Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

BÀI GIẢNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG DUY vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.61 KB, 42 trang )

BÀI GIẢNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN BIỆN CHỨNG DUY VẬT
(LÔ GÍCH BIỆN CHỨNG)
Người biên soạn: PGS.TS Trần Ngọc Linh
A. MỞ ĐẦU
I. Lịch sử hình thành và phát triển, đối tượng nghiên cứu của lô gích
học biện chứng.
Từ thời cổ đại Hy Lạp, đã hình thành một “Khoa học về tư duy” (lô gích
học).Trong tiếng Hy Lạp “Khoa học tư duy” được thể hiện bằng thuật ngữ logike.
Người đầu tiên có vai trò to lớn trong việc hình thành lô gich học với tính
cách là một khoa học về tư duy là Aristote (384-322 TCN), người Hy Lạp.
Theo Aristote, lô gích học là công cụ giúp chúng ta tư duy đúng đắn, mạch
lạc, là khoa học nghiên cứu những quy luật và hình thức của tư duynhằm hướng
nhận thức con người đạt tới chân lý.
Quan niệm này tồn tại suốt hơn 20 thế kỷ, lô gích học truyền thống (lô gích
hình thức, công thức lô gích, công thức và quy tắc tư duy) đến nay vẫn đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển của tư duy khoa học.
Cũng như mọi khoa học khác, lô gích học luôn luôn được bổ sung và phát
triển. Nhưng bản thân lô gích truyền thống có những hạn chế của nó, thể hiện ở
chỗ lô gích truyền thống chỉ xem xét các hình thức của tư duy trong sự cô lập,
không vận động, phát triển.
Để nghiên cứu, xem xét thế giới vật chất trong sự vận động, biến đổi không
ngừng, trong những mối liên hệ mật thiết không thể tách rời giữa các yếu tố cấu
thành lên nó, đúng như nó vốn có, ngoài lô gích hình thức cần phải bổ sung có một
công cụ thích hợp hơn, khắc phục được những hạn chế của lô gích hình thức. Đó là
lô gích biện chứng. Lô gích biện chứng nghiên cứu những quy luật, những hình
thức của tư duy trên lập trường, nguyên tắc duy vật biện chứng
1


Lô gích biện chứng sẽ cùng với lô gích hình thức (lô gích truyền thống)giúp
cho con người nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực khách quan một cách đúng


đắn hơn, chính xác hơn.
Người đầu tiên nghiên cứu lô gích học biện chứng một cách toàn diện, có hệ
thống là nhà triết học duy tâm vĩ đạiGeorg Wilhelm Friedrich Hegel1.
Hegel cho rằng, tư duy của con người phải đi theo lô gích nội tại của chính
thực tại, nghĩa là phải đồng nhất lý tính với thực tại; lô gích và các quan hệ lô gích
phải được thể hiện trong cái hiện thực chứ không phải trong cái suy luận trống
rỗng, bởi vì triết học là sự khám phá cái có lý, nó là sự thấu triệt cái hiện tại và cái
hiện thực, chứ không phải là tạo ra một cái gì đó siêu việt (siêu thực), giả định là
đang tồn tại mà chẳng ai biết là đó đang ở đâu.
Theo Hegel, lô gích học là tiến trình mà qua đó chúng ta diễn dịch từ các
kinh nghiệm của chúng ta về cái hiện thực những phạm trù mô tả về (ý niệm) tuyệt
đối.Tiến trình này chính là tâm điểm của triết học biện chứng của Hegel.
Quan niệm biện chứng về tư duy của Hegel chỉ ra một chuyển động ba giai
đoạn (tam đoạn thức), đi từ chính đề (thesis) sang phản đề (antithesis) rồi kết thúc
ở hợp đề (synthesis). Nhưng hợp đề này lại trở thành một chính đề (thesis) mới và
1

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (phát âm: [ˈgeɔʁk ˈvɪlhɛlm ˈfʁiːdʁɪç ˈhegəl]; 27 tháng 8 năm 1770 - 14 tháng 11 năm
1831) là một nhà triết học người Đức, cùng với Johann Gottlieb Fichte và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Hegel
được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức.
Hegel là người có ảnh hưởng tới vô số các nhân vật, bao gồm cả những người hâm mộ ông (Bauer, Marx, Bradley,
Sartre, Küng) lẫn những người nói xấu ông (Schelling, Kierkegaard, Schopenhauer, Nietzsche, Heidegger, Russell).
Ông bàn luận về mối quan hệ giữa tự nhiên và tự do, tính nội tại và sự siêu nghiệm, về sự thống nhất của hai mặt
mà không phải loại trừ hay giảm bớt thái cực nào. Những khái niệm có tầm ảnh hưởng của ông là về logic phân
tích, biện chứng, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối, tinh thần, biện chứng về "ông chủ/nô lệ", về cuộc sống đạo đức và
tầm quan trọng của lịch sử. Hegel bị kết tội là cha đẻ của chủ nghĩa phát xít, dù nhiều người ủng hộ ông lại không
đồng ý với nguyên tắc này.
Dù thế nào đi nữa thì Hegel vẫn là người có công lớn trong việc phát triển triết học thế giới vì ông là người đầu tiên
sử dụng phép biện chứng một cách có hệ thống, chính nhờ vào phép biện chứng của Hegel và sự kết hợp một cách
hữu cơ với thế giới quan duy vật mà Marx đã có những thành công rực rỡ trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa xã

hội khoa học, là hạt nhân của chủ nghĩa Marx-Lenin ngày nay.
Công trình Bách khoa thư các khoa học triết học I – Khoa học lô gích (Logik der enzyklop die) nằm trong
bộ Hiện tượng luận về trí tuệ được C.Mác đánh giá như là “cái nôi thật và bí ẩn của triết lý Hegel”

