Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Thực trạng ứng dụng Thương mại điện tử vào một số Ngân hàng ở Việt Nam- Dịch vụ Ngân hàng Điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.92 KB, 93 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỉ XXI được coi là thời đại bùng nổ của ngành công nghệ thông tin. Sự
phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra đời của Internet đã đem đến
một phương thức kinh doanh hàng hoá dịch vụ mới mẻ và hiệu quả. Đến nay,
thuật ngữ “Thương mại điện tử” đã trở nên không còn xa lạ đối với hầu hết người
dân trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc ứng dụng hoạt động thương
mại điện tử đã tạo nên những bước đột phá lớn trong lĩnh vực kinh tế. Dù là quốc
gia đang phát triển, trình độ công nghệ thông tin chưa cao nhưng Việt Nam đã
nhận thức được tầm quan trọng và tính thiết yếu của loại hình dịch vụ này. Đến
nay, hoạt động thương mại điện tử đã được triển khai và ứng dụng trong một số
ngành dịch vụ và đem đến những kết quả đáng kể. Trong đó ngành ngân hàng
được coi là một trong những lĩnh vực tiên phong ứng dụng hoạt động này.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
Thương mại thế giới WTO. Việc ra nhập WTO cùng xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế hiện nay không chỉ mang lại nhiều thuận lợi mà cũng đặt ra những thách thức
lớn đối với các ngân hàng trong nước, điều đó buộc các ngân hàng phải hiện đại
hoá, áp dụng những công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình
trước các đối thủ nước ngoài. Đến nay, các ngân hàng Việt Nam đều ra sức đầu tư
khoa học công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hoá; thiết lập, cung cấp các
loại hình dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tạo
dựng được niềm tin với khách hàng và lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Thời gian qua, ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể, dù chưa thể so sánh được với các ngân hàng nước ngoài nhưng đặt trong
điều kiện khó khăn về cơ sở hạ tầng, chưa minh bạch trong hệ thống pháp luật…
những kết quả đó rất đáng được khích lệ.
Với mục tiêu phát triển hơn nữa hoạt động ứng dụng thương mại điện tử
trong lĩnh vực ngân hàng, nhà nước ta cùng các bộ, đoàn thể, cơ quan chuyên
ngành cần đưa ra những chiến lược lâu dài, những định hướng cụ thể, đúng đắn.
Muốn làm được điều đó, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu những thành tựu đã đạt được

1




cũng như những vướng mắc còn gặp phải của ngành ngân hàng khi triển khai ứng
dụng hoạt động E- Banking để có cái nhìn tổng thể, toàn diện và từ đó có thể đưa
ra những giải pháp cho ngành ngân hàng. Vì lí do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát
triển thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” cho khoá luận của mình, với mong muốn sẽ góp phần phát triển hoạt
động ứng dụng thương mại điện tử trong ngành ngân hàng.
Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các từ viết tắt, phụ lục,
danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận gồm:
Chương I: Lý luận chung về thương mại điện tử, ngân hàng điện tử,
dịch vụ ngân hàng điện tử.
Chương II: Thực trạng ứng dụng Thương mại điện tử vào một số Ngân
hàng ở Việt Nam- Dịch vụ Ngân hàng Điện tử.
Chương III: Giải pháp phát triển Dịch vụ ngân hàng điện tử tại Việt
Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nỗ lực hết sức để có những thông tin
mới nhất, những ý kiến nhận xét đánh giá của các chuyên gia, và cũng cố gắng
đưa ra ý kiến của bản thân nhằm hoàn thiện đề tài của mình một cách tốt nhất.
Tuy nhiên, bài khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận
được sự thông cảm và đóng góp của thầy cô và của người đọc.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo Thạc sỹ Nguyễn Văn
Thoan, chủ nhiệm bộ môn Thương mại điện tử, giám đốc Trung tâm Thông tin
Khoa học trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, người đã nhiệt tình giúp đỡ và
cho tôi những chỉ dẫn quý báu trong suốt quá trình triển khai đề tài, xin cảm ơn
đến các thầy cô giáo trong trường, gia đình và bè bạn, những người đã giúp đỡ,
động viên tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài khóa luận.
Hà nội, ngày 09 tháng 04 năm 2009
Sinh viên

Trịnh Thị Huyền

2


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ,
NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ, DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ
1. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ (TMĐT)

1.1. Khái niệm chung về Thương mại điện tử
Thế kỉ 21 được coi là thời đại của “nền kinh tế số”, trong đó Thương mại điện
tử đóng vai trò làm then chốt. Đến nay đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về
TMĐT, nhưng tựu trung lại có hai cách định nghĩa phổ biến sau:
Thương mại điện tử, theo nghĩa rộng, là các giao dịch tài chính và thương mại
bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các
hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng. Khái niệm TMĐT đã được rất nhiều tổ
chức đưa ra định nghĩa, trong đó có thể kể đến định nghĩa trong Luật mẫu về
Thương mại điện tử của Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế
(UNCTRAL): TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương
tiện điên tử, không cần phải in ra giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá
trình giao dịch. “Thông tin” ở đây được hiểu là bất cứ thứ gì có thể truyền tải bằng
kĩ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các file văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản chính,
các bản thiết kế, hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa đơn, bảng giá, hợp
đồng, hình ảnh động, âm thanh… “Thương mại” được hiểu theo nghĩa rộng, bao quát
mọi vấn đề nảy sinh từ mọi quan hệ mang tính thương mại, dù có hay không có hợp
đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm bất cứ giao dịch nào về cung
cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; đại diện hoặc đại lí thương mại; ủy thác hoa
hồng, hoặc cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình, tư vấn, kĩ thuật công trình, đầu
tư cấp vốn, ngân hàng; thỏa thuận, khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh hoặc các

hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay
hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy có
thể thấy, phạm vi nghiên cứu TMĐT bao trùm lên cả các mô hình và các vấn đề kinh
doanh điện tử với mục đích trang bị kiến thức về thương mại và kinh doanh điện tử
để người học áp dụng trong mọi lĩnh vực kinh doanh và các tổ chức có liên quan.

3


Theo nghĩa hẹp, TMĐT là việc mua bán hàng hóa, dịch vụ thông qua các phương
tiện điện tử, các mạng viễn thông, đặc biệt là máy tính và mạng Internet.
Cách hiểu này tương tự với một số các quan điểm như:
- TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm
được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu
hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng
Internet (Tổ chức thương mại thế giới WTO)
- TMĐT là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số
liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số (Ủy ban thương mại điện tử của Tổ chức hợp
tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương APEC)
Với nghĩa hẹp này, TMĐT được coi là khởi đầu bằng việc các doanh nghiệp
sử dụng các phương tiện điện tử và mạng Internet để mua bán hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp mình, các giao dịch có thể giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B),
hoặc doanh nghiệp với khách hàng cá nhân (B2C), cá nhân với cá nhân (C2C); ví dụ
như: alibaba.com; amazon.com; eBay.com…
1.2. Lợi ích và hạn chế của Thương mại điện tử
1.2.1. Lợi ích của Thương mại điện tử
1.2.1.1. Lợi ích đối với tổ chức
- Mở rộng thị trường: Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều so với thương mại
truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận người cung
cấp, khách hàng và các đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới, nhà cung

cấp cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiều sản
phẩm hơn.
- Giảm chi phí sản xuất: Giảm chi phí sản xuất giấy tờ, chi phí chia sẻ thông
tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống.
- Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân
phối hàng. Hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ
bằng các showroom trên mạng.

