Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học quần xã động vật phù du và đánh giá chất lượng môi trường nước hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

--------------



-------------

LÊ THỊ NGUYỆT NGA

Đề tài: Nghiên cứu đa dạng sinh học quần xã động vật phù du và đánh giá chất
lượng môi trường nước hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng

Chuyên ngành: Sinh thái học

Cán bộ hướng dẫn:

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

--------------



-------------

HVCH: LÊ THỊ NGUYỆT NGA



ĐỀ CƢƠNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Tên đề tài: Nghiên cứu đa dạng sinh học quần xã động vật phù du và đánh giá
chất lượng môi trường nước hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số chuyên ngành: 60 42 01 20
Mã số học viên: 13 65 005

Xác nhận của cán bộ hướng dẫn

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2015


MỤC LỤC
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ. ........................................................................................................... 3

II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC ........... 4
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ............................................................................ 4
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước............................................................................. 6
III. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ........................................................ 11
3.1. Mục tiêu ................................................................................................................. 11
3.2. Nội dung................................................................................................................. 11
IV. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU .............................. 11
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................ 11
4.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu .......................................................................... 11
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................. 13

5.1. Phương pháp khảo sát thực địa .............................................................................. 13
5.2. Phương pháp phân tích mẫu vật ............................................................................. 15
5.3. Phương pháp xử lý số liệu, các chỉ số sinh học được sử dụng .............................. 15
Chỉ số ô nhiễm nên chọn lọc một số chỉ số phù hợp như Pantle-Buck, Zelinka-Marvan
(xem Chi thị sinh học)................................................................................................... 17
5.4. Phương pháp xây dựng bản đồ............................................................................... 18
VI. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN ............................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 19


I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Tính cấp thiết của Đề tài: Hồ Đankia nằm trên địa phận xã Lát, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng cách trung tâm Tp. Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng) 20 km về hướng Tây Bắc, hồ
Đankia ở trên và Ankroet ở dưới cùng chắn dòng sông Đa Dung bắt nguồn từ núi LangBiang bởi hai đập cùng tên Ankroet. Hồ được xây dựng qua hai giai đoạn 1945 và 1953
bởi chính quyền Pháp và người Nhật, với diện tích lưu vực khoảng 135 km2, diện tích
mặt hồ khoảng 2,45 km2, mực nước lớn nhất 1421,8m, mực nước thấp nhất 1413,8m. Hồ
Đankia nằm ở khu vực có độ cao trung bình khoảng 1.500 m so với mực nước biển và
thuộc vùng có tính chất khí hậu tiểu vùng ôn đới. Đến năm 1984, nhà máy xử lý nước từ
hồ phục vụ cấp nước sinh hoạt được xây dựng với sự tài trợ của Chính phủ Đan Mạch.
Nguồn nước mặt của hồ chủ yếu từ sông Đa Dung chảy vào, nhánh chính đổ vào hồ
ĐanKia và hồ Suối Vàng, sau đó đổ về sông Đa Dâng (huyện Lâm Hà), đây là sông đầu
nguồn hệ thống sông Đồng Nai. Sông Đa Dung và sông Đa Nhim là hai nhánh thuộc hệ
thống sông Đồng Nai. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ dãy núi Lâm Viên, Bi Đúp trên cao
nguyên Lang Biang, với tổng chiều dài dòng chính là 628km, kể từ thượng lưu Đa Nhim
đến cửa Soài Rạp. Phần trung lưu sông Đồng Nai được bắt đầu từ hợp lưu sông Đa Nhim
và Đa Dung đến đập thuỷ điện Trị An, với chiều dài 300km. Hạ trung lưu được tính từ
sau đập thuỷ điện Trị An đến cửa Soài Rạp, có chiều dài 150km, và đổ ra biển qua hai
phân lưu chính: sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp.
Thượng nguồn hồ Đankia là các bãi cỏ tương đối bằng phẳng bị chia cắt bởi dòng sông
Đa Dung, đây là nơi chăn thả các loại gia súc của dân cư trong vùng như: trâu, bò, dê…

Dân cư quanh khu vực này hiện nay rất thưa thớt. Đa số người dân ở đây sống bằng nghề
nông và lao động làm thuê, một số hộ kinh doanh giải khát và mua bán nhỏ.
Trước đây, hệ sinh thái của hồ Đankia được đánh giá là rất đa dạng và phong phú. Tuy
nhiên, trong thời gian gần đây tình trạng khai thác cát bừa bãi, không có quy trình, không
đúng khoa học trên dòng sông Đa Dung (suối Vàng) và trong phạm vi lòng hồ đã gây tác
động xấu đến môi trường sinh thái như: ô nhiễm nguồn nước, sạt lở bờ sông gây mất đất
ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của người dân trong vùng. Tình trạng xói mòn, rửa
trôi do canh tác trên đất dốc, hay nuôi trồng thủy sản ở phía thượng nguồn cũng đang
diễn ra mạnh mẽ. Theo ông Nguyễn Văn Dũng, Quản đốc Nhà máy Nước Suối Vàng,
tình trạng ngổn ngang rác đổ về hồ Đankia đã kéo dài từ năm 2008 đến nay, công ty đã
đối phó bằng một số giải pháp tình thế nhưng lượng rác giảm vẫn không đáng kể. Đó là
những nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm nguồn nước. Bên cạnh đó, từ năm 1997 cho
tới nay, việc đầu tư xây dựng khu du lịch Đankia - Suối Vàng đã và đang được thực hiện,
2


mặc dù đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh, tuy
nhiên cũng đang tác động không nhỏ đến hệ sinh thái hồ và các vùng lân cận.
Gần đây nhất, dự án nạo vét lòng hồ Đankia nhằm cải thiện tình trạng thiếu nước sinh
hoạt của thành phố Đà Lạt vào mùa khô. Bên cạnh những hiệu quả thiết thực mang lại đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, thì công tác nạo vét lòng hồ đã gây ra những tác động
tiêu cực đáng kể đến môi trường sở tại và môi trường xung quanh. Việc nạo vét lòng hồ
tác động rất lớn đến hệ sinh thái thuỷ sinh, có thể sẽ làm biến đổi hệ sinh thái, lấy đi các
loài động thực vật thuỷ sinh có lợi và có hại đã thích nghi, tồn tại rất lâu trong lòng hồ;
trong đó đặc biệt quan trọng đối với các loài động thực vật thuỷ sinh có khả năng tự xử lý
nước. Một số những tác động như: đất đá rơi, xói lở làm tăng độ đục hoặc làm giảm diện
tích mặt nước cũng là những nguyên nhân gây suy giảm đa dạng sinh học.
Vì vậy, để có được các giải pháp giảm thiểu hiệu quả các tác động tiêu cực đối với chất
lượng nước ở các hồ, đặc biệt là các hồ cung cấp nước sinh hoạt, thì điều đầu tiên cần
làm là đánh giá hiện trạng về mức độ đa dạng thành phần loài và độ phong phú của các

