose thấp kéo dài, thai nhi phát triển sản xuất con đường
riêng, đầu tiên là quá trình phân giải glycogen và sau thời gian dài quá trình
tổng hợp glycogen thiếu hụt gây những thay đổi phức tạp trong quá trình
chuyển hóa glucose của thai nhi dẫn đến thai nhi chậm phát triển trong tử cung
và hậu quả là những thay đổi trong chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh sau sinh
mà hay gặp là hạ đường máu sau sinh. Ngược lại ở thai nhi được cung cấp quá
nhiều glucose sẽ có hiện tượng cường isnulin thứ phát từ trong tử cung [65].
1.1.3. Chuyển hóa glucose ở trẻ sơ sinh
Glucose chủ yếu do mẹ cung cấp qua rau thai, khả năng dự trữ chất
này dưới dạng glycogen chỉ có sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ sinh non trước
thời gian này hầu như không có glycogen hoặc dưới 10g%, trong khi đó ở
trẻ đủ tháng lượng glycogen dự trữ # 34g%. Theo Kayiran SM, khi kiểm tra
nồng độ glucose ở trẻ sơ sinh khỏe mạnh cũng đã nhận thấy rằng lượng
glucose trong máu tăng dần cùng với sự tăng của tuổi thai, sự khác biệt có ý
nghĩa về nồng độ glucose trung bình giữa các nhóm tuổi 36-37 tuần,38-39

tuần và ≥ 40 tuần (với p < 0,001) [45].
Sự vận chuyển glucose từ mẹ sang thai nhi theo cơ chế khuếch tán dễ
dàng theo cả 2 phía. Số lượng đường cung cấp chỉ sử dụng cho thai khoảng
40-50%, còn lại để rau thai sử dụng cho các phản ứng oxy hóa, vận chuyển,
chuyển hóa đường, do có sự liên quan trao đổi qua lại giữa đường máu mẹ và
đường máu thai nhi nên nồng độ đường máu bào thai luôn giữ ở mức 70-80%
máu mẹ. Glucose khuyếch tán từ máu mẹ sang con dự trữ dưới 2 dạng chính:
+ Glycogen ở gan, cơ tim: bắt đầu từ tuần thứ 36.
+ Mỡ dưới da và nơi khác: bắt đầu từ tuần thứ 28 đến tuần thứ 30.


6

Sau khi sinh nguồn cung cấp glucose cho trẻ sơ sinh bị gián đoạn đột
ngột và nồng độ glucose trong máu giảm, hiện tượng này là phổ biến và là
sinh lý bình thường cần thiết để kích hoạt chức năng sản xuất glucose ở trẻ sơ
sinh. Những thay đổi hormon và chuyển hóa khi sinh tạo điều kiện thích nghi
cho trẻ sau sinh. Nồng độ catecholamine tăng rõ rệt khi sinh và cùng với
glucagon kích hoạt quá trình phosphoryl hóa glycogen tại gan và quá trình
phân giải glycogen tại gan. Sự tăng tiết cortisol kích thích glucose-6phosphatase tại gan hoạt động và giải phóng glucose ở gan. Tăng
catecholamine cũng kích thích sự phân giải lipid, cung cấp năng lượng (ATP)
và cùng yếu tố (NADPH) tăng cường hoạt động của các enzyme chịu trách
nhiệm tổng hợp glycogen [65].
Trong những ngày đầu năng lượng được cung cấp chủ yếu dựa vào
các dự trữ đường, quan trọng nhất là phản ứng của tụy tiết ra glucagon có lợi
cho nội tiết để nồng độ đường trong máu có thể được duy trì. Các enzyme
tham gia sản xuất đường cũng tăng mạnh sau khi sinh đảm bảo nồng độ
đường cần thiết cho các hoạt động sống ngoài tử cung, bên cạnh đó nồng độ
insulin cũng giảm dần theo giờ tuổi trung bình 1,17mU/l trong 12 giờ đầu
sau sinh xuống còn 1,03mU/l trong 12-24 giờ sau sinh [30]. Cơ chế này có

thể giải thích một số nguyên nhân hạ đường máu sơ sinh dựa trên những
thay đổi không phù hợp trong tiết hormon và không có các nguồn dự trữ ở
dạng glycogen ở gan, cơ bắp, nguồn acid amin để sản xuất đường và nguồn
lipid cần cho sự chuyển hóa thành các acid béo [1]. Điều này phù hợp với
nghiên cứu của Kumar A rằng nồng độ glucose ở trẻ sơ sinh đẻ non >33 tuần
và đủ tháng sẽ tăng dần từ lúc sau sinh và ổn định dần trong 48 giờ [49].
1.1.4. Điều hòa glucose máu ở trẻ sơ sinh
Khi sinh, nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch rốn ở vào khoảng
60%-80% nồng độ glucose trong máu tĩnh mạch mẹ. Sự sụt giảm nhanh


7

chóng lượng glucose trong máu diễn ra trong khoảng từ 30-60 phút sau sinh
và sau đó là ổn định dần trong khoảng 2-4 giờ sau sinh [45].
Nồng độ glucose máu luôn được ổn định nhờ các yếu tố sau:
- Điều hòa đường máu do gan:
Do gan có tính chất thấm glucose dễ dàng hơn các mô khác, có khả
năng tân tạo đường, cân bằng giữa quá trình thoái hóa, tổng hợp glycogen tại
gan nhờ vào enzym glucose-6-phosphatase (enzyme này không có ở các mô
khác) giải phóng glucose vào máu, cung cấp glucose cho não, cơ và các mô
khác sử dụng. Khi mức glucose máu tăng sự giải phóng glucose máu ngưng
lại và ở mức cao thì gan tăng cường sử dụng glucose.
- Điều hòa đường máu do Hormon:
Hormon insulin do tụy tiết ra làm hạ đường máu do tăng sử dụng
glucose trong tế bào, tăng quá trình đường phân và ức chế quá trình tân tạo
đường. Các hormon adrenalin, glucagon … làm tăng đường máu do làm tăng
quá trình phân ly glycogen thành glucose và giảm tổng hợp glycogen từ
glucose [1], [4].
1.1.5. Định nghĩa hạ đường máu sơ sinh