4


- Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua
Website và Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không
mất thêm nhiều chi phí biến đổi.
- Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến với tên gọi “Chiến lược
kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu
của khách hàng. Ví dụ điển hình thành công theo mô hình này là Tập đoàn máy tính
hàng đầu thế giới Dell Computer Corp.
- Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và
giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu
giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công
này.
- Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả
năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian
tung sản phẩm ra thị trường.
- Giảm chi phí thông tin liên lạc: Email tiết kiệm hơn fax hay gửi thư truyền
thống.
- Giảm chi phí mua sắm: Thông qua việc giảm các chi phí quản lý hành chính
(80%), giảm giá mua hàng (5-15%)
- Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng,

quan hệ với trung gian và khách hàng được củng cố hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa
sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố
lòng trung thành.
- Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên website như sản phẩm, dịch vụ, giá
cả… đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.
- Chí phí đăng kí kinh doanh: Một số nước và khu vực khuyến khích bằng
cách giảm hoặc không thu phí kinh doanh qua mạng.
- Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp, cải thiện chất
lượng dịch vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các
quy trình giao dịch; tăng năng suất, giảm chi phí giấy tờ; tăng khả năng tiếp cận

5


thông tin và giảm chi phí vận chuyển; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động
kinh doanh.
1.2.1.2. Lợi ích đối với người tiêu dùng
- Vượt giới hạn về thời gian và không gian: TMĐT cho phép khách hàng mua
sắm mọi nơi, mọi lúc với các cửa hàng trên toàn thế giới.
- Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: TMĐT cho phép người mua có
nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn.
- Giá thấp hơn: Do có thông tin dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có
thể so sánh giá cả giữa nhà cung cấp, từ đó tìm ra mức giá phù hợp nhất.
- Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được, ví dụ các sản phẩm số
hóa như phim, nhạc, sách, phần mềm…
- Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể
dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm
(search engines); đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh) giúp
quảng bá, giới thiệu sản phẩm tốt hơn.
- Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể

tham gia mua và bán các sản phẩm đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những
món hàng tại mọi nơi trên thế giới.
- Cộng đồng TMĐT: Môi trường kinh doanh thương mại điện tử cho phép mọi
người tham gia có thể phối hợp, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả, nhanh
chóng.
-“Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn
hàng khác nhau từ mọi khách hàng.
- Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng cách
không thu phí đối với các giao dịch trên mạng.
1.2.1.3. Lợi ích đối với xã hội
- Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường làm việc, mua
sắm, giao dịch… từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm, tai nạn giao thông.
- Nâng cao mức sống: Có nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp sẽ tạo áp lực
giảm giá, do đó tăng khả năng mua sắm của khách hàng, nâng cao mức sống.

6


- Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản
phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và TMĐT. Đồng thời
cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kĩ năng… đào tạo qua mạng nhanh chóng
giúp các nước này tiếp thu công nghệ mới.
- Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y
tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ… được thực hiện qua mạng với chi phí
thấp hơn, thuận tiện hơn.
1.2.2. Hạn chế của Thương mại điện tử
Bên cạnh những lợi ích mà TMĐT tạo ra, TMĐT có hai loại hạn chế:
1.2.2.1. Hạn chế về kĩ thuật
- Chưa có chất lượng quốc tế về chất lượng, độ an toàn, độ tin cậy
- Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người

dùng, nhất là trong Thương mại điện tử.
- Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển.
- Khó khăn khi kết hợp các phềm mềm TMĐT với các phần mềm ứng dụng
và các cơ sở dữ liệu truyền thống.
- Cần có các máy chủ TMĐT đặc biệt (công suất, độ an toàn) đòi hỏi thêm chi
phí đầu tư.
- Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao.
- Thực hiện các đơn hàng trong thương mại điện tử B2C đòi hỏi hệ thống kho
hàng tự động lớn.
1.2.2.2. Hạn chế về thương mại
- An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lí đối với người tham gia TMĐT
- Thiếu lòng tin về TMĐT và người bán hàng trong TMĐT do không được
gặp trực tiếp
- Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ
- Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để TMĐT phát triển
- Phương pháp đánh giá hiệu quả của TMĐT còn chưa đầy đủ, hoàn thiện
- Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian

7


- Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc trực
tiếp, giao dịch điện tử cần thời gian
- Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô (hòa vốn và
có lãi)
- Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của TMĐT
- Thu hút vốn đầu tư khó khăn hơn sau sự sụp đổ hàng loạt của các công ty
dot.com
1.3. Ảnh hưởng của Thương mại điện tử
1.3.1. Tác động đến hoạt động Marketing

- Nghiên cứu thị trường: TMĐT tạo ra các hoạt động mới giúp nghiên cứu thị
trường, hiệu quả hơn. Các hoạt động như phỏng vấn theo nhóm, phỏng vấn sâu được
thực hiện truyền thống qua Internet; hoạt động điều tra bằng bảng câu hỏi được thực
hiện qua công cụ webbased tiện lợi, nhanh và chính xác hơn. Ví dụ: online
questionnaires, POS và data mining để phân tích hành vi khách hàng.
- Hành vi khách hàng: Các giai đoạn xác định nhu cầu, tìm kiếm thông tin,
đánh giá lựa chọn, hành động mua và phản ứng sau mua khi mua hàng đều bị tác
động bởi Internet và Website. Ví dụ mô hình AIDA trên amazon.com
- Phân đoạn thị trường và thị trường mục tiêu: Các tiêu chí để lựa chọn thị
trường mục tiêu dựa vào tuổi tác, giới tính, giáo dục, thu nhập, vùng địa lý… được
bổ sung thêm bởi các tiêu chí đặc biệt khác của TMĐT như mức độ sử dụng Internet,
thư điện tử, các dịch vụ trên web… Ví dụ như các websites gameonline, cars online
tập trung vào các nhóm khách hàng khác nhau.
- Định vị sản phẩm: Các tiêu chí để định vị sản phẩm cũng thay đổi từ giá rẻ
nhất, chất lượng cao nhất, dịch vụ tốt nhất, phân phối nhanh nhất, được bổ sung thêm
những tiêu chí của riêng TMĐT như nhiều sản phẩm nhất (amazon.com), đáp ứng
mọi nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp (dell.com), giá thấp nhất và dịch vụ tốt
nhất (charles Schwab)…
- Các chiến lược Marketing hỗn hợp: Bốn chính sách: sản phẩm, giá, phân
phối, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh cũng bị tác động bởi TMĐT. Việc thiết kế sản
phẩm mới hiệu quả hơn, nhanh hơn, nhiều ý tưởng mới hơn nhờ sự phối hợp và chia