quần xã thủy sinh vật trong hồ. Trên cơ sở đó theo dõi diễn biến chất lượng nguồn nước
mặt, và đánh giá tác động của các chất ô nhiễm lên hệ thủy sinh. Từ trước đến nay, cũng
đã có những nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá chất lượng nước ở hồ Đankia, tuy
nhiên hầu hết các nghiên cứu đó cũng chỉ dừng lại ở việc đánh giá chất lượng nước thông
qua các chỉ tiêu lý hóa. Có nhiều nguyên nhân cho thấy rằng việc nghiên cứu hệ thủy sinh
vật là thực sự cần thiết để đánh giá chất lượng nước, một số nguyên nhân chính đó là: (1)
Cung cấp số liệu chính xác để đánh giá diễn biến chất lượng nước trong quá khứ và trong
tương lai; (2) đánh giá tác động của các chất ô nhiễm từ các nguồn xả thải khác nhau,
thông qua tình trạng sức khỏe của hệ thủy sinh vật; (3) Làm cơ sở cho việc dự báo khả
năng phục hồi và thời gian phục hồi của nguồn nước tại khu vực nghiên cứu.
Từ những lý do nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu đa dạng sinh học quần xã động vật phù
du và đánh giá chất lượng môi trường nước hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm
Đồng” được đề xuất, nhằm đi sâu nghiên cứu cấu trúc thành phần loài, mật độ cá thể, các
loài ưu thế, biến động thành phần loài theo mùa, theo năm và tính toán các chỉ số sinh
học của quần xã động vật phù du, trên cơ sở đó đánh giá chất lượng nước và diễn biến
chất lượng nước tại khu vực nghiên cứu.
Giới thiệu về quần xã Động vât phù du (Zooplankton): Zooplankton là những sinh vật
không xương sống có kích thước từ vài chục μm (protozoa) đến hơn 2mm
(macrozooplankton), sống trôi nổi trong các thủy vực như hồ, sông, đại dương…. Quần
xã động vật phù du trong các thủy vực nước ngọt chủ yếu là động vật nguyên sinh, luân
trùng, giáp xác râu ngành, giáp xác chân chèo, giáp xác có vỏ (Lampert, 1997). Ở các hồ
3


tự nhiên, giáp xác và luân trùng là hai nhóm động vật phù du chiếm ưu thế về năng suất
và sinh khối. Ngoài ra, các loài giáp xác bơi nghiêng, một vài loài thuộc ngành động vật
có khoang, ấu trùng sán lá dẹp, chân bụng, ấu trùng côn trùng cũng trải qua giai đoạn
động vật phù du trong quá trình sống của mình (Wetzel, 2001). Động vật phù du là một
mắt xích quan trọng của chuỗi thức ăn trong thủy vực, chúng là cầu nối giữa nhóm sinh
vật sản xuất (thực vật phù du– phytoplankton) với các bậc dinh dưỡng cao hơn.

Các nhóm loài kích thước nhỏ như luân trùng, có mối liên hệ mật thiết với hàm lượng
chất dinh dưỡng trong thủy vực, chúng giữ vai trò như những bộ máy lọc nước thông qua
việc sử dụng chất dinh dưỡng làm nguồn thức ăn, các nhóm loài khác với kích thước lớn
hơn được coi là nguồn thực phẩm quan trọng cho cá và các dạng ấu trùng của cá. Một số
nhóm loài động vật phù du rất nhạy cảm với sự biến đổi của đặc tính môi trường nước,
chúng được coi là những sinh vật chỉ thị tốt cho điều kiện thủy vực dưới các tác động bất
lợi như sự suy giảm hàm lượng oxy hòa tan, sự gia tăng mức độ dinh dưỡng trong thủy
vực, hay sự hiện diện của các loại độc chất trong môi trường. Những nhóm động vật phù
du chính như Crustacea, Eurotatorea có thể được sử dụng một cách hiệu quả trong việc
đánh giá chất lượng môi trường nước (Crivelli and Catsadorakis, 1997).
II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nƣớc
Trên thế giới, thủy sinh học bắt đầu được nghiên cứu từ cuối thế kỷ 18 và hoạt động
nghiên cứu thủy sinh học nước ngọt thực sự chỉ bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX với những
nghiên cứu về động vật giáp xác nhỏ trong nước hồ ở Đức, rồi đến những nghiên cứu ở
Bắc Mỹ, Thụy Điển, Đan Mạch. Một bước phát triển tiếp theo của thủy sinh học nước
ngọt được đánh mốc đó là: từ những năm đầu của thế kỷ 20, các nghiên cứu bắt đầu tiếp
cận tới các vấn đề lý luận về chu trình vật chất trong thủy vực với sự tham gia của thủy
sinh vật, năng suất sinh học của thủy vực, cơ chế, mối quan hệ và hệ quả của các quá
trình chuyển hóa vật chất và năng lượng trong thủy vực – được coi như một hệ sinh thái ở
nước.
Một số nghiên cứu tiên phong như: Cross & Fisher (1863), Morlet (1886) về trai, ốc nước
ngọt, hay Sauvage (1877), Pellegrin (1905) về cá biển. Giai đoa ̣n nghiên cứu khu hê ̣ thủy
sinh vâ ̣t , các tác giả có đóng góp quan trọng như : Audonin & Edwards (1832), Sars
(1835), Forbes (1844) công bố về sinh vâ ̣t nổ i và sinh v ật đáy ở biể n . Sang giai đoa ̣n
nghiên cứu sinh thái ho ̣c , các tác giả điển hình như : Lorenj (1877), Moebius (1877),
Walther (1893-1894), Zernov (1912). Và giai đoa ̣n nghiên cứu đinh
̣ lươ ̣ng , một số tác giả
như: Hensen (1877) nghiên cứu định lượng về thủy sinh vật nổi , Petersen (1908) nghiên
4