Có rất nhiều định nghĩa của hạ đường máu trẻ sơ sinh, từ điển y khoa
Stedman đã định nghĩa hạ đường máu là sự sụt giảm bất thường của glucose
trong máu, các câu hỏi đã được đặt ra là: so với cái gì? giảm như thế nào? liên
quan với những gì: chẳng hạn như lưu lượng máu não, nồng độ hemoglobin
hoặc hematocrit, mức oxygen, tình trạng thiếu oxy hay thiếu máu cục bộ, tình
trạng nhiễm trùng ..? Thuật ngữ hạ đường máu cũng liên quan đến sử dụng
glucose ở các mô, tế bào, cơ quan. Thuật ngữ hạ đường máu được định nghĩa
lần đầu tiên vào năm 1937 với mức nhẹ là từ 2,2-3,3mmol/l, vừa là 1,12,2mmol/l, nặng là <1,1mmol/l. Trải qua 70 năm và gần đây sách giáo khoa
đã có nhiều định nghĩa theo các tác giả khác nhau: theo Kalhan và Parimi


8

định nghĩa hạ đường máu là < 2mmol/l, Ogata định nghĩa hạ đường máu là <
2mmol/l, McGowan định nghĩa hạ đường máu là < 2,2-2,5mmol/l [65].
Hiện nay, theo tổ chức y tế thế giới đã thống nhất định nghĩa hạ đường
máu ở trẻ sơ sinh được xác định khi đường máu mao mạch giảm dưới 2,6
mmol/l (< 45mg/dl) [5], [73].
1.1.6. Nguyên nhân hạ đường máu sơ sinh
Nguyên nhân gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh là do dự trữ glycogen và
mỡ rất ít. Tổ chức não lại đã trưởng thành sử dụng nhiều đường nên đường
giảm rất nhanh, chuyển hóa và tiêu thụ oxy cũng tăng trong mọi cơ quan,
trong khi tụy sản xuất insulin nhiều, thượng thận lại phản ứng rất kém,
catecholamine máu lại không tăng nên đường càng giảm trong đó có đồng vận
mạnh về đạm, TSH tăng cao mà năng lượng lại nghèo nên càng dễ bị thiếu
đường. Chính vì vậy những trẻ hạ đường máu có thể bị hạ đường máu tái
phát. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây hạ đường máu ở trẻ sơ sinh đó là
kho dự trữ glycogen không đủ và nồng độ insulin máu quá cao [1], [27]:
- Tăng sử dụng glucose:


+ Trẻ lớn cân so với tuổi thai
+ Mẹ tiểu đường
+ Tăng sản tế bào β tụy, U sản xuất insulin, cường insulin khu trú
hoặc lan tỏa
+ Sơ sinh tăng đáp ứng tạm thời quá mức.
+ Hội chứng Bechwith-Weideman (macrosomia, lưỡi to đầu nhỏ,
thoát vị rốn, hạ đường huyết và lớn tạng đặc).
+ Thuốc dung cho mẹ: chloropamide (diabenese), lợi tiểu thiazide,
beta-giao cảm (terbutalin), thuốc ức chế β (labetalol, propranolol), truyền
dịch ưu trương trong chuyển dạ.
+ Catheter động mạch rốn sai vị trí.


9

+ Ngưng đột ngột dịch truyền đường nồng độ cao.
+ Sau thay máu.
- Giảm sản xuất / tồn trữ:
+ Non tháng.
+ Chậm phát triển trong tử cung (15% hạ đường huyết).
+ Nhập năng lượng không thích hợp.
+ Cho bú trễ sau sinh.
- Tăng sử dụng và / hoặc giảm sản xuất:

+ Stress chu sinh: nhiễm trùng, sốc, ngạt, hạ thân nhiệt, suy hô hấp.
+Rối loạn chuyển hóa carbohydrate: bệnh tồn trữ glycogen, bất dung
nạp fructose, galactosemie.
+ Thiếu nội tiết tố: suy thượng thận, suy vùng dưới đồi, suy tuyến
yên bẩm sinh, thiếu glucagon, thiếu epinephrine.
+ Rối loạn chuyển hóa amino acid.

1.1.7. Các yếu tố nguy cơ hạ đường máu sơ sinh [7], [69].
- Về phía con:
+ Trẻ nhẹ cân, suy dinh dưỡng bào thai < 2500gr
+ Trẻ đẻ non
+ Trẻ già tháng
+ Trẻ > 4000gr
+ Trẻ sinh đôi
+ Trẻ nhiễm trùng
+ Trẻ bị ngạt
+ Trẻ hạ thân nhiệt
+ Trẻ truyền thay máu
+ Trẻ có các bệnh bẩm sinh


10

- Về phía mẹ:
+ Mẹ bị đái tháo đường
+ Mẹ tăng cân quá mức
+ Mẹ sinh mổ có truyền đường
+ Mẹ đẻ thường có truyền đường
+ Mẹ dùng thuốc propranolon, cocain, amphetamin
Trên thực hành lâm sàng AAP cũng đã có hướng dẫn về các yếu tố
nguy cơ của hạ đường máu sơ sinh cũng như các yếu tố giúp tiên lượng nồng
độ glucose cần phải truyền để duy trì nồng độ glucose bình thường trong máu
trẻ sơ sinh giúp tránh các nguy cơ tổn thương não [27].
1.1.8. Phân mức hạ glucose máu sơ sinh
Hạ đường máu sơ sinh nhiều khi là một cấp cứu cần xử trí kịp thời,
những trẻ có nguy cơ hạ đường máu cần phải kiểm tra glucose máu trong 2
giờ đầu mới sinh để có kế hoạch đối phó xử trí kịp thời.