8


sẻ thông tin giữa nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà cung cấp và khách hàng
(Li&Fung.com). Việc định giá cũng bị tác động bởi TMĐT khi doanh nghiệp tiếp
cận với thị trường toàn cầu. Việc phân phối đối với hàng hóa hữu hình và vô hình
đều chịu sự tác động của TMĐT; đối với hàng hóa hữu hình quá trình này được hoàn
thiện hơn, nâng cao hiệu quả hơn; đối với hàng hóa vô hình, quá trình này được thực

hiện nhanh hơn hẳn so với thương mại truyền thống. Đặc biệt hoạt động xúc tiến và
hỗ trợ kinh doanh có sự tiến bộ vượt bậc nhờ tác động của TMĐT với các hoạt động
mới như quảng cáo trên website, quảng cáo bằng e-mail, diễn đàn cho khách hàng
trên mạng, dịch vụ hỗ trợ khách hàng 24/7…
1.3.2. Thay đổi mô hình kinh doanh
Sự ra đời của TMĐT tạo áp lực buộc các mô hình kinh doanh truyền thống
phải thay đổi, cùng với đó là một số mô hình kinh doanh TMĐT hoàn toàn mới được
hình thành. Ví dụ: Thay đổi các mô hình kinh doanh truyền thống như Ford Motor,
Charles Schwab, IBM…; mô hình kinh doanh mới được hình thành như: Dell.com,
Amazon.com, Cisco.com…
1.3.3. Tác động đến hoạt động sản xuất
Các hãng sản xuất lớn, nhờ ứng dụng thương mại điện tử, có thể giảm chi phí
sản xuất đáng kể, tăng hiệu quả sản xuất.
1.3.4. Tác động đến hoạt động ngân hàng
Hàng loạt các dịch vụ NHĐT được hình thành và phát triển, mở ra cơ hội mới
cho cả ngân hàng và khách hàng như: Internet Banking, thanh toán thẻ tín dụng trực
tuyến, thanh toán bằng thẻ thông minh, Mobile Banking, ATM, POS…
1.3.5. Tác động đến hoạt động ngoại thương
TMĐT có những tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương do đặc thù
của Internet là toàn cầu, nên rất phù hợp với các giao dịch thương mại quốc tế.
2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG ĐIỆN TỬ

2.1. Ngân hàng điện tử
2.1.1. Khái niệm

9


Đến nay, thuật ngữ “Ngân hàng điện tử” dường như vẫn chưa được nhiều

người biết đến. Tuy nhiên, rất nhiều ứng dụng TMĐT đã và đang phục vụ cho đời
sống hàng ngày của người dân. Họ rút tiền từ máy rút tiền tự động, trả tiền cho hàng
hóa dịch vụ bằng thẻ tín dụng, kiểm tra số dư tài khoản qua điện thoại hay mạng di
động… tất cả các hoạt động như vậy đều được gọi là dịch vụ NHĐT. Càng ngày, các
ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thế giới càng nhận thấy tầm quan trọng của
việc cung cấp các dịch vụ NHĐT nhằm củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của
họ trên thị trường. Vậy NHĐT là gì, và tại sao nó lại có tầm quan trọng và được ứng
dụng rộng rãi đến vậy?
NHĐT, tên tiếng Anh là Electronic Banking, viết tắt là E-Banking, trước đấy
cũng đã từng được biết đến ở một số quốc gia dưới các dịch vụ do ngân hàng cung
cấp như thẻ ATM hay các giao dịch tiến hành qua các mạng điện thoại di động. Đến
nay, người ta đã hiểu về khái niệm này rộng hơn, gắn liền với hệ thống Internet, có
khả năng tăng hiệu quả và tốc độ của hệ thống Ngân hàng, đồng thời đem lại cho
người sử dụng vô số những tiện ích đa dạng, phong phú với chi phí thấp.
NHĐT, hiểu theo nghĩa đơn giản và trực quan nhất, đó là “sự kết hợp hoạt
động Ngân hàng với Internet – là kết quả tất yếu của quá trình phát triển công nghệ
thông tin, điện tử và tin học, được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng điện tử là việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua các
kênh liên lạc thông tin điện tử và mạng Internet”.
Tổ chức Quỹ tiền tệ Thế giới IMF đưa ra một khái niệm ngắn gọn hơn về EBanking như sau: E-Banking chỉ đơn giản là việc cung cấp các sản phẩm và dịch vụ
của Ngân hàng thông qua các kênh lưu thông điện tử.
Chi tiết về E- Banking được minh họa qua sơ đồ sau:

10


E- Commerce
Thương mại điện tử
E- Finance
Tài chính điện tử


E- Money
Tiền điện tử

Other E- Finance services
Các dịch vụ tài chính điện
tử khac

E- Banking
Ngân hàng điện tử
Telephone Banking

Bảo hiểm

Mobile Banking

Đầu tư

PC Banking

Các loại khác

Loại hình DV khác

Nguồn: />Như vậy, cùng với các dịch vụ tài chính khác như đầu tư hay bảo hiểm trực
tuyến, E-Banking cũng là bộ phận cấu thành của tài chính điện tử trong xu hướng
phát triển, hình thành nên những cách thức kinh doanh mới là TMĐT (ECommerce). Hay nói cách khác, E-Banking chính là việc phát triển TMĐT trong
lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng hiện nay có thể nói đang chạy đua với nhau
trong việc cạnh tranh đưa ra các sản phẩm công nghệ nhằm thu hút khách hàng, nâng
cao uy tín và hiệu quả công việc. Các dịch vụ E-Banking hiện nay trên thế giới đã

được các ngân hàng đưa ra với rất nhiều hình thức đa dạng tùy theo cách thức, thói
quen tiến hành giao dịch kinh doanh của từng quốc gia, tùy vào tốc độ phát triển kinh
tế và khả năng áp dụng công nghệ thông tin vào các giao dịch Ngân hàng. Tuy nhiên,
để có thể phát triển được E-Banking thì các ngân hàng trên thế giới đều phải tuân
theo những tiền đề chung và những cơ sở nhất định.
Có rất nhiều cách diễn đạt khác nhau về NHĐT, song nhìn chung NHĐT được
hiểu là một loại hình thương mại về tài chính ngân hàng có sự giúp đỡ của công nghệ
thông tin, đặc biệt là máy tính và công nghệ mạng. Nói ngắn gọn, NHĐT là hình
thức thực hiện các giao dịch tài chính ngân hàng thông qua các phương tiện điện
tử.

11


2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng điện tử
Giữa những năm 90 của thế kỉ XX, mạng Internet đã thực sự phát triển mạnh
và có tác động lớn đối với ngành ngân hàng. Công nghệ đã làm phần lớn các sản
phẩm và quy trình diễn ra trong hoạt động ngân hàng hiệu quả hơn so với trước đây.
Và khi máy tính cá nhân bắt đầu phát triển thì một số ngân hàng tại các quốc gia
cung cấp cho khách hàng một phần mềm giúp họ có thể xem số dư tài khoản và có
thể thực hiện một số lệnh thanh toán đối với một số dịch vụ công cộng như phí sử
dụng điện, nước…
Ở Việt Nam, dịch vụ NHĐT được khởi động từ năm 1994 nhưng phải đến
năm 2002, công nghệ thông tin Việt Nam mới đủ sức thích ứng với việc triển khai
loại hình dịch vụ này. Cùng với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông
tin, công nghệ Internet, sự gia tăng số lượng người sử dụng Internet ở Việt Nam thì
việc các ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua mạng
Internet là một hướng đi đúng đắn và tất yếu. Qua đó, ngân hàng thương mại Việt
Nam dần tiếp cận với công nghệ hoạt động của Ngân hàng hiện đại, dịch vụ NHĐT.
Thông qua dịch vụ NHĐT, khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng

một cách tốt hơn, tiết kiệm hơn về cả chi phí và thời gian.
2.1.3. Các cấp độ của Ngân hàng điện tử
- Ở cấp sơ đẳng nhất, E-Banking không khác nhiều so với giao dịch qua điện
thoại hay giao dịch với một máy rút tiền tự động. Bằng cách sử dụng bàn phím số
của điện thoại, khách hàng có thể biết được tình hình tài khoản của mình hoặc có thể
thực hiện các giao dịch đơn giản như chuyển tiền từ tài khoản tiết kiệm sang tài
khoản vãng lai của cùng một chủ tài khoản.
- Ở cấp độ thứ hai, Internet đóng vai trò tích cực hơn nữa. Lúc này mỗi trang
chủ của Ngân hàng trên Internet được xem như một cửa sổ giao dịch. Ngoài việc
kiểm tra tài khoản, khách hàng còn có thể sử dụng hàng loạt các dịch vụ trực tuyến
khác như vay mua hàng, mua hợp đồng bảo hiểm hay đầu tư chứng khoán…
- Ở cấp độ thứ ba, ngân hàng đóng vai trò to lớn, hỗ trợ cho thương mại điện
tử giữa các doanh nghiệp phát triển. Mọi giao dịch như chuyển tiền, mở thư tín dụng
cho hợp đồng mua bán giữa các nhà xuất nhập khẩu, mở các thư bảo lãnh… đều có

12


thể thực hiện trực tuyến. Khách hàng sẽ không phải đến trụ sở của ngân hàng mà vẫn
có thể thực hiện được các giao dịch thông qua một chương trình do ngân hàng cài đặt
tại văn phòng của khách hàng. Chương trình này cho phép truy cập đến máy chủ của
ngân hàng 24/24 giờ và cả bảy ngày trong tuần.
Như vậy, việc đưa TMĐT áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng chính là việc ứng
dụng các phương tiện điện tử vào các dịch vụ ngân hàng để giúp các ngân hàng đưa
ra các dịch vụ mới hiện đại hơn, cao cấp hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả họat động của mình và nâng cao năng lực cạnh
tranh trước các ngân hàng nước ngoài khi họ ngày càng xâm nhập vào Việt Nam. Do
đó, việc phát triển thương mại điện tử trong ngân hàng chính là việc phát triển
các dịch vụ ngân hàng điện tử.
2.2. Dịch vụ Ngân hàng điện tử

2.2.1. Lợi ích của dịch vụ Ngân hàng điện tử
2.2.1.1. Đối với Ngân hàng
Xét về mặt lợi ích đối với nhiều ngân hàng thì E-Banking là một giải pháp
mang tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động. Theo
ông Bruce Luecke, phụ trách hệ thống Công nghệ giao dịch của tập đoàn Banc One
(Mỹ): “Chúng tôi coi dịch vụ NHĐT là một kênh quan trọng có thể làm thay công
việc của một chi nhánh”, hay ông Peter Duffy, giám đốc trung tâm NHĐT của ngân
hàng Baclays (Anh) cho biết: “Chúng tôi thực sự quan tâm đến ngân hàng điện tử và
đó là một kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ tài chính của chúng tôi”. Qua khảo
sát, E-Banking mang lại những lợi ích sau:
- Giảm chi phí giao dịch, tăng doanh thu
Lợi ích lớn nhất có thể kể tới của E-Banking là lợi thế về chi phí. Bảng sau
đây với những thông số dữ liệu của Hoa Kì cho thấy rằng chi phí trung bình của một
giao dịch ngân hàng bán lẻ thực hiện qua Internet chưa bằng 1% chi phí của một giao
dịch tương tự theo cách truyền thống, tức là trực tiếp đến trụ sở hoặc chi nhánh của
Ngân hàng. ATM và TelE-Banking cũng là những cách tiết kiệm đáng kể chi phí
giao dịch.
Chi phí giao dịch của một ngân hàng bán lẻ

13


Nguồn: Kết quả khảo sát của Hãng nghiên cứu Booz, Allen & Hamilton, 2004
Bên cạnh đó, E-Banking còn giúp giảm chi phí văn phòng. Các phòng ít giấy
tờ chiếm diện tích nhỏ, không có những quầy giao dịch, những bàn ghế cồng kềnh
như văn phòng của một ngân hàng truyền thống. Mạng, máy chủ và các máy tính cá
nhân giúp rút ngắn thời gian cho công việc làm thủ tục, tìm kiếm và chuyển giao tài
liệu. Hơn nữa, E-Banking còn giúp tiết kiệm chi phí trả cho nhân viên. Một máy rút
tiền tự động có thể làm việc 24/7/365 và thay thế cho công việc của rất nhiều nhân
viên.

Bằng phương tiện Internet/Web, ngân hàng và khách hàng có thể tìm hiểu
thông tin, giao dịch thường xuyên hơn, cập nhật hơn, do đó giúp làm giảm chi phí
bán hàng và tiếp thị.
Hệ thống mạng phá bỏ sự rằng buộc về không gian và thời gian. Các ngân
hàng có thể mở nhiều chi nhánh ở các nước khác nhau mà không gặp khó khăn gì
trong việc theo dõi quản lý tình hình hoạt động của các chi nhánh.
Như vậy, khi chi phí được tiết kiệm đáng kể mà hiệu quả lại tăng lên thì rõ
ràng E-Banking được coi là vũ khí sắc bén của Ngân hàng trong việc xâm nhập và
chiếm lĩnh thị trường.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Với sự trợ giúp của mạng Internet, máy tính và các thiết bị công nghệ cao
trong dịch vụ NHĐT, các lệnh về chi trả, nhờ thu của khách hàng được thực hiện
nhanh chóng, tạo điều kiện cho vốn tiền tệ chu chuyển nhanh, thuận lợi, thực hiện tốt

14


trao đổi tiền- hàng. Qua đó đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, tiền tệ, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Đây là lợi ích mà các giao dịch kiểu ngân hàng truyền thống
khó có thể đạt được với tốc độ nhanh, chính xác.
- Thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đặc biệt là thương mại điện tử
Xét về mặt kinh tế - xã hội, E-Banking góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế
thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế
thương mại với khu vực và trên thế giới. Và đặc biệt nhất là Internet thúc đẩy phát
triển TMĐT mạnh mẽ hơn thông qua việc hoàn thành hệ thống thanh toán điện tử. EBanking có khả năng thu hút khách hàng trên phạm vi rộng tại bất cứ thời điểm nào
24/7, bất chấp mọi khoảng cách về không gian và thời gian. Vì vậy, các ngân hàng
tiếp cận khách hàng tốt hơn, tiết kiệm chi phí giao dịch mà hiệu quả vẫn cao hơn.
- Dễ dàng mở rộng hoạt động kinh doanh
Với E-Banking, ngân hàng có thể thực hiện chiến lược toàn cầu hóa, chiến
lược bành trướng mà không cần mở thêm chi nhánh hay tuyển nhân viên cũng như