cứu định lượng về thủy sinh vật đáy . Tiếp sau đó là các công bố của Chabanaud &
Chevey (1926-1932), Pellegrin (1923-1934), Chevey & Lemasson (1937) về đa da ̣ng sinh
học. Các trạm nghiên cứu về thủy sinh nước ngọt đã bắt đầu được xây dựng đầu tiên ở
Đức, 1890 và sau đó là ở Nga, 1891.
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp để tính toán các chỉ số nhằm đánh giá chất lượng môi
trường nước tại một con sông, lưu vực hay một vùng. Mỗi phương pháp đều có những
ưu, nhược điểm riêng, và chỉ thích hợp áp dụng cho một vài vùng đặc trưng tùy theo mục
đích nghiên cứu. Trong đó, phương pháp đánh giá chất lượng nước theo chỉ thị sinh học
đã được bắt đầu nghiên cứu cách đây khá lâu bởi Kolenati (1848), Hassal (1850) và Cohn
(1853). Họ đã phát hiện ra có sự khác biệt lớn giữa các sinh vật sống trong môi trường
nước ô nhiễm với các sinh vật sống trong môi trường nước sạch và dựa vào đặc trưng đó
để đánh giá chất lượng nước.
Tiếp tục những năm về sau, có rất nhiều phương pháp đã được xây dựng và sử dụng vào
việc đánh giá chất lượng môi trường nước sinh học (Sládecék, 1973a, 1973 b; Pittwell,
1976; Persoone và De Pauw, 1979; Illies và Schmitz 1980; Rosenberg và Resh, 1992; De
Pauw và Hawkes, 1993; Davis và Simon, 1995).
Hướng nghiên cứu xây dựng các chỉ số sinh học và việc đánh giá chất lượng nước dựa
vào hệ thống các chỉ số sinh học ngày càng quan tâm và được ứng dụng rộng rãi ở nhiều
quốc gia khác nhau trên thế giới. Đặc biệt là ở Úc, Đức và gần đây là ở các nước Đông
Âu như: Hungari, Ba Lan, Rumani, Bungari, Cộng Hoà Séc và một số quốc gia Châu Âu
khác như Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển,… Sự thành công của các nghiên cứu này chủ
yếu phụ thuộc nhiều vào năng lực của hệ sinh thái, cụ thể là mối tương quan giữa sự
sống, tồn tại của các sinh vật với môi trường sống của chúng.
Một số chỉ số sinh học đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới:
 Chỉ số sinh học Trent (Caim) (1968), Woodiwiss (1964)
Chỉ số này dựa vào số lượng các bậc phân loại khác nhau của động vật không xương
sống đáy trong mối tương quan với sự có mặt của sáu (6) sinh vật then chốt được tìm
thấy trong khu hệ động vật của vị trí thu mẫu.

 Bước phát triển tiếp theo Chỉ số sinh học Chandler (1970)
Thu mẫu nhóm động vật không xương sống. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là
chỉ áp dụng cho một loài thủy sinh vật sống đáy, các loài thủy sinh vật nổi không ứng dụng
được.
 Chỉ số sinh học BMWP ( Biological Monitoring Working Party Score)
5


Khởi nguồn bởi Hellawell, 1986; Abel, 1989, được áp dụng lần đầu tiên ở Anh quốc. Phụ
thuộc vào nhóm động vật không xương sống cỡ lớn nói chung.
 Chỉ số thể hiện sự đa dạng của quần xã sinh vật
Một trong những chỉ số đa dạng hay được dùng nhất là chỉ số đa dạng Shannon-Wiener.
Ở Nepal, nghiên cứu trên dòng sông Nepalese về “Điều tra hiện trạng sinh học (các quần
xã sinh học) của dòng sông này và từ đó phân loại chất lượng nước thành 7 cấp dựa vào
các sinh vật biểu thị ô nhiễm truyền thống. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu chủ
yếu đã dựa vào các động vật đáy không xương cỡ lớn để đưa ra phương pháp đánh giá chất
lượng nước sinh học và chúng được sử dụng như một công cụ quản lý môi trường nước
sông.
Nghiên cứu của Sangpradub, N. & B. Boonsoong, 2006. Identification of freshwater
invertebrates of the Lower Mekong River and its tributaries. Mekong River Commission,
Vientiane. Mô tả chi tiết về đặc điểm của các động vật không xương sống vùng nước
ngọt thuộc hạ lưu sông Mekong và cách nhận diện chúng.
Năm 2010, Ủy ban sông Mê Công xuất bản công trình “Biomonitoring Methods for the
Lower Mekong Basin, Mekong River Commission”. Trong đó mô tả cụ thể các nhóm chỉ
thị sinh học trong các mẫu thu ở vùng hạ lưu sông Mekong năm 2008, và sử dụng các chỉ
số sinh học của các nhóm chỉ thị để đánh giá các điểm quan trắc.
Như vậy, có thể thấy rằng các hướng nghiên cứu hiện nay trên thế giới không chỉ dừng
lại ở việc mô tả, phân loại cơ bản, mà còn đi sâu vào tìm hiểu về vai trò , mố i quan hê ̣
thủy sinh vật trong hệ sinh thái , các cơ chế biến đổi bên trong quần thể sinh vật, sự thích
nghi và mối liên quan của chúng với môi trường, các quá trính sinh học trong thủy vực,

thông qua đó nhằm xác định sự thay đổi bên trong hệ sinh thái.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Ở nước ta, viê ̣c đánh giá chấ t lươ ̣ng môi trường nước dưới góc đô ̣ sinh ho ̣c cũng đã được
quan tâm từ rất sớm. Hoàn toàn đúng khi nhận định rằng giữa chất lượng môi trường
nước và cấu trúc thành phần loài các nhóm sinh vật thuỷ sinh có quan hệ chặt chẽ với
nhau và được thể hiện thông qua các chỉ số sinh học. Cụ thể, một số chỉ số sinh học
thường được sử dụng như: chỉ số độ đa da ̣ng sinh ho ̣c Shannon-Wiener (H') (1949), mô tả
mố i quan hê ̣ giữa cấ u trúc đinh
̣ tiń h và đinh
̣ lươ ̣ng của quầ n xã sinh vâ ̣t , chỉ số đa dạng
sinh học Shimpson (1949) chỉ ra mức độ chiếm ưu thế của các nhóm loài , chỉ số ưu thế
Berger - Parker (1970) đánh giá tính đa dạng và mức độ bền vững của quần xã, chỉ số
“giá trị tính đa dạng” (Dv) của Chen Quingchao et all, 1994 hay chỉ số đa dạng sinh học
6


Margalef (D) (1961) cũng được sử dụng để đánh giá mức độ đa dạng cho các nhóm sinh
vật khác nhau trong quần xã, và phân loại mức độ ô nhiễm của thuỷ vực. Chỉ số cân bằng
Pielou (1966) (J') phản ánh mức đô ̣ ổ n đinh
̣ của quầ n xã sinh vâ ̣t và tiń h đố i lưu , trao đổ i
nước với lưu vực lân câ ̣n, chỉ số ABC (Abundance Biomass Comparison Curves) thể hiê ̣n
mố i quan hê ̣ giữa số lươ ̣ng và khố i lươ ̣ng sinh vâ ̣ t trong mô ̣t thủy vực , chỉ số tương đồng
Sorensen (1948) phản ánh mức độ gần gũi về thành phầ n loài sinh vâ ̣t giữa hai điể m thu
mẫu, từ đó góp phần đánh giá sự đồ ng nhấ t về tính chất môi trường nước giữa hai điể m
khảo sát, v.v…
Từ năm 1963 đến năm 1965, tác giả Shirota đã mô tả các loài động vật phù du từ vùng
biển Thuận An đến Phú Quốc trong “The Plankton of South Vietnam”, xuất bản năm
1966. Trong nghiên cứu của Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm văn Miên xuất bản
năm 1980, cũng đã mô tả về các loài động vật không xương sống trong đó có động vật
phù du.