Có thể chia thành 2 mức hạ đường máu như sau:
+ Mức đường máu < 25mg/dl ( 1,1mmol/l)
+ Mức đường máu < 45mg/dl nhưng ≥ 2,5mg/dl [5], [73].
1.1.9. Triệu chứng của hạ đường máu sơ sinh
-

Các biểu hiện của tình trạng tăng catecholamin do hạ đường máu

như xanh tái, vã mồ hôi, cũng như các triệu chứng do ảnh hưởng tim mạch:
tăng nhịp tim, hạ huyết áp, và suy tim [27], [69].
- Triệu chứng của giảm đường tới mô tế bào thần kinh bao gồm ngưng
thở, co giật, hay hôn mê, là những triệu chứng hạ đường huyết rất nặng đòi
hỏi phải điều trị cấp cứu ngay tức thì. Có khoảng 30% trẻ này sẽ có những di
chứng bất thường về hệ thần kinh kể cả chậm phát triển tinh thần rất nặng nề.
Theo nghiên cứu của tác giả Burns và cộng sự năm 2008 nhận thấy có mối
liên quan giữa hạ đường máu có triệu chứng với bất thường não sớm trên


11

MRI tại thời điểm < 6 tuần tuổi và phát triển bất thường thần kinh lúc 18
tháng tuổi [26].
Như vậy triệu chứng của hạ đường huyết thường không đặc hiệu và có
thể đó là biểu hiện của các bệnh lý nhiễm trùng nặng ở trẻ sơ sinh như: Lừ
đừ, giảm cử động, bú kém, hạ thân nhiệt, Kích thích, rung cơ, giảm trương
lực, co giật, ngủ lịm, chậm nhịp tim, ngưng tim, ngưng thở [24], [69].
1.1.10. Điều trị hạ đường máu sơ sinh
Xử trí hạ đường máu theo phác đồ của WHO 2003 [5], [24], [73]:
- Mức đường máu < 25mgldl (1,1 mmol/l):
+ Truyền tĩnh mạch, bơm tĩnh mạch ngay 2ml/kg Glucose 10% trong

5 phút.
+ Nếu chưa lấy được đường tĩnh mạch cho ngay 2ml/kg Glucose 10%
bơm qua ống thông dạ dày.
+ Cho truyền dung dịch Glucose 10% duy trì theo bảng sau:
Bảng 1.1. Tổng lượng sữa hoặc dịch hàng ngày của trẻ từ khi ra đời
Ngày tuổi

1

2

3

4

5

6

7

Sữa hoặc
dịch ml/kg

60

80

100


120

140

150

160

+ Đo đường máu mỗi 30 phút sau khi bơm trực tiếp tĩnh mạch, rồi mỗi
3 giờ:
. Nếu đường máu <25mg/dl, lặp lại liều như trên rồi truyền trong ngày
. Nếu đường máu < 45mg/dl nhưng ≥25mg/dl, tiếp tục truyền đường và
tiếp tục đo đường máu mỗi 3 giờ cho đến khi đường máu ≥ 45mg/dl trên 2 lần
đo đường máu liên tiếp.
+ Cho phép bắt đầu bú mẹ. Nếu trẻ không bú mẹ, vắt sữa bơm qua ống
sonde dạ dày


12

+ Khi trẻ bú tốt, giảm chậm dịch truyền trong 3 ngày đồng thời tăng thể
tích nuôi dưỡng. Không được ngưng dịch truyền đột ngột.
- Nếu mức đường máu < 45mg/dl nhưng ≥ 25mg/dl:
+ Cho bú mẹ, nếu trẻ không bú vắt sữa bơm qua ống sonde dạ dày.
+ Xét nghiệm lại đường máu sau 3 giờ hoặc trước khi cho bé bú.
. Nếu đường máu vẫn < 25mg/dl điều trị giống như trên
. Nếu đường máu vẫn < 45mg/dl nhưng ≥ 25mg/dl tăng số cữ bú hoặc
tích cực vắt sữa cho trẻ
. Nếu đường máu > 45mg/dl ở 2 lần xét nghiệm liên tiếp cho bú và đo
lại đường máu cho đến khi đường máu trở về bình thường [24].

1.2. TỔNG QUAN VỀ SƠ SINH
1.2.1. Thời kỳ bào thai và thời kỳ sơ sinh
Trứng phát triển liên tục suốt trong 37 tuần kể từ khi thụ thai đến khi
được đẻ ra. Trong giai đoạn này sự chuyển hóa của thai dựa trên tuần hoàn
rau xảy ra một cách dễ dàng và tùy thuộc vào chất lượng của rau, sự chuyển
hóa này dựa trên hai loại chất dinh dưỡng chính là glucose và acid amin,
trong đó glucose là loại thức ăn cung cấp năng lượng duy nhất của thai. Nồng
độ glucose máu của thai bằng nồng độ glucose nước não tủy của mẹ, nghĩa là
≥ 50% nồng độ glucose máu của mẹ. Glucose trong thai có nhiệm vụ tạo dự
trữ chất béo và glucose trong quí 3 của quá trình trưởng thành của thai [11].
Thời kỳ sơ sinh [2] là thời kỳ bắt đầu cuộc sống bên ngoài từ lúc
sinh ra đến 4 tuần tuổi. Thường được chia làm 2 giai đoạn đó là giai đoạn
sơ sinh sớm (ngày thứ 0 đến ngày thứ 6 sau sinh), giai đoạn sơ sinh muộn (
từ ngày thứ 7 đến ngày 28 sau sinh).
Có rất nhiều sự việc tác động vào lúc đẻ tạo sự chuyển tiếp hài hòa từ
cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ trong môi trường nước ối trong


13

tử cung sang một cuộc sống độc lập ngoài trời bao la, phóng khoáng. Sự
chuyển tiếp đó có 4 sự kiện cơ bản xảy ra đối với đứa trẻ:
+ Sự thay đổi về hệ thống tuần hoàn
+ Sự thành lập một hệ hô hấp có hiệu lực
+ Thận đảm bảo điều hòa môi trường bên trong cơ thể trẻ
+ Cơ thể trẻ phải tự điều hòa thân nhiệt.
Như vậy, một trẻ sơ sinh muốn tồn tại bằng hoạt động của chính cơ
thể thì cần phải có một sự thích nghi tốt. Để cho giai đoạn chuyển tiếp này
được điều hòa cần phải có các hoạt động: về hô hấp (phổi bắt đầu hoạt
động để tự cung cấp oxy), tuần hoàn (vòng tuần hoàn khép kín thay thế

vòng tuần hoàn nhau - thai), máu (thay HbF của bào thai thành HbA1,
giảm số lượng hồng cầu), tự điều hòa thân nhiệt, tự điều hòa mức đường
máu trong giới hạn bình thường (vào lúc sinh, sự cung cấp dinh dưỡng qua
nhau thai bị gián đoạn đột ngột, để duy trì đường máu phải có sự phân hủy
glycogen ở gan, được thay thế nhanh chóng bằng sữa khi cho bú), cũng
như các bộ phận khác như tiêu hoá, thận, thần kinh... đều chưa hoàn thiện,
nhưng nó biến đổi rất nhanh, đặc biệt trong tuần đầu đời sống [ 11].
1.2.2. Phân loại sơ sinh [2], [70].
Mục đích của phân loại sơ sinh là để có kế hoạch chăm sóc và tầm soát
sớm bệnh lý của từng loại sơ sinh giúp điều trị sớm nhằm hạn chế tử vong sơ
sinh. Từ năm 1963 Luchenco đã phân loại sơ sinh dựa vào cân nặng theo tuổi
thai, tuổi thai được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn sản khoa hoặc dựa vào hình
thái nhi khoa theo Varrier Farr, ngày nay WHO đã dùng phân loại của
Luchenco làm tiêu chí để phân loại sơ sinh.