thuê văn phòng. Hệ thống mạng phá bỏ mọi sự ràng buộc về không gian và thời gian,
các ngân hàng có thể mở thêm nhiều chi nhánh ở các nước khác nhau mà không gặp
khó khăn gì trong việc trao đổi, quản lý tình hình hoạt động của các chi nhánh. Ngân
hàng vừa có thể tiết kiệm chi phí do không phải thiết lập quá nhiều trụ sở hoặc văn
phòng, nhân sự lại gọn nhẹ hơn, đồng thời có thể phục vụ một khối lượng khách
hàng lớn hơn. Internet là một công cụ đắc lực trong việc giúp các ngân hàng mở rộng
phạm vi hoạt động ra các quốc gia mà không cần đầu tư vào trụ sở hoặc cơ sở hạ
tầng. Theo phương thức này, các ngân hàng lớn đang vươn cánh tay khổng lồ và dần
thiết lập cơ sở của mình trên toàn thế giới, thâu tóm dần nền tài chính toàn cầu.
Tóm lại, sự kết hợp hài hòa trong quá trình phát triển các dịch vụ ngân hàng
truyền thống và phát triển E-Banking cho phép các ngân hàng và các tổ chức tín
dụng tiếp cận nhanh với các phương pháp quản lý hiện đại giúp các tổ chức tài chính
đa dạng hóa sản phẩm, tăng doanh thu, nâng cao hiệu quả hoạt động, và đặc biệt là
nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập.

15


2.2.1.2. Đối với khách hàng
Không chỉ ngân hàng mới tìm thấy ưu điểm của E-Banking mà loại hình dịch
vụ này còn mang lại cho khách hàng vô số những thuận lợi vượt trội và đây chính là
lí do tồn tại, phát triển của E-Banking với mục đích là phục vụ tốt nhất nhu cầu
khách hàng. Với E-Banking, khách hàng có những thuận lợi sau:
- Tiết kiệm chi phí
Với dịch vụ E-Banking, khách hàng có thể tiết kiệm được chi phí một cách
đáng kể. Điều này hoàn toàn dễ hiểu vì E-Banking giúp cho các ngân hàng tiết kiệm
chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn như đã nói ở trên nên các chi phí
mà khách hàng phải bỏ ra theo đó giảm đi rất nhiều. Ưu điểm về mặt chi phí này đặc
biệt quan trọng khi khách hàng là các tập đoàn hoặc các doanh nghiệp lớn. Khi mọi
giao dịch tài chính mà ngân hàng cung cấp được thực hiện qua máy tính cá nhân,

khách hàng lại tiết kiệm được một khoản chi phí đáng kể khác so với việc thực hiên
qua thư từ hoặc tại quầy. Khách hàng không còn cần phong bì, giấy viết và tem thư.
Khoản chi phí này tưởng như rất nhỏ, không đáng kể song nếu tính tổng số tiền chi
cho một năm thì nhiều khi khách hàng không khỏi giật mình, nhất là các doanh
nghiệp lớn, phải giao dịch nhiều. Dịch vụ NHĐT còn giúp doanh nghiệp chủ động
quản lý tài chính một cách hiệu quả, giảm chi phí, tăng nhanh vòng quay của vốn, và
đầu tư sinh lợi nhiều.
- Tiết kiệm thời gian
Các giao dịch ngân hàng từ Internet được thực hiện một cách nhanh chóng và
hết sức chính xác. Khách hàng không còn cần phải tới phòng giao dịch của ngân
hàng, không phải mất thời gian đi lại, hoặc thậm chí nhiều khi còn phải xếp hàng chờ
tới lượt mình. Giờ đây, với dịch vụ E-Banking, họ có thể tiếp cận với bất cứ một giao
dịch nào của Ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào hoặc bất cứ đâu mà họ muốn. Chỉ
cần Click một cái nhấp chuột, tất cả mọi thao tác chỉ thực hiện trong nháy mắt thay
vì một chuỗi những thao tác phức tạp nếu giao dịch qua giấy tờ hoặc tại quầy.
- Nắm thông tin nhanh chóng và đầy đủ
E-Banking là một kênh quan trọng giúp khách hàng có thể thông tin liên lạc
với ngân hàng nhanh chóng và hiệu quả hơn. Chỉ trong chốc lát, qua máy vi tính

16


được nối mạng với ngân hàng, khách hàng có thể giao dịch trực tiếp với ngân hàng
để kiểm tra số dư tài khoản, chuyển tiền, thanh toán hóa đơn dịch vụ công cộng,
thanh toán thẻ tín dụng, mua séc du lịch, kinh doanh ngoại hối, vay nợ, và kể cả kinh
doanh chứng khoán với ngân hàng. Không những thế, những thông tin dịch vụ từ
ngân hàng như tỷ giá hối đoái, lãi suất… liên tục được cập nhật và tự động gửi đến
khách hàng qua thư điện tử nếu khách hàng có nhu cầu.
Ngoài ra, E- Banking còn có thể cung cấp dịch vụ chéo, tức là các ngân hàng
có thể liên kết với các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty tài chính khác

để đưa ra sản phẩm tiện ích nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng về các dịch
vụ liên quan.
2.2.2. Rủi ro và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử
Bên cạnh những lợi ích to lớn đem lại cho xã hội, cho nền kinh tế, E-Banking
cũng có một số những hạn chế nhất định. Hiện nay, E-Banking đang trong quá trình
phát triển mạnh nên không ít một số kẻ đã lợi dụng khe hở của E- Banking để phá
hoại và làm lợi cho riêng bản thân. Khách hàng sử dụng và các cơ quan nhà nước,
mà cụ thể là ngành ngân hàng đang phải đối phó với không ít những rủi ro mà các
dịch vụ ngân hàng cung cấp. Đến nay, có thể thấy 3 loại rủi ro phổ biến là: Tình
trạng gian lận thẻ tín dụng, rửa tiền qua ngân hàng và vấn đề đảm bảo an toàn thông
tin cho người sử dụng.
- Vốn và công nghệ
Xây dựng và phát triển TMĐT đòi hỏi nguồn vốn lớn để phát triển cơ sở vật
chất, hạ tầng kĩ thuật, trang bị máy móc thiết bị làm việc, xây dựng phát triển phần
mềm, đào tạo nguồn nhân lực… Quá trình này phụ thuộc rất lớn vào năng lực tài
chính của các tổ chức tín dụng. Đây chính là khó khăn vướng mắc cần được tháo gỡ
của ngành ngân hàng trong việc hiện đại hóa hoạt động ngân hàng, phát triển dịch vụ
NHĐT.
- An toàn và bảo mật
Khi ứng dụng TMĐT, vấn đề an toàn và bảo mật thông tin, bảo mật nguồn dữ
liệu là vấn đề cực kì quan trọng, mang ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của mỗi ngân hàng. Rủi ro lớn nhất trong hoạt động NHĐT là hệ thống bị xâm phạm,