Một số những nghiên cứu có sử dụng các chỉ số sinh học của thủy sinh vật phải kể đến
như: Ở phía Bắc, nghiên cứu đánh giá chất lượng nước sông Cầu, sông Nhuệ của tác giả
Nguyễn Vũ Thanh, tiếp đến là nghiên cứu sử du ̣ng chỉ số BMWP để đánh giá chấ t lươ ̣ng
nước ở các sông suố i thuô ̣c Tam Đảo /Hà Nội và Đà Lạt của các tác giả Nguyễn Xuân
Quýnh, Mai Điǹ h Yên , Clive Pinder và Steve Tilling trong 3 năm 1998-2000. Bên cạnh
đó, cũng có rất nhiều các nghiên cứu của Phân viê ̣n Hải dương ho ̣c Hải Phòng
, của
Trường Đa ̣i ho ̣c Khoa ho ̣c Tự nhiên Hà Nô ̣i , của Viện Sinh thá i và Tài nguyên Sinh vâ ̣t
Hà Nội có sử dụng các chỉ số sinh học của sinh vật thủy sinh để đánh giá chất lượng môi
trường thủy vực.
Ở phía Nam, tác giả Đoàn Cảnh, Nguyễn Vũ Thanh đã sử du ̣ng chỉ số trung biǹ h ASPT
để đánh giá nhanh chất lượ ng nước hê ̣ sinh thái đấ t ngâ ̣p nước vùng Đồ ng Tháp Mười ,
sông Thị Vải (2004). Chỉ số sinh học theo Nematoda đã được nhóm nghiên cứu của Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, trong chương trình hợp tác với các nhà khoa học Đức sử
dụng trong đánh giá biến đổi môi trường rừng ngập mặn Cần Giờ, TP.HCM (2007).
Nghiên cứu của Lê Trình và Phạm Văn Miên (2004) cũng đã chọn một số chỉ số sinh học
như chỉ số Shannon-Wiener (H'), chỉ số của Kriuskova (1987) để đánh giá chất lượng
môi trường nước cho vùng bị nhiễm mặn từ Long Đại trên sông Đồng Nai, Nhà Rồng
trên sông Sài Gòn, Tân bửu trên rạch chợ Đệm, Bình Lợi trên kênh Ngang.
Gần đây, vào năm 2005 công trình của Nguyễn Tác An và cộng sự, dựa vào quần thể
tuyến trùng Nematoda (Giun tròn) và kết quả tính toán chỉ số đa dạng Shannon-Wiener
(H’) cho quần xã thực vật và động vật phù du đánh giá chất lượng môi trường nước một
7


số đầm, vịnh ven biển như vịnh Cam Ranh, vịnh Nha Trang, vịnh Hạ Long, đầm Nha
Phu, đầm Thị Nại...
Một trong những nghiên cứu về môi trường ở Bình Dương phải kể đến đó là: Đề tài “Điều
tra, đánh giá hiện trạng môi trường và đề xuất các giải pháp tổng hợp quản lý chất lượng
nước lưu vực sông Thị Tính – tỉnh Bình Dương”, do tác giả Trầ n Minh Trí làm chủ nhiê ̣m

(2008). Đây là một nghiên cứu công phu, trong đó có sử dụng các chỉ số sinh học và các
yếu tố hóa học để đánh giá hiê ̣n tra ̣ng chấ t lươ ̣ng nước sông Thi Ti
̣ ́nh, sau đó đưa ra các dự
báo tác động của các quy hoạch phát triển KTXH đến chất lượng nước sông Thị Tín h và
các kế hoạch hành động cho lưu vực sông Thị Tính. Từ năm 2002 đến 2012, Đỗ Thị Bích
Lộc và cộng sự, Viện Sinh học Nhiệt đới đã sử dụng chỉ số Shannon-Wiener (H') để đánh
giá mức độ đa dạng thủy sinh vật và chất lượng môi trường nước các thủy vực tỉnh Đồng
Nai.
Từ năm 2008-2010, Đoàn Cảnh và cộng sự đã sử dụng các chỉ số sinh học của một số
quần xã thủy sinh vật để đánh giá chất lượng nước sông Sài Gòn thông qua phương pháp
quan trắc sức khoẻ sinh thái. Năm 2009-2010, Đỗ Thị Bích Lộc và cộng sự cũng sử dụng
các chỉ số sinh học của một số quần xã thủy sinh vật để đánh giá chất lượng môi trường
nước sông Sài Gòn (đoạn chảy qua địa phận Bình Dương). Kết quả của 2 đề tài này đã
cho thấy được vai trò của thuỷ sinh vật trong việc dự đoán chất lượng môi trường và khả
năng ô nhiễm cục bộ cũng như khả năng tự làm sạch của các nhóm sinh vật đối với chất
lượng môi trường.
Từ năm 2003, Uỷ hội Sông Mê Công cũng đã sử dụng các chỉ số sinh vật của bốn nhóm
chỉ thị (tảo silic đáy, động vật phù du, động vật không xương sống cỡ lớn ven bờ và đáy)
để đánh giá chất lượng môi trường nước ở vùng hạ lưu. Dựa trên những kết quả quan trắc
thu được, các chuyên gia xây dựng các chỉ số sinh học dựa trên thành phần loài, mật độ
loài, loài ưu thế, loài chỉ thị, … để đánh giá chất lượng môi trường nước vùng hạ lưu
sông Mê Công.
Trong thời gian gần đây, tham gia thực hiện các chương trình quan trắc ở hạ lưu hệ thống
sông Đồng Nai (Đồng Nai), sông Thị Vải (Đồng Nai), sông Sài Gòn (TP. HCM, Bình
Dương), sông Vàm Cỏ, Sông Cần Giuộc (Long An), hay các chương trình quan trắc định
kỳ ở các thủy vực thuộc các tỉnh miền Tây Nam Bộ, các hồ ở vùng Tây Nguyên thuộc
tỉnh Lâm Đồng như Hồ Xuân Hương, Hồ Tuyền Lâm,… bằng việc kết hợp các chỉ số về
thuỷ sinh vật với các thông số hoá học để đánh giá mức độ ô nhiễm, đã cho thấy rằng khi
môi trường bị ô nhiễm hữu cơ sẽ xuất hiện những loài sinh vật nào và với mật độ dao
động là bao nhiêu, tương tự như thế khi môi trường bị nhiễm bẩn bởi các chất vô cơ thì