14

Phân loại sơ sinh của WHO theo tuổi thai và cân nặng
Sơ sinh đủ tháng
37 – < 42 TUẦN

Cân nặng
tương ứng tuổi
thai

Sơ sinh đẻ non
< 37 TUẦN

Sơ sinh gìa tháng

≥ 42 TUẦN

Cân nặng thấp
so tuổi thai

Cân nặng
lớn so tuổi
thai

Sơ đồ 1.1. Phân loại sơ sinh của WHO theo tuổi thai và cân nặng
1.2.2.1. Sơ sinh đủ tháng
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai từ 37 tuần - 41 tuần 6 ngày.
- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:
+ Sơ sinh già tháng cân nặng tương ứng so tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng thấp so tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng lớn so tuổi thai
1.2.2.2. Sơ sinh đẻ non
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai từ < 37 tuần
- Các mức độ đẻ non: Có 3 mức độ đẻ non theo tuổi thai:
+ Loại cực non: SSĐN < 28 tuần
+ Loại rất non: SSĐN 28 - 33 tuần
+ Loại đẻ non: SSĐN > 33 - 37 tuần.
- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành:
+ Sơ sinh đẻ non cân nặng tương ứng tuổi thai < 28 tuần, 28 - 32 tuần


15


+ Sơ sinh đẻ non 33-37 tuần cân nặng tương ứng tuổi thai
+ Sơ sinh đẻ non 33-37 tuần cân nặng thấp hơn so tuổi thai
+ Sơ sinh đẻ non 33-37 tuần cân nặng lớn hơn so tuổi thai
1.2.2.3. Sơ sinh già tháng và/ hoặc rối loạn chức năng nhau
- Tiêu chuẩn chẩn đoán:
+ Tuổi thai ≥ 42 tuần.
+ Và /hoặc Da bong khi miết nhẹ hoặc bong tự nhiên, rốn héo vàng
hoặc xanh thẩm, hoặc móng tay, móng chân dài vàng hoặc xanh.
Bảng 1.2. Phân độ già tháng Cliffort
Độ già tháng

Độ 1

Độ 2

Độ 3

Da bong

Khi miết

Cuống rốn

Héo

Vàng úa

Xanh thẫm phân su

Móng tay

móng chân

Dài

Dài, vàng

Dài, xanh thẫm màu phân su

Bong tự nhiên Bong từng mảng nhiều vị trí

- Dựa vào cân nặng so với tuổi thai có thể phân thành 3 loại:
+ Sơ sinh già tháng cân nặng tương ứng so tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng thấp so tuổi thai
+ Sơ sinh già tháng cân nặng lớn so tuổi thai
1.2.3 Loại sơ sinh và hạ đường máu
1.2.3.1 Loại sơ sinh đủ tháng và hạ đường máu
Hạ đường máu trẻ sơ sinh có thể xảy ra ở mọi tuổi thai vì không đáp
ứng đủ trao đổi chất do sự ngưng đột ngột của việc cung cấp glucose từ mẹ
sau khi sinh, tỷ lệ hạ đường máu là tỉ lệ nghịch với tuổi thai. Trong vòng 12
đến 24 giờ đầu tiên sau khi sinh, nồng độ các enzyme cần thiết cho chuyển
hóa glycogen và ceton tại gan tăng nhanh do đó hạ đường máu thường được
giải quyết [70].


16

Bình thường lượng đường trong máu ở trẻ sơ sinh đủ tháng là cao hơn
so với trẻ sơ sinh đẻ non, tác giả Kumar A đã đưa ra kết luận rằng nồng độ
glucose máu sau sinh ở nhóm trẻ sơ sinh non tháng luôn thấp hơn đáng kể so với
sơ sinh đủ tháng tại các thời điểm 1giờ, 2giờ, 12giờ, 24giờ, 48giờ. Do khả năng

dự trữ glucose dưới dạng glycogen tốt có thể chịu đựng đường máu thấp mà
không có hiệu lực sinh bệnh do sự thích nghi trao đổi chất trong thời gian từ
cuộc sống phụ thuộc trong tử cung đến khi ra ngoài tự lập nên tỉ lệ hạ đường
máu ở nhóm trẻ này thấp hơn ở trẻ sinh non [49].
1.2.3.2. Loại sơ sinh non tháng và hạ đường máu
Trẻ sinh non có nguy cơ lớn phát triển thành hạ đường máu sau khi sinh
bởi vì quá trình phân giải glycogen ở gan và phân giải lipid ở mô mỡ còn non
yếu, dysregulation nội tiết tố, và quá trình tổng hợp glycogen, ceton ở gan còn
thiếu. Nồng độ đường trong máu ở những trẻ sinh non thường giảm xuống
thấp nhất tại thời điểm 1-2 giờ sau khi sinh và vẫn ở mức thấp cho đến khi
con đường trao đổi chất có thể bù đắp được. Tuy nhiên, cơ chế điều hòa
glucose chưa trưởng thành và chỉ có ở những tháng cuối, bởi vậy hạ đường
máu ở loại sơ sinh đẻ non đòi hỏi cần phải truyền glucose và phải điều trị
trong bệnh viện.
Thời kỳ bào thai chức năng dự trữ glucose dưới dạng glycogen chỉ có
sau 35 tuần tuổi thai. Trẻ sinh non trước thời gian đó hầu như không có
glycogen dự trữ dưới 10g% trong khi đó glycogen dự trữ ở trẻ đủ tháng
khoảng 34g%. Lượng glycogen ở gan được đánh giá bằng test glycogen: ở trẻ
sơ sinh đủ tháng chỉ cần tiêm bắp 30µg glucagon chúng ta gây tăng đường
máu trong thời gian dài 12-24 giờ, ở trẻ sinh non phải tiêm 300µg glucagon
trong tuần lễ đầu và 30µg từ tuần thứ hai trở đi mới gây được tăng đường máu
và cũng chỉ trong thời gian ngắn là 12 giờ [11], [10]. Trẻ sinh non sử dụng
glucose rất kém chỉ có 60% và chủ yếu ở các tổ chức ngoài gan, bên cạnh cơ