2


một chuyển động ba giai đoạn mới lại bắt đầu.Cứ như thế cho đến khi quá trình tư
duy kết thúc ở “Ý niệm tuyệt đối”.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã xây dựng được một
lý luận biện chứng với tư cách là lô gích học và phương pháp luận.Đồng thời, ông
đã kết hợp phương pháp biện chứng với lô gích học thành một quan niệm thống
nhất về lô gích biện chứng.
Hegel nhấn mạnh rằng, trong lô gích học biện chứng của ông tư duy luôn
vận động, mâu thuẫn trong tư duy không làm cho quá trình tư duy dừng lại, mà có
tác động như một động lực tích cực trong việc suy lý của con người.
Phương pháp biện chứng là linh hồn của lô gích học biện chứng.Tuy nhiên,
phương pháp biện chứng cũng như lô gích học biện chứng của Hegel có một hạn
chế cơ bản là chúng được xây dựng trên cơ sở lập trường duy tâm.
C.Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lê nin đã kế thừa hạt nhân hợp lý và khắc phục
những yếu tố duy tâm trong học thuyết biện chứng của Hegel và xây dựng nên học
thuyết về phương pháp biện chứng và lô gích học biện chứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Từ đó có thể định nghĩa một cách chính xác hơn, nói rõ hơn về đối tượng
nghiên cứu của lô gích học biện chứng:“Lô gích học biện chứng là khoa học về
những quy luật và hình thức tư duy phản ánh sự vận động, biến đổi và phát
triển của thế giới hiện thực khách quan, về những quy luật của quá trình nhận
thức chân lý”.
Cũng có thể hiểu lô gích học biện chứng với ý nghĩa là một học thuyết về
phương pháp nhận thức khoa học và cải tạo thế giới trên lập trường của chủ

nghĩa duy vật biện chứng.
II/ Nhiệm vụ của lô gích học biện chứng.
Với đối tượng nghiên cứu của lô gích học biện chứng được xác định như
trên, có thể nêu lên những nhiệm vụ cơ bản của lô gích học biện chứng như sau:
3


- Một là, lô gích học biện chứng nghiên cứu sự cần thiết, cách thức thể hiện
sự vận động, phát triển, những mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, những
biến đổi về chất hay sự chuyển hóa lẫn nhau của chúng. Đây chính là nhiệm vụ
trung tâm của lô gích học biện chứng.Với nhiệm vụ này, lô gích học biện chứng
đóng vai trò là một bộ phận hợp thành của triết học duy vật biện chứng.
- Hai là, lô gích học biện chứng nghiên cứu bản chất biện chứng của các
phạm trù lô gích, tính linh hoạt, tính mềm dẻo của chúng…Phương pháp biện
chứng cũng chính là một học thuyết lô gích, vì chúng nghiên cứu chức năng nhận
thức, là lô gích của những quy luật phổ biến và những phạm trù của sự vận động và
phát triển.
- Ba là,lô gích học biện chứng nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển
của bản thân quá trình nhận thức. Lô gích học biện chứng được xây dựng trên cơ
sở lịch sử quá trình nhận thức.Đó là lịch sử phát triển khái quát của tư duy, của lịch
sử thực tiễn xã hội loài người.
Nói một cách khái quát, lô gích học biện chứng là cơ sở lô gích chung mà
dựa vào đó người ta có thể và cần phải giải thích tất cả những lý luận lô gích riêng
biệt và cụ thể, giải thích ý nghĩa và vai trò của những lý luận ấy2.
III/ Mối quan hệ giữa lô gích học hình thức và lô gích học biện chứng.
Lô gích học hình thức và lô gích học biện chứng là hai môn khoa học đều
nghiên cứu tư duy phản ánh thế giới hiện thực khách quan.Tuy nhiên, chúng khác
nhau về đối tượng, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu.
- Lô gích học hình thức nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy
nhằm bảo đảm tính đúng đắn, chặt chẽ và nhất quán trong suốt quá trình tư duy. Lô

gích học hình thức quan tâm chủ yếu đến hình thứctrong khi trừu tượng hóa nội
dungcủa tư duy.

2

Xem Từ điển Triết học, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1986, tr.322-323.

4


Lô gích học biện chứng cũng nghiên cứu các quy luật của tư duy nhưng
quan tâm chủ yếu đến tính biện chứng của nội dung tư duy. Có thể gọi đó là lô gích
nội dung.
- Lô gích học hình thức xem xét quá trình tư duy qua việc phản ánh sự vật
trong trạng thái tách rời, cô lập, đứng im tương đối, ổn định tạm thời. Vì thế lô
gích học hình thức dựa trên cơ sở tính đồng nhất, trừu tượng của các khái niệm,
phạm trù cố định.
Lô gích học biện chứng lại xem xét quá trình tư duy qua sự phản ánh sự vật
hiện tượng trong mối liên hệ, trong trạng thái mâu thuẫn, vận động, chuyển hóa và
phát triển. Do đó, lô gích học biện chứng dựa trên cơ sở của tính đồng nhất, cụ thể
của các phạm trù biến đổi. Lô gích học biện chứng phản ánh sinh động hiện thực
khách quan. Lê nin viết về điều này như sau: “Những quan hệ ( = chuyển hóa =
mâu thuẫn ) của những khái niệm = nội dung chủ yếu của lô gích, hơn nữa những
khái niệm ấy ( và những quan hệ, chuyển hóa và mâu thuẫn của chúng ) đều được
trình bày như là những phản ánh của thế giới khách quan”3.
- Lô gích học hình thức xem xét hình thức và quy luật của tư duy không tính
đến điều kiện lịch sử,, văn hóa, xã hội …
Lô gích học biện chứng xem xét hình thức và quy luật của tư duy theo
nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thế. Lô gích học biện
chứng coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.