17


bị giả mạo, lừa đảo trong thanh toán, chi trả. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào giải
pháp công nghệ, giải pháp kĩ thuật, các chương trình phần mềm về mã khóa, chữ kí
điện tử cũng như hệ thống pháp lý về hoạt động của NHĐT.
Hiện nay các dịch vụ ngân hàng qua mạng Internet chủ yếu tiến hành giống

như việc chúng ta truy cập vào các trang web thông thường. Việc xác nhập thông tin,
bảo mật đều thông qua việc kiểm tra tên truy nhập (user name) và mật khẩu. Việc sử
dụng phương thức này không những tận dụng được các công nghệ và thiết bị hiện
hành, không yêu cầu các khách hàng phải sử dụng thiết bị đặc biệt cho bảo mật mà
còn tận dụng được thói quen sử dụng Internet của người dân. Sau khi nhận được tên
truy nhập và mã số do ngân hàng cung cấp, khách hàng cỏ thể tự đổi mã số theo ý
muốn của mình để tự quản lý. Tuy vậy, việc làm này không an toàn do có thể bị truy
cập bất hợp pháp vào đường truyền Internet, hoặc do bất cẩn của khách hàng khi sử
dụng các giao dịch. Ngoài ra, việc lưu chuyển thông tin giữa ngân hàng và khách
hàng như đăng ký và cấp tên đăng nhập, mã số lại thường được gửi qua thư điện tử
e-mail, mà trong khi đó khả năng bị đọc trộm hoặc xâm nhập vào thư điện tử là tình
trạng phổ biến hiện nay.
Thông thường, khi đăng ký sử dụng dịch vụ NHĐT tại một ngân hàng nhất
định, khách hàng thường tiến hành trực tiếp khai báo qua mạng. Tuy nhiên, việc xác
thực thông tin và xác thực khách hàng sẽ tương đối khó khăn do còn thiếu các công
cụ chứng thực như chữ kí điện tử hoặc các xác minh điện tử. Việc sửa chữa, thay đổi
hay cung cấp lại đều được các ngân hàng tiến hành qua mạng và gần như miễn phí
nên khách hàng có thể liên tục thay đổi tên truy nhập và mã số. Chính vì thế mà nguy
cơ bị lộ hoặc nhầm lẫn mật khẩu dẫn đến khả năng ngân hàng phải gửi lại cho khách
hàng là khá cao.
Hoạt động ngân hàng điện tử đã tự chứng minh với rất nhiều ưu thế và là một
xu thế của tương lai. Tuy nhiên E-Banking vẫn gặp phải một số hạn chế chưa thể
khắc phục trong vấn đề bảo mật. Do đó, tăng cường an ninh và an toàn trong thanh
toán điện tử đồng nghĩa với việc tăng cường uy tín và hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng, tạo dựng niềm tin cho khách hàng đối với loại hình dịch vụ hiện đại này.
-

Quản trị và phòng ngừa rủi ro

18



• Rửa tiền qua hệ thống ngân hàng
Thuật ngữ “rửa tiền” được biết đến từ những năm 1920 khi các nhà tư bản
muốn tránh sự nhòm ngó của những kẻ ghen ghét hoặc tránh sự nhòm ngó của chính
phủ. Tuy nhiên, hoạt động rửa tiền chỉ thực sự phát triển mạnh khi các thị trường tài
chính trên thế giới liên kết chặt chẽ với nhau. Theo ước tính của IMF thì quy mô rửa
tiền trên thế giới chiếm khoảng từ 2-5% GDP toàn thế giới, khoảng một nghìn tỷ
USD/năm. Riêng ở Mỹ mỗi ngày có khoảng 2 triệu USD được biến đổi dưới nhiều
hình thức để trở thành hợp pháp. Hậu quả của nạn rửa tiền là rất lớn, nó có thể làm
suy yếu thị trường tài chính, mất khả năng kiểm soát của các chính sách kinh tế của
nhà nước, làm sai lệch các chỉ số kinh tế như lãi suất, lạm phát, tỷ giá… và làm tổn
hại đến ngân sách nhà nước do việc thất thu đối với thuế thu nhập và chuyển tiền.
Bọn tội phạm có thể sử dụng hệ thống tài chính ngân hàng để thanh toán và chuyển
tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác, che giấu nguồn gốc và chủ sở hữu của số
tiền. Bên cạnh đó, các ngân hàng còn là nơi cất giữ tiền an toàn nhất đối với bọn tội
phạm.
Hình thức phổ biến hiện nay bọn tội phạm hay sử dụng là hình thức đòi nợ
các giao dịch ma ở nước ngoài, tiền cá độ, mua sắm các tài sản có giá trị… Các hoạt
động cá cược ở trường đua ngựa, móc ngoặc xổ số, đánh bạc tại các sòng bạc lớn,
mua sắm ô tô, máy bay, bất động sản hay chơi chứng khoán… đều bị coi là hoạt
động rửa tiền phi pháp.
• Tình trạng gian lận thẻ tín dụng
Do tính chất của thẻ tín dụng là không biết được người rút tiền có phải là chủ
thẻ hay không mà chủ yếu dựa vào việc kiểm tra số PIN ở trên thẻ nên các chủ thẻ dễ
bị lừa ăn cắp thẻ cùng với số PIN. Việc để lộ số PIN có thể là do chủ thẻ vô tình để
lộ hoặc bị ăn cắp một cách tinh vi.
Bên cạnh đó, chủ thẻ còn gặp phải tình trạng làm giả thẻ tín dụng ngày càng
tinh vi. Việc làm giả thẻ có thể tiến hành theo hai hình thức. Đối tượng làm giả thẻ
có thể mua chuộc nhân viên tại các địa điểm chấp nhận thẻ để các nhân viên này sau

khi bị quét thẻ tính tiền sẽ bí mật quét thêm một lần vào một thiết bị đặc biệt có thể
đọc được toàn bộ thông tin về thẻ. Sau khi có đầy đủ thông tin đó, chúng sẽ nhanh

19


chóng làm một chiếc thẻ tương tự và tiến hành mua bán hàng hóa như bình thường.
Hình thức thứ hai tinh vi hơn là chúng sẽ cài thẳng những con Chip điện tử tinh vi
vào trong máy tính tiền hoặc máy rút tiền tự động. Sau đó chúng sẽ quay lại những
địa điểm trên để lấy những con chíp đã chứa các thông tin về các thẻ đã giao dịch và
làm thẻ giả với những thông tin đã lấy cắp được.
- Dịch vụ NHĐT còn một hạn chế nữa là nó đòi hỏi các khách hàng phải có
một trình độ nhất định về mạng Internet, máy tính và khoa học công nghệ… Do đó,
đối với rất nhiều khách hàng thì sử dụng dịch vụ NHĐT là cả một vấn đề khó khăn
và phức tạp so với dịch vụ ngân hàng truyền thống.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT
2.2.3.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin
Trong những năm qua, sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin
đã tạo ra những ảnh hưởng vô cùng lớn đến nền kinh tế nói chung và các hoạt động
dịch vụ tài chính nói riêng. Công nghệ thông tin đang dần thay thế việc xử lý bằng
giấy tờ tại tất cả các ngân hàng trên thế giới. Việc sử dụng công nghệ thông tin một
cách hợp lý đã, đang và sẽ giúp các ngân hàng xử lý thông tin kịp thời, chính xác,
giảm thiểu chi phí, tăng lợi nhuận, và nâng cao chất lượng phục vụ ngân hàng.
Có thể nói sự phát triển của khoa học công nghệ là tiền đề phát triển các dịch
vụ ngân hàng chất lượng cao và sự ra đời của các dịch vụ NHĐT là sản phẩm điển
hình của sự phát triển công nghệ thông tin và viễn thông. Trong quá trình lịch sử bắt
đầu từ hình thức nối mạng giữa các trung tâm cung cấp dịch vụ thanh toán với các
điểm thanh toán bán hàng (EFT POS), truyền hình cáp, dịch vụ ngân hàng tại nhà,
Internet Banking, dịch vụ ngân hàng không dây (Mobile Banking), yếu tố khoa học
công nghệ sẽ tiếp tục là một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong sự phát triển của

công nghệ ngân hàng nói chung và các dịch vụ ngân hàng nói riêng.
2.2.3.2. Sự phát triển của TMĐT
Trước tiên, có thể khẳng định NHĐT ra đời là dựa vào sự phát triển mạnh mẽ
của TMĐT. Xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các doanh nghiệp trên thế
giới cũng như ở Việt Nam đã buộc họ phải luôn luôn tiếp cận với những thành tựu
mới của khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của