17

chế điều hòa glucose chưa hoàn chỉnh cùng với đó lượng đường trong máu ở
trẻ sinh non là thấp hơn nên đó cũng là lý do hạ đường máu rất hay xảy ra ở
nhóm trẻ này [70].

Hạ đường máu là một trong những vấn đề phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh,
đặc biệt là ở trẻ sinh non, hạ đường huyết có triệu chứng hoặc không có triệu
chứng có thể đưa ra các biến chứng quan trọng có thể gây tử vong hoặc chậm
phát triển sau này trong đời. Theo Asril Aminullah và cộng sự đã tiến hành
một nghiên cứu cắt ngang từ tháng 09 năm 1999 đến tháng 05 năm 2000 để
xác định các yếu tố liên quan đến hạ đường máu ở trẻ sinh non được điều trị
tại Phòng chu sinh, Bệnh viện Cipto Mangunkusumo, Jakarta. Kết quả có 112
trẻ sơ sinh với tuổi thai trong khoảng 22-37 tuần (trung bình là 33,3 tuần) , và
trọng lượng khoảng 850-2440 gram (trung bình 1801 gam), có 27 trong số
112 trẻ sơ sinh hạ đường huyết, nhóm tác giả cũng đã nhận thấy: cân nặng lúc
sinh, mức độ ngạt, cân nặng nhỏ hơn so tuổi thai (SGA), hội chứng suy hô
hấp, con các bà mẹ truyền tĩnh mạch glucose đều có liên quan đáng kể với hạ
đường huyết ở trẻ sinh non [25].
1.2.3.3. Loại sơ sinh già tháng và hạ đường máu
Vì quá ngày nên thai bị nuôi dưỡng kém do nhau thai bị hủy hoại,
mạch máu rốn bị tắt, tế bào nhau lắng đọng fibrin canxi hóa dẫn đến rối loạn
vận chuyển các chất dinh dưỡng. Lớp mỡ dưới da rất mỏng cân nặng giảm đi,
vì vậy trẻ sinh ra có có hình dạng giống như trẻ chậm phát triển trong tử cung,
đây là nhóm trẻ có nguy cơ cao về các bệnh lý giai đoạn sơ sinh sớm đặt biệt
là giảm glucose máu. Thống kê tỉ lệ chết chu sản nhóm trẻ này cao hơn gấp
đôi so với trẻ đủ tháng và gấp 4 nếu như thai già tháng có cân nặng dưới 2500
gram [10], [11]. Nghiên cứu của tác giả Costello A cũng đã chứng minh được
rằng chỉ số đường máu ở trẻ già tháng luôn thấp hơn so với trẻ đủ tháng [30].


18

1.2.3.4. Loại sơ sinh sơ sinh cân nặng nhỏ hơn so tuổi thai và hạ đường máu
Loại sơ sinh cân nặng nhỏ hơn so tuổi thai nguy cơ hạ đường máu cũng
dễ xảy ra vì trong những ngày đầu năng lượng cung cấp chủ yếu dựa vào các dự

trữ đường, nếu thiếu cơ thể sẽ huy động thêm các dự trữ mỡ vùng bã vai, trung
thất, quanh thận và cuối cùng nếu cần là dự trữ đạm. Ở trẻ sơ sinh cân nặng nhỏ
hơn so tuổi thai kho dự trữ glycogen và acid béo nghèo nàn, sự tân sinh glucose
không hiệu quả, khối hồng cầu tăng, kèm có sự tiêu thụ lớn ở não do tỷ trọng của
não so với trọng lượng của cơ thể lớn trong khi đó glucose là nguồn cung cấp
năng lượng duy nhất cho tổ chức thần kinh và não sử dụng cho quá trình trao
đổi chất [2], [58] và nhiều tác giả cũng không tìm thấy hiện tượng cường
insulin thứ phát ở nhóm sơ sinh này [30]. Tác giả Kumar A và cộng sự đã nhận
thấy rằng 98% hạ đường máu ở trẻ sơ sinh SGA xảy ra trong 24 giờ đầu tiên của
cuộc sống và tác giả cũng đã đưa ra kết luận rằng nồng độ glucose máu sau sinh
ở nhóm trẻ sơ sinh cân nặng thấp cũng như trẻ sơ sinh SGA luôn thấp hơn đáng
kể so với sơ sinh cân nặng bình thường cũng như sơ sinh AGA tại các thời điểm
1 giờ, 2 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ [49]. Theo Ahmad S tác giả cũng đã cho
thấy nồng độ glucose trong máu ở trẻ sơ sinh có cân nặng thấp < 2,5 kg luôn
thấp hơn đáng kể so với nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng > 2,5 kg [20].
1.2.3.5. Loại sơ sinh cân nặng lớn hơn so tuổi thai và hạ đường máu
Bài tiết insulin là một yếu tố chính quyết định đến môi trường tồn tại của
thai. Sự đáp ứng bài tiết insulin chậm sau ăn và bài tiết insulin không đủ lúc đói
dẫn đến hậu quả tăng đường máu kéo dài và tăng lượng glucose tới thai. insulin
trong huyết thanh người mẹ ảnh hưởng lớn tới nguồn năng lượng nội sinh, đặc
biệt là ceton qua rau thai dễ dàng và đây là nguồn cung cấp năng lượng đáng kể
cho thai. Sự hình thành và hoạt động sớm của tiểu đảo tụy nội tiết của thai có
ảnh hưởng lớn đến tới mối quan hệ qua lại giữa nguồn năng lượng mẹ và con.
Tăng cung cấp năng lượng từ mẹ làm tăng tiết insulin của thai, lượng insulin