- Lô gích biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật biện chứng của
tư duy nhằm phản ánh đúng đắn biện chứng khách quan của sự vật. Tư duy và các
hình thức của tư duy của con người có tính biện chứng vì chúng vận động, phát
triển, liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau tuân theo các quy luật biện chứng.
Theo nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, biện chứng của tư duy
(biện chứng chủ quan) là sự phản ánh biện chứng khách quan của sự vật.
3

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.1981,t.29, tr.209

5


Lê nin nhiều lần nhấn mạnh rằng, có sự thống nhất (đồng nhất, phù hợp) của
phương pháp biện chứng duy vật, lý luận nhận thức và lô gích học. Điều đó có
nghĩa là nói đến lô gích biện chứng cũng có nghĩa là nói đến phương pháp biện
chứng duy vật, nói đến lý luận nhận thức.Sự thống nhất giữa chúng dựa trên cơ sở
thống nhất giữa quy luật tồn tại và quy luật tư duy.
- Lô gích biện chứng nghiên cứu các khái niệm, phạm trù không phải trong
trạng thái cô lập, tách rời, bất biến mà trong sự vận động, phát triển, trong mâu
thuẫn của chúng, trong sự liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau của chúng.
- Lô gích hình thức đặt các hình thức tư duy ở ngoài sự vận động, phát triển
của chúng, cái nọ bên cạnh cái kia, thiếu nguyên tắc thực tiễn và nguyên tắc lịch sử
- cụ thể. Trái lại, lô gích biện chứng suy từ hình thức tư duy này ra hình thức tư
duy khác, phát triển từ hình thức tư duy thấp lên hình thức duy cao, xác định mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng, đồng thời quan tâm đến tính lịch sử - cụ thể
của tư duy, đến thực tiễn nhằm phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực khách quan.
- Lô gích học biện chứng là một bước phát triển của tư duy. Nó không hề thủ
tiêu, phủ nhận lô gích học hình thức, mà trái lại lô gích học biện chứng cho phép
xác định vị trí quan trọng cua lô gích học hình thức và sự cần thiết của lô gích học

hình thức trong nghiên cứu khoa học cũng như trong cuộc sống.
B. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LÔ GÍCH HỌC BIỆN CHỨNG
I/ Nguyên tắc và quy luật.
- Quy luật là những mối liên hệ bản chất, ổn định, được lặp đi lặp lại giữa
các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Nguyên tắc là những điều cơ bản được định ra buộc chủ thể phải tuân theo
trong quá trình nhận thức hoặc hành động nhằm đạt được mục đích nào đó.
- Khái niệm nguyên tắc và khái niệm quy luật có quan hệ hữu cơ với nhau và
giữa chúng có nhiều điểm chung.
6


- Nguyên tắc và quy luật đều phản ánh hiện thực khách quan. Nhưng sự
phản ánh hiện thực khách quan của nguyên tắc và quy luật có nhiều điểm khác
nhau.
- Quy luật phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng khái quát.
- Nguyên tắc phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng những yêu cầu, đòi
hỏi chủ thể nhận thức, hành động theo những chuẩn mực nhất định được quy định
bởi những quy luật khách quan.
II/ Một số nguyên tắc của lô gích học biện chứng.
Trên cơ sở những quy luật và phạm trù của phương pháp biện chứng duy
vật, lô gích biện chứng rút ra những yêu cầu cơ bản với tính cách là những nguyên
tắc phương pháp luận cơ bản định hướng cho chủ thể trong nhận thức và hành
động.
Lô gích biện chứng gồm những nguyên tắc sau (5 nguyên tắc): Nguyên tắc
khách quan, Nguyên tắc toàn diện, Nguyên tắc phát triển, Nguyên tắc thực tiễn,
Nguyên tắc chân lý và cụ thể.
1. Nguyên tắc khách quan.
1.1. Nội dung nguyên tắc khách quan.
“Mọi nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan,

tôn trọng khách quan, đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan”
Có thể nói, nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên, là xuất phát điểm
của lô gích học biện chứng.
Nguyên tắc này nhằm bảo đảm tính khách quan trong quá trình phản ánh,
bảo đảm sự phù hợp giữa tư duy với bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới
khách quan.
Nguyên tắc này đòi hỏi, trong cuộc sống, khi đề ra một kế hoạch hành
động nào đó (trong lĩnh vực nhận thức hoặc trong lĩnh vực thực tiễn) chúng ta
luôn luôn phải xuất phát từ tình hình thực tế khách quan, phải tôn trọng và làm
7


theo quy luật khách quan. Không bao giờ được xuất phát từ ý muốn, tình cảm,
nguyện vọng, ý chí chủ quan. Đồng thời cần phát huy tính năng động chủ quan
trong quá trình tìm ra kế hoạch hành động, phương tiện và các biện pháp hành
động thích hợp, có hiệu quả cao, đạt được một cách tốt nhất mục tiêu của kế hoạch
hành động.
1.2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan.
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan là nguyên lý về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức.
1.2.2. Nội dung nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức.
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, xét đến cùng thì vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức, ý thức phụ
thuộc vào vật chất.
Tuy nhiên, ý thức không phụ thuộc một cách bị động tuyệt đối vào vật chất,
mà nó có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với vật chất. Tính độc lập
tương đối đó thể hiện ở chỗ, ý thức sau khi đã hình thành, thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, có tác động trở lại thế giới vật chất.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng không tuyệt đối hóa sự đối lập giữa

vật chất và ý thức, mà chỉ ra sự đối lập giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt
đối, vừa có tính tuyệt đối.Tuyệt đối là ở chỗ, suy đến cùng, vật chất là cái có trước,
là cái quyết định đối với ý thức.Đó là nguyên tắc tuyệt đối của chủ nghĩa duy vật.
Tương đối là ở chỗ: thứ nhất, đây là sự đối lập của vật chất với một thuộc tính của
vật chất (thuộc tính phản ánh), gắn liền với vật chất. Ý thức gắn liền với vật chất,
là một thuộc tính của vật chất; thứ hai, trong những điều kiện nhất định, trong
những hoàn cảnh cụ thể, ý thức, tinh thần có thể đi trước, quyết định sự thay đổi
hoàn cảnh khách quan (Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền.Đào núi và
lấp biển. Quyết chí ắt làm nên; Thuận vợ thuận chồng, biển Đông tát cạn...; Trong
8


bài nói chuyện với cán bộ, đảng viên và thanh niên lao động thành phố Hải Phòng
ngày 30/5/1957, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Vì sao cách mạng của ta thành
công? Vì tinh thần!...Vật chất cố nhiên là trọng, tinh thần cũng là trọng….Tinh
thần trọng hơn!...Cô chú nào không hiểu, về học thêm duy vật biện chứng.”4.
Lê nin viết: “Sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong
những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề
nhận thức luận cơ bản: thừa nhận cái gì là cái có trước, và cái gì là cái có sau?
Ngoài giới hạn đó ra thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương
đối”5
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước ý thức và giữ vai trò
quyết định đối với ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh (dù là năng động và sáng tạo)
thế giới vật chất vào trong một dạng vật chất có kết cấu đặc biệt,, trình độ tổ chức
cao (bộ óc con người).Vật chất quyết định ý thức: vật chất là cơ sở, là nguồn gốc
của ý thức; quyết định nội dung của ý thức, quyết định sự biến đổi của ý thức v..v..
- Vai trò của ý thức đối với vật chất: Ý thức có tác động trở lại vật chất theo
hai khuynh hướng. Khuynh hướng thứ nhất: có tác động tích cực, thúc đẩy sự phát
triển của thế giới vật chất. Tác động của ý thức đối với vật chất là tác động gián
tiếp, phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Khi ý thức phản ánh đúng