loài nào chiếm ưu thế trong thủy vực và với mật độ tương ứng là bao nhiêu. Điều này
8


cũng được minh chứng qua nghiên cứu của Nguyễn Xuân Quýnh, khi xác định mức độ ô
nhiễm một số thủy vực ở Hà Nội đã xem tỷ lệ thành phần loài và số lượng của một số
nhóm thủy sinh như Trùng bánh xe, giáp xác Chân chèo, giáp xác Râu ngành, ấu trùng
Chironomidae, Giun ít tơ là những chỉ số đánh giá quan trọng cho các mức ô nhiễm.
Khảo sát các hồ ở Hà Nội còn cho thấy, ở hầu hết các hồ có hàm lượng PO43- và NO3- cao
thì trong thành phần tảo, nhóm tảo Lục với các loài thuộc chi Scenedesmus thường rất
phát triển nên có thể dùng làm chỉ thị sinh học trong quan trắc chất lượng nước. Khảo sát
trong các nhóm Động vật phù du tại đây thì nhóm Rotiffera và Cladocera phát triển mạnh
nhất. Và dường như không thấy nhóm Calanoida trong các hồ này (Đặng Ngọc Thanh,
2002). Những kết quả như vậy, một lần nữa lại chứng minh thành phần loài thuỷ sinh vật
và mật độ của chúng là những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng môi trường
nước.
Trong hoạt động thực tiễn, việc phân loại trạng thái môi trường nước không chỉ dựa vào
môi trường sinh học, mà còn có môi trường hóa học và các đặc trưng khác. Ở Việt Nam,
để phân loại mức độ nhiễm bẫn (saprobic) môi trường nước, thường sử dụng bốn (4) thứ
hạng nhiễm bẫn của Kolkwitz and Marsson (1902, 1911) gồm: Polysaprobic: Rất bẩn; 
- Mesosaprobic: Bẩn vừa mức  ;  - Mesosaprobic: Bẩn vừa mức  và Oligosaprobic: Ít
bẩn, đã được lựa chọn để sử dụng. Hệ thống phân loại độ bẩn này ra đời từ đầu thế kỷ 20,
cho đến nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới và được các tổ
chức UNESCO, WHO, UNEP giới thiệu để các quốc gia sử dụng trong đánh giá chất
lượng nước (Water Quality Assessment – Chapman & Hall – 1992)
Trong bộ tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về chất lượng nước đã có bộ tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng nước bằng Động vật đáy cỡ trung (Meiobenthode), mà cụ thể là Tuyến trùng
(Nematoda). Năm 2010, Lê Hùng Anh đã “Đề xuất bộ chỉ thị sinh học cho loại hình hệ
sinh thái thuỷ vực nước chảy của Việt Nam phục vụ quan trắc môi trường lưu vực sông”.
Bộ chỉ thị sinh học đầy đủ, với các nhóm đối tượng sau: Thực vật nổi (Phytoplankton),

Thực vật bám (Periphyton), Thực vật thuỷ sinh lớn (Macrophyta), Động vật phù du
(Zooplankton), Động vật không xương sống đáy cỡ lớn (Macrobenthos), Động vật không
xương sống đáy cỡ trung bình, giun tròn (Nematoda) và Cá (Pisces). Việc kết hợp nhiều
nhóm đối tượng và nhiều loại chỉ thị sẽ cho phép có được những đánh giá đúng đắn nhất
về chất lượng môi trường nước trong mỗi thuỷ vực.
Tại khu vực nghiên cứu hồ Đankia và các thủy vực sông, suối, hồ lân cận trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng, theo kết quả quan trắc hiện trạng các thành phần môi trường tỉnh
Lâm Đồng năm 2012 cho thấy: đa số giá trị của các thông số hóa lý đều ô nhiễm hơn so
với các năm từ 2006 - 2011. Chất lượng nước ở các sông, suối nhỏ trong lưu vực có giá
9


trị các chất ô nhiễm cao hơn ở các sông lớn, do bị ảnh hưởng từ các hoạt động công
nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt.
- Về chất lƣợng nƣớc ở các sông nhƣ: Sông Cam Ly, sông Đa Dâng, sông Đa nhim,
sông Đạ Huoai, sông La Ngà,… đã bị ô nhiễm do chịu tác động từ canh tác nông nghiệp,
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, chế biến nông sản hay nước thải sinh hoạt của khu dân cư
sống xung quanh bờ sông gần điểm lấy mẫu. Trên dòng chính sông Đồng nai đang chịu
tác động chủ yếu của các hoạt động xây dựng các công trình thủy điện lớn (Đồng Nai 2,
3, 4), các hoạt động khai thác cát và cải tạo rừng, trồng rừng kinh tế đang diễn ra mạnh
mẽ và đang có dấu hiệu bị ô nhiễm hữu cơ.
- Về chất lƣợng nƣớc hồ: Đa số các hồ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đặc biệt là các hồ
cung cấp nước cho sinh hoạt như hồ Chiến Thắng, hồ Tuyền Lâm, hồ Đankia và hồ Đạ
Tẻh hầu hết các thông số lý hóa đã vượt mức cho phép. Nguyên nhân chính là do, hoạt
động sinh hoạt của người dân, hoạt động canh tác nông nghiệp,…quanh khu vực hồ.
Đáng chú ý hơn nữa là hồ Xuân Hương, chất lượng nước ngày càng bị ô nhiễm nghiêm
trọng.
Một số các đề tài đã được thực hiện như: Đề tài “Đánh giá tài nguyên nước mặt tỉnh Lâm
Đồng và đề xuất các giải pháp quản lý theo hướng phát triển bền vững” của tác giả
Hoàng Hưng, 2013. Đề tài:“Ứng dụng số WQI đánh giá hiện trạng chất lượng môi