19

thêm này làm tăng quá trình giữ các chất dinh dưỡng do mẹ cung cấp [10],
[12]. Hậu quả là thai to gây các biến chứng chuyển hóa hay gặp nhất là hạ

đường máu sơ sinh trong những ngày đầu sau đẻ. Nghiên cứu của Akin Y và
cộng sự trên nhóm trẻ sơ sinh quá dưỡng có cân nặng > 4 kg và nhóm trẻ sơ
sinh có cân nặng từ 2,5 kg – 4 kg cho thấy hạ đường máu xảy ra nhiều hơn
cũng như các bệnh lý giai đoạn sơ sinh sớm như ngạt, đa hồng cầu ở nhóm trẻ
sơ sinh quá dưỡng [21].
1.3 TỔNG QUAN CÁC BỆNH LÝ THƯỜNG GẶP GIAI ĐOẠN SƠ
SINH SỚM
1.3.1. Ngạt sơ sinh
Có khoảng xấp xỉ 10% trẻ khi sinh ra cần phải được hỗ trợ hô hấp ngay
sau khi sinh để giúp trẻ có được nhịp thở đầu tiên. Khoảng 1% trẻ cần phải
hồi sức tích cực hơn bao gồm cả thông khí áp lực dương. Ngạt sơ sinh là yếu
tố quan trọng cần phải được dự đoán trước, can thiệp nhanh và hiệu quả nhằm
lặp lại nhịp thở bình thường cho trẻ ngay sau sinh. Ngạt sau sinh là một trong
những yếu tố quan trọng góp phần làm tỷ lệ tử vong chu sinh ngày càng tăng.
Theo nghiên cứu của Ersdal HL và cộng sự về nguyên nhân tử vong trong 24
giờ đầu tiên sau đẻ tại một bệnh viện ở Tanzania, tác giả đã nhận thấy lên đến
61% nguyên nhân tử vong trong 24 giờ đầu tiên là do ngạt sau sinh [35]. Như
vậy một trẻ sơ sinh sinh ra cần phải đánh giá xem rằng trẻ ngay sau đẻ có cần
phải hồi sức hay không, về phương diện lâm sàng việc đánh giá nhanh 4 điểm
sau rất cần thiết :
- Trẻ có đủ tháng hay không ?
- Nước ối không có phân su ?
- Trẻ có thở tốt không ?
- Trương lực cơ có tốt không ?


20

Nếu tất cả 4 điểm trên đều có nghĩaứng tỏ là một trẻ sinh ra đủ tháng, nước
ối không có phân su, thở tốt, và trương lực cơ tốt, thì trẻ không cần phải hồi sức và

không cần phải tách mẹ, các trẻ này chỉ cần được chăm sóc thường qui. Như vậy
trẻ sơ sinh được chẩn đoán là ngạt nếu sau khi sinh không thở cần phải thực hiện
các bước hồi sức. Bảng chỉ số Apgar được đánh giá trong 1 phút và 5 phút đầu
tiên hiện nay dù nó không còn quyết định để đánh giá trẻ có cần phải hồi sức sau
đẻ hay không nhưng nó rất có ích trong đánh giá quá trình hồi sức [7].
Trên thực hành lâm sàng việc đánh giá mức độ nặng của ngạt là rất cần
thiết nó không chỉ giúp cho vấn đề điều trị mà còn giúp cho vấn đề tiên lượng.
Sarnat đã phân độ nặng của ngạt ra làm ba mức độ:
-Ngạt nhẹ: nếu có triệu chứng lâm sàng sau khi đã hồi sức: tăng kích
thích, tăng trương lực cơ, bú kém, nhịp thở nhanh hoặc bình thường. Những
triệu chứng này kéo dài 24- 48giờ sau đó thoái triển một cách tự phát .
- Ngạt trung bình: trẻ kém linh hoạt và bú kém, có những cơn ngừng
thở hoặc co giật trong vài ngày. Triệu chứng thoái triển trong vòng 1 tuần
nhưng có thể có triệu chứng thần kinh sau này.
- Ngạt nặng: mất ý thức, hôn mê, co giật vài ngày, ngừng thở kéo dài
thường xuất hiện. Cải thiện sau nhiều tuần hoặc hoàn toàn không cải thiện.
Nếu trẻ sống thường để lai di chứng thần kinh nặng nề [2].
1.3.2 Nhiễm trùng sơ sinh sớm
Trẻ sơ sinh rất dễ bị nhiễm trùng sơ sinh (NTSS) do sức đề kháng của
cơ thể còn yếu, 1% trẻ sơ sinh sinh ra bị nhiễm trùng, trong số trẻ sinh ra nhập
viện tại phòng hồi sức sơ sinh có 15% trẻ bị nhiễm trùng sơ sinh. Nghiên cứu
tại khoa sản bệnh viện TW Huế (2003) tỷ lệ NTSS sớm là 5,35%, nghiên cứu
tại khoa sản BV Đại học Y Huế (2003-2006) là 5%-12% [14]. Nhiễm trùng sơ
sinh sớm vi khuẩn truyền từ mẹ sang thai là một bệnh lý phổ biến nhất trong
mô hình bệnh tật giai đoạn sơ sinh sớm. Trẻ sơ sinh rất dễ bị nhiễm trùng là do