đắn hiện thực khách quan, sẽ có tác động thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con
người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực khách quan. Dựa trên sự phản ánh
đúng đắn thế giới hiện thực khách quan (các lý luận khoa học, những tư tưởng tiến
bộ v.v..), con người có thể đề ra được những mục tiêu, phương hướng đúng đắn
của hoạt động thực tiễn, xác định, tìm ra được các biện pháp, cách thức tổ chức, sử
dụng các yếu tố vật chất trong hoạt động thực tiễn sao cho có hiệu quả nhất. Với

4

Xem: bài “Nói chuyện với cán bộ, đảng viên và thanh niên lao động Hải Phòng ngày 30/5/1957” trong Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.8, tr.383
5
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, t.18, tr.173

9


một tình yêu sâu sắc, với một nỗ lực ý chí mạnh mẽ, con người sẽ vượt qua được
những khó khăn trở ngại để đạt tới được mục tiêu đã đề ra.
Khuynh hướng thứ hai, là khuynh hướng ngược lại với khuynh hướng thứ
nhất: có tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất, thậm chí có
thể hủy hoại thế giới vật chất, nếu ý thức phản ánh sai lạc thế giới vật chất (mê tín
dị đoan; những nguyên tắc sai trái về cuộc sống, về thế giới hiện thực khách quan
v.v..).
1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc khách quan.
- Nắm vững và vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan trong cuộc sống
sẽ giúp chúng ta tránh được nguyên tắc duy tâm trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Tôn trọng cái khách quan, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò của nhân tố
chủ quan trong nhận thức và hành động. Có như vậy chúng ta mới có thể, một mặt,

chống lại, khắc phục thái độ xem thường, không tôn trọng quy luật khách quan;
mặt khác khắc phục thái độ trông chờ, ỷ lại, trì trệ, thụ động, không sáng tạo.
1.4.Ví dụ về vận dụng nguyên tắc khách quan
Từ nhận thức được vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng ta (1986) đã rút ra bài học: phải xuất phát từ thực tế
khách quan, phải tôn trọng và hành động tuân theo quy luật khách quan.
Sở dĩ có bài học này vì trong một thời gian dài, chúng ta đã mắc phải “bệnh”
chủ quan, duy ý chí, xa rời thực tế khách quan trong hoạt động thực tiễn xây dựng
đất nước.
Trong khi cơ sở vật chất còn thấp kém, lực lượng sản xuất còn lạc hậu, chưa
phát triển, chúng ta lại nôn nóng, muốn đốt cháy giai đoạn, muốn trong một thời
gian ngắn xây dựng ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tiên tiến, thuần khiết
(chỉ có sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể).

10


Chính vì sự nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật , không căn cứ
vào thực tế khách quan để đề ra mục tiêu, phương hướng cho hoạt động thực tiễn,
đã dẫn đến những trì trệ kéo dài trong lĩnh vực sản xuất, đời sống nhân dân khó
khăn, lòng tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng bị giảm sút. Nước ta đã lâm
vào khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Từ bài học mà Đại hội VI rút ra, vận dụng nguyên tắc khách quan, Đảng ta
đã nhận thức được rằng muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải có cơ sở
vật chất vững vàng. Đảng ta đã chủ trương: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng giao lưu kinh tế với nước
ngoài; tận dụng mọi nguồn lực, nhân lực, tài lực trong nước cũng như ngoài nước
để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời, từ nhận thức được tác động trở lại của ý thức đối với vật chất,
Đảng ta đã đề ra chủ trương tiến hành đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư

duy.Đổi mới tư duy là điều kiện và là tiền đề cho đổi mới trong hoạt động thực
tiễn. Hơn nữa, Đảng ta kiên trì khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động vì đây là hệ thống lý
luận, hệ tư tưởng khoa học, tiến bộ, phản ánh đúng đắn sự vận động phát triển
khách quan của xã hội loài người nói chung và của nước ta nói riêng.
Đảng ta còn chủ trương tạo mọi điều kiện để phát huy tính năng động, sáng
tạo của ý thức, phát huy mặt tích cực của nhân cách, đạo đức, tình cảm, ý chí v.v..,
tăng cường giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học cho nhân dân v.v..
2. Nguyên tắc toàn diện.
2.1. Nội dung nguyên tắc toàn diện.
“Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu
tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”6.

6

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.1979, t.42, tr.364

11


Sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới hiện thực khách quan có những mối
liên hệ, quan hệ rất phong phú và đa dạng. Để có thể phản ánh một cách đầy đủ và
chính xác các sự vật, hiện tượng này, chúng ta phải xem xét tất cả các mối liên hệ,
quan hệ vốn có của chúng.Nói cách khác, chúng ta phải nắm vững và thực hiện
đúng đắn nguyên tắc toàn diện.Điều này có nghĩa là, để bảo đảm nhận thức đúng
đắn sự vật, hiện tượng chúng ta không chỉ vận dụng nguyên tắc khách quan khi
xem xét sự vật, hiện tượng mà còn phải xem xét sự tác động qua lại giữa sự vật,
hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.Nếu không làm được như vậy,
chúng ta sẽ phạm phải sai lầm phiến diện, cứng nhắc, siêu hình.
Tuy nhiên, việc xác định được tất cả các mối liên hệ, quan hệ mà sự vật hiện