trường nước mặt thành phố Đà Lạt” của Phạm Thế Anh, 2013. Thông qua chỉ số WQI,
các đề tài đã đánh giá được hiện trạng chất lượng môi trường nước mặt tại hầu hết các hồ,
sông, suối trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đều trong tình trạng ô nhiễm. Trong đó, đặc biệt
chú ý các hồ và suối như hồ Xuân Hương, hồ Tuyền Lâm, hồ Chiến Thắng, hồ Suối Vàng
và suối Cam Ly đều trong tình trạng ô nhiễm nặng. Riêng hồ Đa Thiện ô nhiễm mức nhẹ
hơn. Ngoài ra, một số nghiên cứu của trường Đại học Đà Lạt, Đại học Yersin Đà Lạt
cũng đã được thực hiện tại các hồ, sông, suối trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng và kết quả cho
thấy, hầu hết các thông số hóa lý đều vượt mức cho phép, mức độ ô nhiễm cũng đang có
chiều hướng gia tăng theo thời gian.
Như vậy, một hệ sinh thái ổn định được đặc trưng bởi một sự giàu có về số lượng loài, hầu
hết các loài đều có cơ hội phát triển ngang bằng nhau về số lượng cá thể, và số lượng đó
thường là ở mức nhỏ và cân đối để giảm bớt tính cạnh tranh. Tuy nhiên, khi hệ sinh thái đó
bị tác động bất lợi bởi các điều kiện ngoại cảnh, môi trường sống của sinh vật sẽ bị biến
đổi, bị ô nhiễm, và ức chế sự tồn tại, phát triển của chúng. Điều này rõ ràng có ảnh hưởng
rất lớn tới các chu trình tự nhiên trong hệ sinh thái, độ đa dạng sinh học sẽ suy giảm, mất
cân bằng quần xã và dẫn đến sự phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên. Cũng chính vì điều này mà
10


việc theo dõi, đánh giá chất lượng nước ở các thủy vực phải được thực hiện một cách liên
tục và đầy đủ hơn.
III. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu
Nghiên cứu đa dạng sinh học quần xã động vật phù du và đánh giá chất lượng môi
trường nước hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
3.2. Nội dung
-

Tổng quan về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội liên quan đến khu vực
nghiên cứu hồ Đankia;


-

Nghiên cứu cấu trúc thành phần loài, cấu trúc mật độ, loài ưu thế và sự biến động
theo mùa, theo năm của quần xã động vật phù du (Zooplankton);

-

Đánh giá hiện trạng và diễn biến chất lượng nước theo mùa, theo năm thông qua các
đặc điểm sinh thái của động vật phù du và các chỉ số sinh học;

-

Đánh giá chất lượng môi trường nước thông qua các thông số môi trường: pH, TDS,
DO, COD, EC, Độ đục, Tổng P, Tổng N, Nhiệt độ;

-

Phân tích mối tương quan giữa cấu trúc thành phần loài, mật độ cá thể, và chỉ số sinh
học của quần xã động vật phù du với các thông số môi trường;

-

Xây dựng bản đồ hiện trạng chất lượng môi trường nước hồ Đankia bằng phần mểm
Mapinfo và ArcGIS.

IV. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Quần xã Động vật phù du ở hồ Đankia, tỉnh Lâm Đồng.
4.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Công tác khảo sát thực địa, thu thập mẫu vật được tiến hành từ năm 2014 đến năm 2015.
Gồm 02 đợt thu mẫu đại diện cho 2 mùa trong năm: mùa khô (tháng 04/2014 và tháng
04/2015) và mùa mưa (tháng 10/2014 và tháng 10/2015). Thực hiện tại hồ Đankia, huyện
Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng với 10 điểm thu mẫu (Hình 1, Hình 2).

11


Hình 1: Bản đồ khu vực nghiên cứu hồ Đankia, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng

12


Hình 2: Bản đồ vị trí lấy mẫu động vật phù du hồ Đankia, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phƣơng pháp khảo sát thực địa
Tiến hành khảo sát thực tế tại khu vực hồ Đankia, mô tả sinh cảnh cụ thể tại khu vực lấy
mẫu, xác định rõ các nguồn gây ô nhiễm và tác động đến chất lượng nước của hồ, thu
mẫu động vật phù du, mẫu nước mặt, đo đạc các thông số lý hóa (pH, TDS, EC, Độ đục,
nhiệt độ, DO) ngay tại thời điểm và vị trí thu mẫu.
a)
sau:

Dụng cụ, hóa chất, phƣơng pháp thu và bảo quản mẫu động vật phù du nhƣ

Mẫu định lượng được thu bằng 2 cách:
13



- Lọc 60 lít nước qua lưới hình chóp mắt lưới 25 m. Phương pháp này dùng để
thu thập động vật phù du cỡ nhỏ như động vật nguyên sinh, luân trùng, giáp xác
nhỏ.
- Dùng lưới vớt động vật phù du kiểu Juday có kích thước mắt lưới 50m, Kéo
lưới với tốc độ khoảng 0,3m/s ở tầng mặt. Miệng lưới được gắn lưu tốc kế chuyên
dụng Model 2030R6 để tính lượng nước đi qua lưới. Phương pháp này thu thập
động vật phù du cỡ trung bình như râu nhánh, chân mái chèo.
Mẫu định tính được thu bằng loại lưới cỡ lớn hình chóp đường kính miệng lưới 50 cm.
mắt lưới 110 m, tốc độ kéo lưới 0,5 m/s để thu những động vật phù du giáp xác cỡ lớn,
ấu trùng côn trùng thủy sinh có tốc đọ di chuyển nhanh. Lắp lưu tốc kế vào miệng lưới để
tính định lượng.
Các mẫu động phù du sau khi kéo và lọc, lắc nhẹ phần chứa nước ở chóp lưới để giảm
thể tích mẫu từ 200 – 300ml trước khi cho vào chai nhựa. Mẫu sau khi cho vào chai nhựa,
cần cố định ngay bằng Formaldehyde 38%, thể tích Formaldehyde sử dụng khi cố định
phải đạt từ 5% trở lên so với thể tích mẫu.
b) Mẫu nƣớc mặt
Phương pháp phân tích được sử dụng theo như “Standards Methods for examination of
Water and Wastewater” (SMEWW). Các thông số và phương pháp để xác định chất
lượng nước mặt.
TT
1
2
3
4
5

Thông số
Nhiệt độ
pH
TDS

EC
Độ đục

Phƣơng pháp
-TCVN 6492-2011
TCVN 6185:1996

Thiết bị
Nhiệt độ
Máy đo pH
Máy đo
Máy đo

6

DO

TCVN 7324-2004

Máy đo DO

7

BOD

8

COD

9


Tổng P

TCVN 6001–
Tủ ấm BOD
1995
TCVN 6491-1999 Tủ ấm COD
SMEWW
Máy quang
4500 – P – D
phổ UV-

14

Tên thiết bị
Center 315
Hanna HI-8314
Hanna HI-9811
Hanna HI-9811
Secchi
APEL Intrusment
DO-802