21

sức đề kháng cơ thể yếu vì da trẻ non yếu, PH da kiềm, niêm mạc đường tiêu

hóa dễ thấm, số lượng thực bào giảm và ít hiệu quả, dễ bị nhiễm trùng máu
trước khi sinh, có thể bị lây nhiễm trong khi sinh, miễn dịch tế bào yếu vào lúc
sinh vì IgG được truyền từ mẹ và IgM không được truyền từ mẹ qua thai.
Triệu chứng lâm sàng của NTSS rất đa dạng, không điển hình, không
đặc hiệu bao gồm: triệu chứng thay đổi thân nhiệt (thân nhiệt có thể tăng, bình
thường hoặc hạ, hạ thân nhiệt hay gặp ở trẻ sinh non, sự chênh lệch nhiệt độ
hơn 3,5°C giữa nhiệt độ hậu môn và nhiệt độ lòng bàn tay cũng là dấu hiệu
của nhiễm trùng. Triệu chứng hô hấp ( gồm các dấu hiệu như thở nhanh > 60
lần/phút, co lõm ngực, thở rên, cơn ngưng thở, thở chậm > 30 lần/phút, ngưng
thở là biểu hiện chậm của nhiễm trùng. Triệu chứng tuần hoàn (nhịp tim
nhanh, kém tưới máu ngoại biên là dấu hiệu nhạy của nhiễm trùng huyết).
Triệu chứng tiêu hóa (bú kém, chướng bụng, nôn ói, tiêu chảy thường là dấu
hiệu sớm của nhiễm trùng huyết, gan to, lách to ít gặp). Triệu chứng thần kinh
(kém thức tỉnh, kém vận động). Vàng da là dấu hiệu lâm sàng thường thấy nhất,
có thể xuất hiện từ từ hay đột ngột, gặp trong 1/3 trường hợp nhiễm trùng huyết,
triệu chứng vàng da giảm khi tình trạng nhiễm trùng cải thiện [2], [12].
1.3.3. Vàng da tăng bilirubin tự do
Vàng da tăng bilirubin tự do chiếm 25-50% ở trẻ đủ tháng và cao hơn ở
trẻ non tháng. Vàng da bệnh lý đôi khi khó phân biệt với vàng da sinh lý vì ở
một số trẻ có yếu tố nguy cơ và/ hoặc đẻ non với một nồng độ bilirubin dẫu ở
mức sinh lý vẫn có thể gây vàng da nhân. Những yếu tố nguy cơ làm vàng da
sinh lý có thể chuyển thành bệnh lý như hạ đường máu, hạ thân nhiệt, giảm
oxy sau sinh, khối máu tụ do sang chấn lúc sinh.
Trên thực hành lâm sàng vàng da ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể mà xuất
hiện ngày đầu tiên hoặc vàng da lòng bàn tay, bàn chân xuất hiện ngày thứ 2
là vàng da nặng cần phải điều trị chiếu đèn ngay không phải đợi kết quả xét


22


nghiệm bilirubin máu. Ánh sáng liệu pháp nên được can thiệp sớm hay muộn
là tùy thuộc theo tuổi thai, ngày tuổi, cân nặng, bệnh lý và kết quả đo được
bilirubin trong máu [2].
1.3.4. Suy hô hấp không do nhiễm trùng
Suy hô hấp không nhiễm trùng là những trường hợp suy hô hấp không
nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng. Suy hô hấp không nhiễm trùng thường gặp
trong bệnh cảnh trẻ sơ sinh đẻ non bị bệnh màng trong, bị hội chứng hít phân
su ở trẻ sơ sinh đủ tháng, trẻ sơ sinh già tháng cũng như trẻ sơ sinh SGA. Hội
chứng suy hô hấp cấp là sự rối loạn khả năng trao đổi khí giữa phế nang và
mao mạch dẫn đến giảm O2 và tăng CO2 trong máu động mạch. Suy hô hấp
sơ sinh là một hội chứng rất hay gặp trong thời kỳ sơ sinh đặc biệt là trẻ sơ
sinh đẻ non. Tại Mỹ trong năm 2003 có 0,6% trẻ sơ sinh có suy hô hấp, tỷ lệ
tử vong do suy hô hấp giảm đáng kể từ 25000 trường hợp trong năm 1960
xuống còn 860 trường hợp trong năm 2005 [64]. Tử vong do suy hô hấp đứng
hàng đầu của tử vong sơ sinh. Nghiên cứu tại Mỹ, mỗi năm tử vong do suy hô
hấp chiếm 20% tử vong chung ở trẻ sơ sinh.
Hội chứng suy hô hấp: sẽ có triệu chứng khó thở biểu hiện bằng: rút
lõm, thở rên thường kèm ngưng thở. Tình trạng trẻ sẽ nặng hơn trong suốt 2
ngày đầu, cầm chừng trong ngày thứ 3, bắt đầu cải thiện từ ngày thứ 4 đến
ngày thứ 7. Hội chứng suy hô hấp không nhiễm trùng thường điển hình ở trẻ
sơ sinh đẻ non, ngăn chặn sinh non gần như giảm hẳn suy hô hấp ở trẻ sơ
sinh, một số nguyên nhân sinh non có thể phòng ngừa được bằng vấn đề quản
lý thai nghén tốt trước sinh cũng như vấn đề điều trị sớm corticoid cho những
thai nghén có nguy cơ sinh non [2], [3].
1.3.5. Hội chứng đa hồng cầu sơ sinh (cô đặc máu)
Đa hồng cầu được định nghĩa là HCT > 65%, hoặc Hemoglobin > 22
g/dl, đa hồng cầu đặc trưng bởi sự tăng quá mức của các tế bào hồng cầu


23


trong máu nguyên nhân do tăng khối máu thứ phát vì thiếu oxy trong tử cung
hoặc do hội chứng thai cho máu nhận máu trong song thai, đa hồng cầu có
liên quan đến nhiều bệnh khác nhau là do hậu quả của tăng độ nhớt máu, hình
thành nên các micro huyết khối ảnh hưởng đến nhiều cơ quan đặc biệt là ruột,
não, thận, thượng thận. Những trẻ sơ sinh già tháng > 42 tuần, trẻ sơ sinh
chậm phát triển trong tử cung, trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn so tuổi thai, trẻ
song sinh, trẻ sơ sinh con của các bà mẹ đái tháo đường và cả những trẻ sơ
sinh bất thường nhiễm sắc thể đều dễ bị đa hồng cầu [43]. Đa hồng cầu làm
tăng độ nhớt của máu và cản trở lưu lượng máu đến các cơ quan gây ra nhiều
biến chứng nặng nề thậm chí có thể tử vong, có 15-20% trẻ đẻ yếu bị đa hồng
cầu kết hợp với Erythroblast (>2000/mm³) tình trạng này dẫn đến hạ đường
máu và tăng độ quánh của máu.
Triệu chứng lâm sàng của đa hồng cầu như là da đỏ ửng, đây là dấu
hiệu thường gặp nhất và cũng là dấu hiệu giúp các nhà lâm sàng chẩn đoán
sớm can thiệp đúng, kịp thời. Ngoài ra các dấu hiệu khác như là triệu chứng
hô hấp, tim mạch (thở nhanh, suy hô hấp, ngưng thở , tím tái, suy tim), triệu
chứng thần kinh (lừ đừ, kích thích, bú kém, co giật), các triệu chứng khác
(vàng da, hạ đường máu, viêm ruột hoại tử…). Như vậy triệu chứng lâm sàng
của bệnh lý đa hồng cầu thường nhầm lẫn với triệu chứng các bệnh lý khác
như thiếu khí não, NTSS sớm... vấn đề điều trị các bệnh lý giai đoạn sơ sinh
là theo nguyên nhân và theo cơ chế bệnh sinh. Điều trị đa hồng cầu là thay
máu một phần nhằm loại bỏ bớt thể tích máu thay bằng dung dịch để pha loãng
bớt nồng độ do đó nếu không có kế hoạch chủ động tầm soát bệnh trên lâm sàng
sẽ dẫn đến xử trí và điều trị sai lầm, làm bệnh nặng gây tử vong hoặc nếu sống
được có thể để lại di chứng thần kinh nặng nề cho trẻ sau này [2]. Theo tác giả
Jeevasanka M tỷ lệ đa hồng cầu chiếm 1,5 - 4% trường hợp trẻ sinh ra, tỷ lệ này
tăng lên đến 15% ở trẻ sơ sinh SGA so với 2% trẻ sơ sinh AGA [43].