tượng vốn có là một việc vô cùng khó khăn, do những hạn chế của những điều kiện
thực tế khách quan, hoặc hạn chế về năng lực nhận thức. Lê nin viết: “Con người
không thể nắm được = phản ánh, = miêu tả toàn bộ giới tự nhiên một cách đầy đủ,
“tính chỉnh thể” trực tiếp” của nó, con người chỉ có thể đi gần mãi đến đó, bằng
cách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, một bức tranh
khoa học về thế giới”7.
Trong hoạt động nhận thức, nguyên tắc toàn diệnđòi hỏi chúng ta khi muốn
nhận thức đúng một sự vật, một hiện tượng hay một quá trình nào đó chúng ta phải
xem xét sự vật (hiện tượng hay quá trình) đó:
+ trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác
nhau của chính đối tượng nhận thức.
+ trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác (cả mối liên hệ trực
tiếp lẫn mối liên hệ gián tiếp)
+ trong mối liên hệ với nhu cầu của con người trong cuộc sống (cần hay
không cần, có lợi hay không có lợi cho cuộc sống v.v..)

7

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va.1981, t.29, tr.193.

12


Nói cách khác, để nhận thức được đúng đắn một sự vật nào dó chúng ta cần
phải xem xét tất cả mọi mối liên hệ mà nó có (bên trong, bên ngoài, trực tiếp, gián
tiếp v.v..). Việc xem xét tất cả các mối liên hệ, “xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề
phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và cứng nhắc”8.
Đồng thời, nguyên tắc toàn diện cũng đòi hỏi, trong việc nhận thức sự vật
(hiện tượng, quá trình), chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
của sự vật đến chỗ khái quát rút ra những mối liên hệ, những mặt cơ bản, bản

chất, chi phối, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật (hiện tượng, quá trình)
đó.
Thực hiện nguyên tắc phương pháp luận toàn diện trong quá trình nhận thức
sự vật (hiện tượng, quá trình), chúng ta sẽ phải trải qua các giai đoạn cơ bản là: đi
từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó
của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó; và cuối
cùng, khái quát những tri thức này, rút ra tri thức về bản chất của sự vật (hiện
tượng, quá trình)
Trong hoạt động thực tiễn, để cải tạo được sự vật (hiện tượng, quá trình)
nguyên tắc (nguyên tắc) toàn diệnđòi hỏi chúng ta, bằng hoạt động thực tiễn của
mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như mối liên hệ qua lại
giữa sự vật đó với các sự vật khác.Muốn vậy, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện
pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động vào sự vật nhằm thay đổi những
mối liên hệ tương ứng.Chúng ta cần phải kết hợp chặt chẽ “chính sách dàn đều”
với “chính sách có trọng điểm”.
2.2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện.
2.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về sự phổ biến
của các mối liên hệ.
2.2.2. Nội dung của nguyên lý về sự phổ biến của các mối liên hệ.
8

V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t.42, tr.364

13


Mọi sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới vừa tách biệt
nhau tương đối, vừa có mối liên hệ (sự ràng buộc, quy định lẫn nhau, sự tác động
qua lại), thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau làm cho thế giới trở thành một chỉnh
thể thống nhất.

- Định nghĩa mối liên hệ:
+ Mối liên hệ là phạm trù triết học chỉ sự ràng buộc, quy định lẫn
nhau, sự tác động qua lại giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình;
hoặc giữa các mặt, các bộ phận, các quá trình trong một sự vật.
+ Đặc tính của các mối liên hệ trong thế giới vật chất:
- Tính khách quan.
- Tính phổ biến.
- Tính phong phú đa dạng (mối liên hệ bên trong, bên ngoài, chủ yếu, thứ
yếu, cơ bản, không cơ bản v.v..).
2.3. Ý nghĩa của nguyên tắc toàn diện.
Nắm vững và thực hiện đúng những đòi hỏi của nguyên tắc toàn diện giúp
cho chúng ta nhận thức và hành động đúng đắn, có cách nhìn toàn diện về sự vật,
hiện tượng, đánh giá đúng bản chất của chúng, tránh được những sai lầm chủ quan
phiến diện, cực đoan.
Nguyên tắc toàn diện hoàn toàn khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện.
Chủ nghĩa chiết trung là cách lập luận kết hợp một cách vô nguyên tắc
những mặt, những yếu tố của sự vật vốn dĩ không thể kết hợp được với nhau, hoặc
đánh đồng giá trị, ý nghĩa của các mối liên hệ khác nhau của sự vật, coi mọi mối
liên hệ của sự vật (bên trong, bên ngoài, chủ yếu, thứ yếu, cơ bản, không cơ bản
v.v..) đều như nhau.
Thuật ngụy biện là cách lập luận có vẻ như hợp quy luật lô gích, có vẻ đúng,
từ đó rút ra kết luận xuyên tạc sự thật, đổi trắng thay đen.
14


Ngụy biện là lối lập luận quanh co, vi phạm luật lôgíc nhằm làm cho người
khác hiểu sai sự thật.
Những người ngụy biện thường dùng mọi thủ thuật để đánh lừa người khác
bằng cách dựa vào những chỗ giống nhau bề ngoài để đánh tráo khái niệm, đánh

tráo đối tượng, đánh tráo tư tưởng v.v…
Đối với nhà ngụy biện thì mục đích của họ không phải là vạch ra chân lý, mà
là che giấu sự thật.Họ luôn luôn muốn thay thế sự chứng minh đúng đắn bằng lòng
tin chất phác của người khác vào lý lẽ giả dối của họ.
Nét đặc trưng của thuật ngụy biện là việc tách các sự kiện ra khỏi mối liên
hệ sẵn có giữa chúng với các sự kiện khác.Nếu không nắm vững phương pháp luận
biện chứng duy vật (cụ thể là nguyên tắc toàn diện), không nắm vững các quy luật,
quy tắc lô gích thì khó vạch ra sai lầm của người ngụy biện.
2.4.Ví dụ về vận dụng nguyên tắc khách quan.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các
lĩnh vực của quá trình đổi mới (dàn đều), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã
hội là khâu đột phá (trọng điểm).
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh
vực chính trị (dàn đều), Đảng ta đã coi đổi mới kinh tế là trọng tâm (trọng điểm).
Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Xét trên tổng thể,
Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch
định đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không
có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tê-xã
hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây

15


dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của
đời sống xã hội”9.
3. Nguyên tắc phát triển.
3.1. Nội dung nguyên tắc phát triển.
“Không nên quan niệm phát triển chỉ là sự vận động tăng lên hoặc giảm

đi, chỉ là sự lặp lại. Trái lại, phải quan niệm phát triển là sự gián đoạn của
tính “tiệm tiến” là “sự chuyển hóa thành mặt đối lập” là sự “xóa bỏ cái cũ và
nảy sinh cái mới”.
- Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi và phát triển. Bản thân sự
vật, hiện tượng nào cũng là kết quả của quá trình vận động, biến đổi và phát triển.
Do đó, trong hoạt động nhận thức,nguyên tắc phát triểnđòi hỏi chúng ta khi
nghiên cứu, xem xét mọi sự vật (hiện tượng, quá trình) phải đặt chúng trong sự vận
động, sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng
theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Lê nin viết: “Logic biện chứng đòi
hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự vận động” (…), trong sự
biến đổi của nó”10.
Nguyên tắc phát triển hoàn toàn đối lập với nguyên tắc bảo thủ, trì trệ, định
kiến (tuyệt đối hóa một kết luận nào đó – dù là đúng – về sự vật (hiện tượng, quá
trình) được rút ra trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định, ứng với giai đoạn
phát triển nhất định của nó và xem đó là chân lý vĩnh cứu, là nhận thức duy nhất
đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó). Nguyên tắc bảo
thủ, trì trệ, định kiến sẽ dẫn chúng ta đến những sai lầm nghiêm trọng trong hoạt
động thực tiễn.
- Đồng thời, nguyên tắc phát triển cũng đòi hỏi trong hoạt động nhận thức,
chúng ta không chỉ nhận thức, xem xét sự vật (hiện tượng, quá trình) như là cái
9

ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. CTQG, HN, 1996, tr.71.
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t.29, tr.379

10

16



đang có, mà còn phải dự báo, nắm được khuynh hướng phát triển tương lai của nó.
Trong quá trình phát triển, sự vật (hiện tượng, quá trình) thường có sự biến đổi
theo những xu hướng khác nhau, có cả biến đổi tiến lên (phát triển), có cả những
biến đổi thụt lùi (thoái bộ).
Sự phát triển của các sự vật (hiện tượng, quá trình) trong thực tế là một quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó vận dụng nguyên tắc phát triển trong quá
trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ sự quanh co, phức tạp của quá trình
phát triển là có tính phổ biến. Điều này giúp chúng ta tránh được bi quan dao động
khi trong hoạt động thực tiễn gặp những khó khăn trở ngại hoặc gặp những thất
bại, thụt lùi tạm thời
- Trong hoạt động thực tiễn, nguyên tắc phát triểnđòi hỏi chúng ta khi muốn
thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó, cần phải tìm ra mâu thuẫn
của chính sự vật, phải phản ánh được những mâu thuẫn biện chứng đóng vai trò là
động lực, nguyên nhân của sự phát triển, và bằng hoạt động thực tiễn giải quyết
mâu thuẫn đó. Chỉ có như thế chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển
Sự phát triển biện chứng của các quá trình hiện thực và của tư duy được thực
hiện bằng con đường thông qua những sự tích lũy về lượng mà tạo ra sự thay đổi
về chất, thông qua sự phủ định biện chứng sự vật cũ, phủ định của phủ định. Do
đó, vận dụng nguyên tắc phát triển vào hoạt động thực tiễn còn đòi hỏi chúng ta
phải phát huy nỗ lực chủ quan của mình phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện hiện
thực cho cái mới tồn tại và tiếp tục phát triển, hiện thực hóa sự phát triển nói trên.
Hiện thực khách quan luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển.Quá trình
phát triển sẽ nảy sinh ra những yếu tố mới, thuộc tính mới, mối liên hệ, mặt đối
lập, mâu thuẫn mới. Nguyên tắc phát triển đòi hỏi con người phải phản ánh kịp
thời, hình thành, bổ sung những khái niệm, phạm trù, phán đoán v.v..mới, xây
dựng hệ thống lý luận mới, phản ánh ngày càng đúng đắn hơn thế giới hiện thwncj
khách quan.
17



Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn, Ph. Ăng-ghen viết: “Phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản của nó là xem xét những sự vật và những phản ánh
của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng” 11. Lê nin cũng có
nhận xét tương tự khi cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải
được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”12.
3.2. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển.
3.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển.
3.2.2. Nội dung nguyên lý về sự phát triển.
- Mọi sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới luôn luôn vận
động. Vận động có thể diễn ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Phát triển là
một trong những khuynh hướng của vận động, trong đó sự vật, hiện tượng, quá
trình nảy sinh những tính quy định mới, có trình độ cao hơn về chất.
- Định nghĩa sự phát triển
+ Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận
động tiến lên từ trình độ thấp lên trình độ cao, từ kết cấu đơn giản đến kết cấu phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
+ Tính chất của sự phát triển:
• Trong thế giới hiện thực khách quan, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể
của các dạng vật chất, sự phát triển được thể hiện rất đa dạng và phong phú.
Ví dụ: Trong giới hữu cơ, sự phát triển thể hiện ở việc tăng cường khả
năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường sống; ở khả năng tự
sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng hoàn thiện hơn; ở khả năng hoàn
11
12

C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1994, t.20, tr.38
V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t.42, tr.238