20


khách hàng. Việc áp dụng TMĐT vào hoạt động kinh doanh trở thành một yêu cầu
tất yếu đối với tất cả doanh nghiệp vì TMĐT đem lại lợi ích tiềm tàng cho họ.
Những tác động to lớn của TMĐT đối với các doanh nghiệp là điều không
phải bàn cãi và ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thương mại
điện tử đã đưa đến cho ngành ngân hàng một loại hình dịch vụ mới, nhanh chóng và
hiệu quả: Dịch vụ Ngân hàng điện tử
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của ngành công nghệ thông tin đã làm cho
các nền kinh tế xích lại gần nhau, không có sự phân cách về mặt địa lý, không gian
và thời gian. Sự phát triển của TMĐT đã tác động đến ngân hàng, đặt cho ngành
ngân hàng những thách thức và cơ hội mới.
TMĐT tạo nên hình thức cạnh tranh mới, buộc ngân hàng phải cung cấp
những dịch vụ mà khách hàng cần, quyết định quy mô các chi nhánh ngân hàng
trong hệ thống và mở rộng hệ thống thanh toán liên ngân hàng.
Sự tham gia của TMĐT cũng làm nảy sinh các vấn đề công nghệ của ngân
hàng. Các ngân hàng giải quyết được những thách thức này sẽ quyết định được sự
ảnh hưởng của mình đối với thị trường điện tử hóa.
Trước yêu cầu đó, ngân hàng đã cho ra đời nhiều dịch vụ mới: Dịch vụ ngân
hàng qua điện thoại sử dụng mã số cá nhân, hoặc nhận dạng giọng nói; dịch vụ ngân
hàng qua mạng Internet, khách hàng chỉ cần một máy tính cá nhân nối mạng Internet
là có thể thực hiện giao dịch với ngân hàng mà không cần phải trực tiếp đến ngân

hàng. Những dịch vụ này đã đưa đến một thực tế là, thế giới ngày nay có một loại
hình dịch vụ ngân hàng mới: Dịch vụ NHĐT.
2.2.3.3. Môi trường pháp lý
Trong sự phát triển của bất kỳ khu vực kinh tế hoặc ngành nghề nào, môi
trường pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng và mang tính chất quyết định.
Đối với khu vực tài chính ngân hàng, môi trường pháp lý càng đóng vai trò quan
trọng hơn vì khu vực tài chính ngân hàng luôn được coi là bộ phận cấu thành phát
triển nền kinh tế xã hội và cũng là khu vực chịu sự giám sát nghiêm ngặt nhất. Trong
từng nước, các ngân hàng chỉ có thể áp dụng dịch vụ NHĐT khi tính pháp lý của nó
được thừa nhận (biểu hiện cụ thể bằng sự thừa nhận pháp lý giá trị của các giao dịch

21


điện tử, thanh toán điện tử, chứng từ điện tử…) và có các cơ quan xác nhận (chứng
nhận chữ ký điện tử). Môi trường pháp lý ổn định sẽ có tác động tích cực đến sự phát
triển của các loại hình dịch vụ mới này vì nó sẽ đảm bảo các hoạt động của chính
mình bằng hệ thống pháp luật của quốc gia mình. Chính vì vậy môi trường pháp lý
của mỗi quốc gia đòi hỏi ngày càng hoàn thiện hơn, ổn định hơn để đảm bảo thông
suốt các hoạt động của NHĐT.
Theo xu hướng chung trên thế giới hiện nay, các quy chế và rào cản pháp lý
đều được chỉnh sửa theo hướng đơn giản hóa, nới lỏng (deregulation) hoặc bãi bỏ 1,
đây là một xu thế có lợi thúc đẩy các ngân hàng tìm tòi và phát triển những loại hình
dịch vụ mới như NHĐT trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, việc nới lỏng
hay bãi bỏ các rào cản pháp lý trong bối cảnh phát triển của loại hình dịch vụ mới
này sẽ làm nảy sinh những vấn đề pháp lý kèm theo. Ví dụ, ngân hàng Trung Ương
sẽ phải điều chỉnh luật ngân hàng và các quy chế hiện hành như thế nào để phù hợp
với tình hình phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng mới? Công tác kiểm tra giám
sát các hoạt động ngân hàng cần chỉnh sửa sao cho đảm bảo rằng những dịch vụ ngân
hàng mới không làm tăng khả năng rủi ro trong hoạt động ngân hàng? Các ngân hàng

thương mại cần áp dụng biện pháp phòng ngừa rủi ro để đảm bảo an toàn tiền gửi
của khách hàng sử dụng dịch vụ NHĐT?
2.2.3.4. Trình độ dân trí
Sự ra đời của TMĐT đã làm thay đổi cơ bản môi trường cạnh tranh truyền
thống trong khu vực ngân hàng; đồng thời cũng làm thay đổi dần những thói quen sử
dụng dịch vụ của người dân: Chuyển từ những giao dịch trực tiếp với ngân hàng
sang những giao dịch trực tuyến trên mạng nhanh chóng và tiết kiệm thời gian hơn
nhiều. Tuy nhiên, những giao dịch trực tuyến như vậy đòi hỏi người dân phải có
trình độ về công nghệ thông tin nhất định. Do đó, trình độ dân trí ảnh hưởng rất
nhiều đến việc triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
2.2.3.5. Nguồn nhân lực
Khi phát triển dịch vụ NHĐT, các ngân hàng có thể giảm đáng kể được nguồn
nhân lực do có nhiều công đoạn được tự động hóa và có máy móc hỗ trợ đắc lực.
Nhưng cũng chính điều này đòi hỏi mỗi nhân viên ngân hàng phải trang bị cho mình
1

Tina Harrison, Marketing dịch vụ tài chính, Nhà xuất bản Pearson, Education, limited 2000