Xuất xứ
Đài Loan
Ý

Aqualytic AL-311

Úc


Aqualytic AL-311

Úc

Apel – PD-303UV

Nhật

Ý
Ý
Đức


TT

Thông số

Phƣơng pháp

10

Tổng N

TCVN 5987–
1995

Thiết bị
VIS
Máy quang

phổ UVVIS

Tên thiết bị

Xuất xứ

Apel – PD-303UV

Nhật

Kết quả phân tích các mẫu nước mặt sẽ được so sánh với Quy chuẩn Việt Nam QCVN
38: 2011/BTNMT (Tiêu chuẩn chất lượng nước ngọt bảo vệ đời sống thủy sinh).
Mẫu nước mặt sẽ được phân tích tại phòng Thí nghiệm hóa lý, Viện Sinh học Nhiệt đới.
5.2. Phƣơng pháp phân tích mẫu vật
Tại phòng thí nghiệm, các xác bã thực vật, mảnh vụn có kích thước lớn được dùng Panh
gắp loại bỏ. Sau đó các mẫu được lọc lại lần nữa với tốc độ chậm bằng ống Xiphong có
lưới lọc với kích thước mắt lưới 20µm để giảm thể tích mẫu. Mẫu sau khi lọc tới thể tích
nhất định, dùng ống hút hút mẫu cho vào buồng đếm Sedgewick - Raffer, phân tích dưới
kính hiển vi Quang học đảo ngược có độ phóng đại từ x10 đến x100 để định danh tới loài
và đếm số lượng cá thể của từng loài động vật phù du và ghi chép vào biểu phân tích.
Các tài liệu được sử dụng để định danh loài động vật phù du của các tác giả như: Đặng
Ngọc Thanh và cộng sự, 2001; Đặng Ngọc Thanh và cộng sự, 2002; Đặng Ngọc Thanh,
Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, 1980; Hoang Quoc Truong, 1960; Nguyễn Xuân Quýnh,
Clive Pinder, Steven Tilling, 2001; Shirota A., 1966; Y.Ranga Reddy, 1994;
W.T.Edmondson…
Mẫu động vật phù du được phân tích và lưu giữ tại Phòng Sinh thái – Viện Sinh Học
Nhiệt Đới, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.3. Phƣơng pháp xử lý số liệu, các chỉ số sinh học đƣợc sử dụng



Từ kết quả phân tích, thiết lập thành phần loài, cấu trúc quần xã, mật độ cá thể
(quy đổi thành mật độ cá thể/m3), các loài loài ưu thế, mật độ loài ưu thế, loài đặc
trưng, các chỉ số sinh học của động vật phù du, mối tương quan giữa động vật phù
du với các điều kiện lý hóa của môi trường nước.



Các kết quả xử lý trên máy tính bằng phần mềm Microsoft Word và Microsoft
Excel.



Sử dụng phần mềm Primer-V6 để tính toán các chỉ số sinh học:

Phương pháp đơn giản nhất để đánh giá tính đa dạng là đếm số loài trong một điểm hay
một vùng khảo sát, tuy nhiên nếu phân tích sự đa dạng quần xã theo cách này sẽ không đề
15


cập đến sự phong phú về mật độ cá thể. Vì vậy để đánh giá tính đa dạng một cách chính
xác và khách quan hơn phải hợp nhất cả sự giàu có về số loài (species richness) và sự
phong phú về mật độ. Các chỉ số đa dạng được sử dụng:
+ Chỉ số đa dạng Shannon – Wiener, 1949:

H

'

n


 
i 1

ni
ni
log
2 N
N

Trong đó: N = Tổ ng số lươ ̣ng cá thể trong mô ̣t mẫu nghiên cứu
Ni= Tổ ng số lươ ̣ng của các loài chỉ thi ̣thứ i
Sử dụng thang điểm đánh giá phân loại chất lượng nước do Henna
nghị năm 1995:

& Rya Sunoko đề

Bảng 1: Thang điể m đánh giá chấ t lươ ̣ng nước Henna & Rya Sunoko, 1995
Chấ t lƣơ ̣ng nƣớc
Rấ t ô nhiễm
Ô nhiễm
Ô nhiễm nhẹ
Sạch
Rấ t sa ̣ch

H'
<1
≥1-2
≥2-3
≥ 3 - 4.5
≥ 4.5


+ Chỉ số đa dạng Margalef, 1958:
D = (S-1)/LnN
Trong đó: S là số loài trong mẫu, N là tổng số cá thể trong mẫu
+ Chỉ số phong phú (Chỉ số giá trị tính đa dạng) (Dv):
Dv = (H’)2.log2(S) hoặc Dv = H’*J’
Trong đó: S là số loài trong mẫu;
H’ là chỉ số đa dạng Shannon Wiener, 1949;
J’ là chỉ số cân bằng Pielou (1966).
Sử dụng thang điểm đánh giá tính đa dạng (Dv) của Chen Qingchao đề nghị năm 1994:
Bảng 2: Thang điểm đánh giá tính đa dạng (Dv) của Chen Qingchao, 1994
Giá trị tính đa dạng (Dv)
>3,5
2,6 – 3,5
1,6 – 2,5
0,6 – 1,5

Mức độ
Rất phong phú
Phong phú
Tương đối tốt
Bình thường
16

Dạng
I
II
III
IV



Giá trị tính đa dạng (Dv)
< 0,6

Mức độ
Kém

Dạng
V

+ Chỉ số ƣu thế Berger và Parker (1970) (D):
D = Nmax/N
Trong đó:

Nmax là tổng số cá thể của loài ưu thế có số lượng cao nhất;
N là tổng số cá thể có trong mẫu.

+ Chỉ số cân bằng Pielou (1966) (J’):
J’ = H’/ Log2S
Trong đó: S là số lươ ̣ng loài trong mẫu.
+ Chỉ số tƣơng đồng Sorensen (Similarity index)
S = 2 Nc/( Ni + Nj)
Trong đó: Nc Số lươ ̣ng loài chung có ở cả 2 điể m thu mẫu i và j
Ni, Nj

Số lươ ̣ng loài có ở 2 điể m thu mẫu i, j.

+ Chỉ số ô nhiễm
Cách tính:
 (s * h)

S = ---------------h
Trong đó:
- S: Chỉ số ô nhiễm cho một địa điểm.
- s: Giá trị chịu ô nhiễm cho loài chỉ thị.
- h: Tần số gặp (h = 1, Hiếm; h = 3, Trung bình; h = 5, Nhiều)
Pantle và Buch (1955) đề nghị:
Vật chỉ thị Oligosaprobic
Vật chỉ thị _mesosaprobic
Vật chỉ thị _mesosaprobic
Vật chỉ thị Polysaprobic

s: 1
s: 2
s: 3
s: 4

Thang điểm cho các mức độ nhiễm bẩn:
Index S:

1,0 – 1.5

: Oligosaprobic
17


1.5 – 2.5
2.5 – 3.5
3.5 – 4.0

: _mesosaprobic

: _mesosaprobic
: Polysaprobic

Chỉ số ô nhiễm của Zelinka và Marvan (1961).