18


thiện quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường. Trong lĩnh vực xã hội, sự
phát triển thể hiện ở con người ngày càng có khả năng cao hơn trong việc chinh
phục giới tự nhiên, trong việc cải tạo xã hội ngày càng tiến bộ hơn, ngày càng tiến
gần tới mục tiêu giải phóng con người, tạo điều kiện cho con người ngày càng
hoàn thiện hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong tư duy, sự phát triển thể hiện ở
khả năng con người ngày càng phản ánh đúng đắn hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn
thế giới hiện thực khách quan.
• Quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển thừa nhận tính phức tạp,
tính không trực tuyến của quá trình phát triển. Sự phát triển trong thế giới hiện
thực và trong tư duy diễn ra theo con đường quanh co, zích zắc, phức tạp, trong đó
có thể có những bước thụt lùi tương đối.
Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất, sự phát triển diễn ra theo đường xoáy trôn ốc, trong quá trình phát triển
dường như có sự lặp lại cái cũ, nhưng thực ra là lặp lại trên cơ sở trình độ mới cao
hơn.
• Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự phát triển có tính khách quan và
tính phổ biến. Về tính khách quan của sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng
cho rằng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, do mâu
thuẫn cuả sự vật quy định. Phát triển là một quá trình tự thân của mọi sự vật trong
thế giới hiện thực khách quan, hoàn toàn độc lập với ý thức con người, không phụ
thuộc vào ý thức con người. Về tính phổ biến của sự phát triển, chủ nghĩa duy vật
biện chứng cho rằng, sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ giới tự nhiên
đến xã hội và tư duy.
(Phần đọc thêm:Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Nguyên lý về sự phát triển được thể hiện một cách cụ thể qua ba quy luật cơ
bản của phép biện chứng duy vật. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng phản

ánh những mối liên hệ cơ bản nhất, những khía cạnh, những mặt cơ bản nhất của
19


sự vật (hiện tượng, quá trình) nói riêng và của thế giới hiện thực khách quan nói
chung.
Nghiên cứu nội dung ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chúng
ta sẽ nắm vững được nguyên nhân, cách thức và xu hướng của sự phát triển.
1. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại.
a) Các định nghĩa:
Chất: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật (hiện tượng, quá trình) là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính của sự vật
(hiện tượng, quá trình) làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác.
+ Thuộc tính chính là sự biểu hiện của chất của sự vật trong những mối liên
hệ cụ thể, những điều kiện cụ thể, với những sự vật khác. Để có thể nhận thức
được đầy đủ chất của một sự vật, chúng ta phải nhận thức được tổng hợp toàn bộ
các thuộc tính của sự vật trong tất cả các mối liên hệ có thể có giữa sự vật đó với
các sự vật khác
+ Với tư cách là những khía cạnh của chất được bộc lộ ra trong các mối
quan hệ, các thuộc tính của sự vật có vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và
vận động của sự vật. Thông thường, sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản.
Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo nên chất cơ bản của sự vật. Ở mỗi
sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là loại chất mà sự có mặt hay mất đi của nó
quyết định sự có mặt hay mất đi của bản thân sự vật.
+ Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu
thành, mà còn được xác định bởi cấu trúc của sự vật, bởi phương thức liên kết
giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó.
+ Khi chúng ta xem xét sự vật trong tính xác định về chất của nó, chúng ta

cũng so sánh nó với các sự vật khác. Mỗi sự vật có những giới hạn tồn tại của
20


nó.Vượt ra ngoài giới hạn đó, sự vật không còn là nó nữa mà là một cái gì đó
khác.Điều đó có nghĩa chất của sự vật nói lên tính có giới hạn của sự vật đó.
Lượng: là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp độ của sự vận động và phát
triển của sự vật (hiện tượng, quá trình) cũng như của các thuộc tính của nó.
+ Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị đo lường cụ
thể và chính xác (chiều dài, khối lượng, tốc độ …), nhưng cũng có lượng chỉ có thể
biểu thị dưới dạng trừu tượng, khái quát như trình độ giác ngộ cách mạng, trình
độ phát triển của một xã hội, tâm địa con người (sông sâu còn có thể dò, lòng
người nham hiểm ai đo cho cùng)
b) Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Sự thống nhất giữa chất và lượng:
- Một sự vật (hiện tượng, quá trình) có vô vàn chất và cũng có vô vàn lượng.
Chất và lượng là hai mặt quy định lẫn nhau không thể tách rời: một chất nào đó
trong sự vật có lượng tương ứng của nó, lượng là lượng của chất. Sự biến đổi
tương quan giữa chất và lượng tạo nên tiến trình phát triển của sự vật.
- Chất và lượng là hai mặt không thể tách rời trong một sự vật (hiện tượng,
quá trình). Bất cứ sự vật nào cũng là một thể thống nhất giữa chất và lượng của
nó.Trong quá trình vận động của sự vật, chất và lượng đều biến đổi. Sự biến đổi
của lượng và chất không diễn ra một cách độc lập, tách rời nhau, mà chúng có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tùy thuộc vào nhau.Sự thay đổi của mặt này sẽ kéo
theo sự thay đổi của mặt kia và ngược lại, tuân theo một quy luật nhất định.
- Tuy nhiên, không phải bất cứ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức
làm thay đổi về căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong
một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng không làm thay đổi chất của sự vật, được

gọi là Độ.
21


- Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và
chất. Nó là khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi
căn bản về chất của sự vật.
- Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về Lượng sẽ làm thay đổi chất
của sự vật được gọi là Điểm nút.
Bất kỳ Độ nào cũng được giới hạn bằng hai điểm nút.Sự thay đổi về lượng
khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới.Sự thống nhất giữa lượng mới
và chất mới sẽ tạo thành một Độ mới với những điểm nút mới.
- Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng được gọi là Bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất do
những thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Sự thay đổi về chất của sự vật (bước nhảy) hết sức đa dạng, có nhiều hình
thức. Có thể phân loại các hình thức bước nhảy theo quy mô, tính chất, và nhịp độ
của chúng. Về quy mô, có những hình thức: bước nhảy toàn bộ, bước nhảy cục bộ,
bước nhảy lớn, bước nhảy nhỏ. Về tốc độ (nhịp độ), có những hình thức: bước
nhảy đột biến, bước nhảy dần dần. Về tính chất, có những hình thức: bước nhảy có
tính chất cách mạng, bước nhảy có tính chất tiến hóa.
Sau khi được hình thành, chất mới lại có tác động đến lượng, gây ra sự thay
đổi về lượng của sự vật.Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật,
làm thay đổi nhịp độ của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
c) Nội dung quy luật Lượng – Chất:
Nói lên mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng với sự thay đổi về
chất.Trong mối quan hệ biện chứng này, những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại, những thay đổi về chất cũng sẽ dẫn đến
những thay đổi về lượng.
Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt Chất và Lượng tạo nên sự vận