22


những kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm
việc bằng các phương tiện điện tử, đồng thời các nghiệp vụ ngân hàng càng cần phải
nắm chắc hơn vì họ không còn làm việc trực tiếp với khách hàng nữa. Ngoài ra các
ngân hàng còn cần có đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh. Con người luôn là yếu
tố quyết định sự thành công của bất cứ hoạt động nào, phát triển nhân lực mạnh mẽ
sẽ góp phần to lớn vào thành công của NHĐT.
2.2.3.6. Môi trường cạnh tranh
Cùng với yếu tố pháp lý được điều chỉnh, bổ sung theo hướng có lợi cho ngân
hàng trong việc tạo dựng khung pháp lý khuyến khích phát triển các loại hình dịch

vụ mới, yếu tố cạnh tranh đã thực sự thúc đẩy ngân hàng trong việc tìm tòi ra phương
thức tạo lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh. Chỉ có cạnh tranh các ngân hàng mới tự
đổi mới mình để khỏi bị tụt hậu so với các ngân hàng khác. Càng cạnh tranh nhiều,
các ngân hàng càng phải hoàn thiện mình hơn nữa, đưa ra các dịch vụ tốt hơn, hoàn
hảo hơn, nhiều tiện ích hơn để có thể thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Khi các ngân hàng được coi là các thể chế trung gian tài chính trong hệ thống,
một điều không thể phủ nhận được là hiện nay các ngân hàng thành viên trong hệ
thống ngân hàng đều có thể cung cấp các dịch vụ tương tự như nhau. Với cùng một
số lượng khách hàng, điều làm cho giới lãnh đạo quan tâm nhiều nhất là làm sao phát
triển những loại hình dịch vụ mới, những hình thức phục vụ khách hàng được tốt
hơn, qua đó thu hút được nhiều khách hàng và tạo được mối quan hệ lâu dài với
khách hàng.
Trong thực tế hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa hệ thống ngân
hàng và các thành viên phi ngân hàng tham gia hệ thống là yếu tố thúc đẩy sự phát
triển dịch vụ ngân hàng mới, trong đó có các hình thức của NHĐT. Xu hướng ngân
hàng lựa chọn hình thức phát triển NHĐT làm trọng tâm cho chiến lược phát triển
của mình càng làm vấn đề cạnh tranh trở nên gay gắt và phức tạp. Theo truyền thống
phát triển, ngân hàng sẽ đạt được lợi thế cạnh tranh khi mở rộng chi nhánh tại các
khu vực địa lý khác nhau nhằm thu hút được khách hàng sở tại và trên thực tế, việc
thành lập thêm các chi nhánh hoặc ngay cả sự hiện diện của ngân hàng đó tại địa

23


phương cũng đã là một hình thức quảng bá cho uy tín của ngân hàng và các khách
hàng tiềm năng cũng nhận thức được điều này.
Tuy nhiên, sự ra đời của TMĐT đã làm thay đổi cơ bản môi trường cạnh tranh
truyền thống trong khu vực ngân hàng. Trong khi trước đây khách hàng có thể dễ
dàng so sánh chất lượng dịch vụ của các ngân hàng khi tới giao dịch trực tiếp tại các
chi nhánh thì nay khách hàng khó quyết định sử dụng dịch vụ của ngân hàng nào vì

hầu như ngân hàng nào cũng có thể cung cấp các dịch vụ NHĐT tương tự như nhau.
Khách hàng có thể sử dụng thử dịch vụ NHĐT của từng ngân hàng để tự quyết định
xem sẽ sử dụng dịch vụ của ngân hàng nào nhưng điều này cũng không phải dễ dàng
một khi các ngân hàng đều lựa chọn dịch vụ NHĐT là chiến lược kinh doanh trọng
tâm trong tương lai và sẽ tìm mọi cách để giữ khách hàng của mình. Ranh giới mỏng
manh của lợi thế cạnh tranh giữa các ngân hàng cung cấp dịch vụ NHĐT sẽ làm cho
khách hàng gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn ngân hàng phục vụ.
2.3. Các dịch vụ ngân hàng điện tử chủ yếu
2.3.1. Ngân hàng tại nhà (Home Banking)
Home Banking là kênh phân phối dịch vụ của ngân hàng điện tử, cho phép
khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch chuyển khoản với ngân hàng (nơi khách
hàng mở tài khoản) tại nhà, tại văn phòng công ty mà không cần đến ngân hàng. Hệ
thống này giúp khách hàng tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí vì họ không cần
phải đến giao dịch trực tiếp tại ngân hàng. Khách hàng sẽ có nhiều thời gian hơn tập
trung vào các hoạt động kinh doanh của mình, cũng không cần phải lo lắng về các
loại giấy tờ sổ sách phức tạp. Với sự giúp đỡ của dịch vụ này, việc giao dịch với
khách hàng giờ đây chỉ còn là việc bấm bàn phím máy tính vào thời điểm thuận tiện
nhất đối với mình.
Dịch vụ Home Banking cho phép thực hiện 3 chức năng chính sau:
- Chuyển tiền: Chức năng này cho phép khách hàng có thể lập lệnh chuyển
thanh toán cho bên thứ ba có tài khoản tại bất cứ một ngân hàng nào trên thế giới
hoặc làm lệnh chuyển tiền giữa các tài khoản của chính mình.
- Xem số dư và các giao dịch trên tài khoản: Khách hàng được cập nhật các
thông tin về số dư tài khoản cũng như các giao dịch trên tài khoản của mình, từ đó có

24


thể tự tin báo cáo tài khoản bất cứ lúc nào và thậm chí còn có thể chuyển thông tin,
dữ liệu sang các phần mềm ứng dụng khác như Excel, Word.

- Thư tín dụng: Chức năng này cho phép khách hàng có thể điền vào mẫu thư
tín dụng và chuyển đến Ngân hàng.
Để sử dụng dịch vụ Home Banking, khách hàng cần có máy tính với cấu hình
phù hợp, modem, đường điện thoại truy cập và một chương trình phần mềm đặc biệt
do Ngân hàng cung cấp. Khi sử dụng dịch vụ, khách hàng quay số trực tiếp để kết
nối với ngân hàng qua đường điện thoại thông thường. Sau khi nhập mã số sử dụng
(Username), mật khẩu (Password), khách hàng sẽ có quyền thực hiện các giao dịch
ngân hàng từ máy tính cá nhân tại nhà hoặc văn phòng của mình.
Các phần mềm của dịch vụ Home Banking có thể hoạt động được trong môi
trường Window nên sử dụng nó khá đơn giản và thuận tiện. Khách hàng chỉ cần nhập
các dữ liệu trên mẫu lệnh chuyển tiền hay thư tín dụng trên máy tính đã được cài đặt
sẵn phần mềm dịch vụ Home Banking tại nhà hoặc tại văn phòng của mình. Sau đó,
các lệnh yêu cầu này sẽ được chuyển một cách an toàn tới ngân hàng thông qua
đường dây điện thoại có nối với Modem tại nhà hoặc văn phòng. Ngân hàng sẽ thực
hiện các lệnh yêu cầu của khách hàng ngay sau khi nhận được dữ liệu thông qua hệ
thống thanh toán nối mạng toàn cầu như SWIFT (The Social For Worldwide
Interbank Financial Telecommunication) hay Telex. Phần mềm của dịch vụ Home
Banking có thể được cài đặt trên mạng nội bộ (Local Area Network hay còn gọi là
mạng LAN) hoặc trên một máy tính độc lập.
Ứng dụng và phát triển Home Banking là một bước tiến mau mắn của các
ngân hàng thương mại Việt Nam trước các sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn
cầu về dịch vụ ngân hàng. Đứng về phía khách hàng, Home Banking đã mang lại
những lợi ích thiết thực: Nhanh chóng, an toàn, thuận tiện và khẩu hiệu “Dịch vụ
ngân hàng 24 giờ mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà ngân
hàng “hành chính” truyền thống không thể nào sánh được. Hiện nay dịch vụ Home
Banking tại Việt Nam đã được nhiều ngân hàng triển khai và ứng dụng rộng rãi như:
Ngân hàng Á Châu, NHCT Việt Nam, NHNT Việt Nam, ngân hàng kỹ thương Việt
Nam, ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam.

25



×