24

1.4. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ HẠ ĐƯỜNG MÁU VÀ MỘT SỐ YẾU
TỐ NGUY CƠ TRONG GIAI ĐOẠN SƠ SINH SỚM TRONG VÀ
NGOÀI NƯỚC
1.4.1. Các nghiên cứu đã thực hiện trong nước
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kiều Nhi tại
Bệnh Viện TW Huế (2004) cho kết quả tỷ lệ hạ đường máu ở nhóm trẻ sơ
sinh bệnh lý giai đoạn sơ sinh sớm là 10,8 % [13].
Theo Lê Thị Hồng Huệ (2001) nghiên cứu tình trạng hạ glucose máu ở
trẻ có cân nặng thấp tại khoa nhi sơ sinh tại bệnh viện Nhi Trung Ương kết
quả hạ đường máu chiếm tỷ lệ 40,5% trong đó có hơn 2/3 trường hợp hạ
đường máu xảy ra trong 24 giờ đầu của đời sống [9].
Theo Lê Thị Hồng nghiên cứu trên 64 trẻ sơ sinh có cân nặng thấp so
với tuổi thai tại khoa nhi Bệnh Viện TW Huế (2003) cho kết quả 24,19%
trong đó tỷ lệ hạ đường máu ở nhóm trẻ sơ sinh non tháng là 46,67% [8].
Theo Đặng Phúc Sơn (2006) nghiên cứu hạ đường máu ở trẻ từ 0 - 5
tuổi nhận thấy tỷ lệ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh đẻ non là 53,49%, nhiễm
trùng sơ sinh 32,55%, ngạt 2,33% [18].
Theo Nguyễn Công Cảnh (2004) nghiên cứu hạ đường máu ở trẻ sơ
sinh cân nặng thấp < 2,5 kg, tỷ lệ hạ đường máu ở trẻ sơ sinh thấp cân lên đến
35,7%, trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng bào thai chiếm 64,1% [6].
Theo Lê Vũ Phong (2010) trên tất cả trẻ sơ sinh đẻ ra tại bệnh viện
trường Đại học Y Dược Huế không khỏe được chuyển lên khoa Nhi từ 0 - 6
ngày tuổi thì thấy tỷ lệ hạ đường máu sơ sinh là 19%, sơ sinh suy dinh dưỡng
bào thai là 41,7%, sơ sinh đẻ non là 36,59%, sơ sinh già tháng 19,78%, sơ
sinh đủ tháng là 10,42% [16].
1.4.2.Các nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới
Trên thế giới có nhiều đề tài nghiên cứu về hạ đường máu ở trẻ sơ sinh.



25

Nghiên cứu của Meiji A và cộng sự nghiên cứu hạ đường máu trong 36
giờ đầu tiên của cuộc sống trên trẻ sơ sinh đủ tháng cân nặng thấp tại một
bệnh viện ở Quebec từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 6 năm 2006 nhận thấy tỷ
lệ hạ đường máu là 26% [55].
Nghiên cứu của Croke J, nghiên cứu trên trẻ sơ sinh đủ tháng có cân
nặng lớn hơn so với tuổi thai và nhỏ hơn so với tuổi thai có 36% là SGA và
64% là LGA trong đó tác giả đã ghi nhận được có 26% trẻ sơ sinh đủ tháng
SGA bị hạ đường máu và 17% trẻ sơ sinh đủ tháng LGA có nồng độ thấp hơn
2,6 mmol/l [28].
Nghiên cứu của Opara PI và cộng sự cho thấy tỉ lệ mắc và tử vong sơ
sinh ở các bà mẹ bị tiểu đường tại một đơn vị chăm sóc trẻ đặc biệt ở Port
Harcourt , Nigeria cho thấy trẻ sơ sinh sinh ra từ mẹ mắc bệnh tiểu đường có
một số điểm khác biệt bao gồm thai to và tỉ lệ mắc bệnh lý sơ sinh cao, tử
vong sơ sinh cao gấp 5 lần và cao hơn ở tất cả các tuổi thai [60].
Nghiên cứu của Hirst JE và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu thuần
tập tương lai tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ đái tháo đường trên
phụ nữ có thai là 6,1% còn rối loạn dung nạp glucose là 20,3% và tương ứng
nguy cơ hạ đường máu sơ sinh lên đến 4,94 lần so với 3,34 lần [38].
Nghiên cứu của Al-Khalifah R và cộng sự về hạ đường máu sơ sinh
tiến hành trên hai nhóm có mẹ bị đái tháo đường và nhóm có mẹ không bị đái
tháo đường thấy nhóm có mẹ đái tháo đường có nguy cơ hạ đường máu gấp
3,19 lần và cần phải nhập viện cấp cứu [22], cũng như nghiên cứu của Chang
AL trên trẻ sơ sinh con của nhóm bà mẹ bị đái tháo đường và con của bà mẹ
không bị đái tháo đường nhận thấy tỷ lệ hạ đường máu sơ sinh tương ứng là
49% so với 20% [29].



×