động liên tục, từ biến đổi dần dần về Lượng dẫn đến bước nhảy, thay đổi về Chất,
22


rồi lại biến đổi dần về Lượng, chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo. Nhờ sự chuyển
biến liên tục này mà sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.
d) Ý nghĩa phương pháp luận (vận dụng quy luật Lượng – Chất vào trong
cuộc sống):
+ Trong hoạt động nhận thức: Để có tri thức đầy đủ và sâu sắc về sự vật
(hiện tượng, quá trình), chúng ta cần phải nhận thức được cả mặt Lượng và mặt
Chất của sự vật, đồng thời phải nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa hai
mặt đó.
+ Trong hoạt động thực tiễn: Phải hiểu đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa
của sự thay đổi về Lượng cũng như của sự thay đổi về Chất trong sự vận động,
phát triển của sự vật. Đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội, phải biết kịp thời chuyển từ
sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, thực hiện bước nhảy đúng lúc
(nắm vững thời cơ), khắc phục tư tưởng trì trệ, bảo thủ, hữu khuynh.
+ Để có được bước nhẩy, có sự chuyển biến về Chất phải thực hiện được
những biến đổi về Lượng. Không có những biến đổi về Lượng thì không thể có
những biến đổi về Chất. Khắc phục tư tưởng nôn nóng, “tả” khuynh, muốn đốt
cháy giai đoạn.
+ Phải xác định và thực hiện đúng quy mô, nhịp điệu, tính chất của bước
nhẩy một cách khoa học, phù hợp với quy luật khách quan, tránh giáo điều dập
khuôn. Đồng thời phải có quyết tâm, nghị lực để thực hiện các bước nhẩy khi điều
kiện đã chin muồi (Lượng đã đủ cho sự biến đổi về Chất.)
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn)
a) Định nghĩa các phạm trù
+ Mặt đối lập: là phạm trù triết học dùng dể chỉ những mặt có những đặc
điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược

nhau, chúng tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
23


+ Mâu thuẫn: là phạm trù triết học dùng để chỉ một chỉnh thể trong đó bao
gồm ít nhất có hai mặt đối lập. trong chỉnh thể đó, các mặt đối lập vừa thống nhất,
vừa “đấu tranh” với nhau.
Không nên nhầm lẫn “mặt đối lập” với “mâu thuẫn”.Mỗi “mâu thuẫn” bao
giờ cũng được tạo thành từ ít nhất hai “mặt đối lập”.Nhưng không phải bất kỳ hai
“mặt đối lập” nào cũng tạo nên “mâu thuẫn”.Chỉ có những “mặt đối lập” nằm
trong cùng một chỉnh thể có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau’ đóng vai trò
nguồn gốc, nguyên nhân của vận động và phát triển của sự vật, mới tạo nên một
“mâu thuẫn” biện chứng.
b) Mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập – Nội dung quy luật mâu
thuẫn (quy luật về sự thống nhất và “đấu tranh giữa các mặt đối lập”)
+ Sự thống nhất các mặt đối lập trong một mâu thuẫn: Các mặt đối lập luôn
luôn tồn tại trong sự thống nhất với nhau trong một chỉnh thể. Sự thống nhất các
mặt đối lập là một phạm trù triết học được hiểu như sau:
- Các mặt đối lập nương tựa vào nhau, là điều kiện và tiền đề cho nhau tồn
tại.
- Các mặt đối lập có những nhân tố giống nhau, “đồng nhất” với nhau, có
thể chuyển hóa cho nhau.
- Các mặt đối lập có tác động ngang nhau, cân bằng nhau (trạng thái đứng
im tương đối). Sự vật vẫn chưa biến thành sự vật khác.
+ Sự “đấu tranh” của các mặt đối lập: “Đấu tranh” của các mặt đối lập là
phạm trù triết học được hiểu như sau:
Các mặt đối lập tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau.
Sự bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập dẫn đến làm biến đổi sự
thống nhất của chúng, sự vật chuyển biến thành sự vật khác, tạo nên sự vận động,
phát triển.


24


Sự “đấu tranh” giữa các mặt đối lập trong thế giới vật chất và trong sự
phản ánh thế giới vật chất đó được thực hiện dưới nhiều dạng vẻ, cách thức rất
khác nhau.
Sự “đấu tranh” giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, là thường xuyên, gắn liền
với tính tuyệt đối của sự vận động của sự vật nói riêng, của thế giới hiện thực nói
chung. Lê nin khẳng định: “Sự thống nhất … của các mặt đối lập là có điều kiện,
tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự “đấu tranh” của các mặt đối lập, bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”13.
Sự “đấu tranh” của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, chia thành
nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó. Có thể khái quát
những giai đoạn khác nhau trong quá trình “đấu tranh” của các mặt đối lập như
sau: giai đoạn khác nhau của các mặt, các yếu tố trong chỉnh thể; giai đoạn
chuyển sự khác nhau thành sự đối lập; giai đoạn xung đột gay gắt giữa các mặt
đối lập. Trong giai đoạn này, nếu có điều kiện thích hợp mâu thuẫn sẽ được giải
quyết, sự thống nhất cũ bị xóa bỏ, hình thành sự thống nhất mới của các mặt đối
lập mới.
Nhờ có sự “đấu tranh” (quá trình đấu tranh) này mà sự vật mới xuất hiện
thay thế cho sự vật cũ, thế giới luôn luôn vận động và phát triển.
+ “Đấu tranh” giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển. Mặt khác, nếu không có sự thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ
không có “địa bàn”, “môi trường” cho các mặt đối lập “đấu tranh” với nhau.
Mâu thuẫn chính là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, chính là sự
tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập, là mối liên hệ bản chất, tất yếu, lặp lại,
phổ biến trong các sự vật.
c) Phân loại mâu thuẫn


13

V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1981, t.29, tr.379-380

25


×