 Si. Ai.Gi
Sa  in1
i1 Ai.Gi
n

i
n
Ai
Gi
Si

:
:
:
:
:

Loài chỉ thị i trong mẫu vật.
Số lượng loài trong mẫu vật thu được.
Chỉ số phong phú của loài chỉ thị.
Độ dao động chỉ thị của loài đó.
Chỉ số ô nhiễm của mỗi loài sinh vật chỉ thị sử dụng.

5.4. Phƣơng pháp xây dựng bản đồ



Sử dụng hệ thống định vị toàn cầu (GPS) để xác định các điểm lấy mẫu, lưu trữ
các điểm lấy mẫu,...



Sử dụng phần mềm Mapinfo và ArcGIS phân tích nội suy để xây dựng bản đồ
hiện trạng chất lượng nước.

VI. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
-

Cung cấp một cách có hệ thống và đầy đủ về thành phần loài, phân bố, mật độ cá thể,
mức độ đa dạng sinh học của Động vật phù du, và xác định những loài đặc trưng của
hồ Đankia.

-

Là cơ sở khoa học cho việc lập kế hoạch bảo tồn, quản lý và sử dụng hợp lý nguồn
tài nguyên nước trong phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững; Là số liệu khoa
học phục vụ việc quan trắc chất lượng môi trường nước trong mạng lưới điểm quan
trắc của tỉnh Lâm Đồng.

VII. DỰ KIẾN KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC CỦA ĐỀ TÀI
 Danh lục thành phần loài của quần xã động vật phù du nghiên cứu;
 Xác định các loài đặc hữu tại khu vực nghiên cứu;
 Diễn biến CL nước theo mùa trong 2 năm 2014, 2015 và Bản đồ hiện trạng CL
nước ở hồ Đankia;
 Đề xuất bộ chỉ thị sinh học sử dụng cho hồ Đankia.
VIII. SẢN PHẨM ĐỀ TÀI

 01 cuốn báo cáo luận văn và 01 cuốn báo cáo tóm tắt của luận văn;
18


 01 bộ Atlas hình ảnh định loại các loài động vật phù du;
 Quy trình ứng dụng phương pháp chỉ thị sinh học đánh giá nhanh chất lượng môi
trường tại hồ Dankia;
 01 CD chứa bản báo cáo tổng hợp, báo cáo tóm tắt và các số liệu liên quan tới đề
tài nghiên cứu của luận văn Thạc sĩ.
IX. KHẢ NĂNG VÀ ĐỊA CHỈ ÁP DỤNG
 Kết quả nghiên cứu sẽ được đăng bài trên hội nghị, tạp chí chuyên ngành;
 Cuốn Luận văn thạc sĩ sẽ được lưu giữ tại thư viện của trường ĐH KHTN, ĐHQG
TPHCM;
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
Lê Hùng Anh (2008), Đề xuất bộ chỉ thị sinh học cho loại hình hệ sinh thái thuỷ vực
nước chảy của Việt Nam phục vụ quan trắc môi trườnglưu vực sông, Trung tâm
Quan trắc Môi trường, Tổng cục Môi trường.
Phạm Thế Anh (2013), Ứng dụng số WQI đánh giá hiện trạng chất lượng môi trường
nước mặt thành phố Đà Lạt, Trường Đại học Yersin Đà Lạt.
Đoàn Cảnh, Đỗ Thị Bích Lộc và cộng tác viên (2010), Ứng dụng phương pháp quan trắc
sức khỏe sinh thái (Ecological Health Monitoring) để đánh giá diễn biến chất
lượng môi trường nước sông Sài Gòn tại khu vực tiếp nhận nguồn xả của dự án
vệ sinh – môi trường thành phố Hồ Chí Minh lưu vực kênh Nhiêu lộc – Thị Nghè,
Viện sinh học nhiệt đới.
Hoàng Hưng (2005), Quản lý và sử dụnghợp lý tài nguyên nước, Nxb. Đại học Quốc gia,
Tp. Hồ Chí Minh.
Hoàng Hưng (2013), Đánh giá tài nguyên nước mặt tỉnh Lâm Đồng và đề xuất các giải
pháp quản lý theo hướng phát triển bền vững, Trường Đại học Kỹ thuật Công
nghệ Tp. HCM.

Nguyễn Văn Khôi (2004), “Nghiên cứu tính đa dạng của động vật phù du hồ Trị An”,
Tuyển tập kết quả khoa học và Công nghệ 2004, Viện KHTLMN, Nxb. Nông
Nghiệp.
Nguyễn Thị Mai Linh (2008), Nghiên cứu sửu dụng động vật phiêu sinh làm chỉ thị sinh
học trong đánh giá chất lượng môi trường nước các kênh rạch vùng Tây Bắc

19


thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Khoa học môi trường, Đại học Khoa
học Tự nhiên, ĐHQG Tp. HCM.
Chế Đình Lý (2006), Hệ thống chỉ thị và chỉ số môi trường để đánh giá và so sánh hiện
trạng môi trường giữa các thành phố trên lưu vực sông, Viện Môi trường và Tài
nguyên TPHCM.
Trần Đức Lương (2012), Nghiên cứu Giáp xác chân chèo (Copepoda) và ấu trùng bánh
xe (Rotifera) ở các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Sinh
học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viên Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật.
Phạm Văn Miên (2004), Nghiên cứu hoàn thiện các chỉ tiêu sinh học để đánh giá chất
lượng và phân vùng, phân loại môi trường nước các thủy vực Tp HCM, Sở
KHCN TP.HCM.
Ngô Xuân Nam (2014), Nghiên cứu đa dạng sinh học động vật không xương sống ở nước
tại khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, Luận án Tiến sĩ Thủy sinh
vật học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại hoc Quốc gia Hà Nội.
Lương Văn Ngự (T.Ban) và cộng sự (2010), Báo cáo Hiện trạng môi trường tỉnh Lâm
Đồng từ năm 2006 – 2010, Sở TN và MT Lâm Đồng.
Nguyễn Kỳ Phùng (2009), Nghiên cứu xác định tổng tải lượng tối đa ngày phục vụ xây
dựng hạn mức xả thải trên sông Sài Gòn (đoạn từ Thủ Dầu Một đến Nhà Bè, Báo
cáo nghiệm thu đề tài Sở KHCN TP.HCM.
Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980), Định loại động vật không

xương sống Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, Dương Đức Tiến, Mai Đình Yên (2002), Thủy sinh
học các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
Lê Trình (2008), Nghiên cứu phân vùng chất lượng nước theo chỉ số chất lượng nước
(WQI) và đánh giá khả năng sử dụng các nguồn nước sông, kênh rạch ở vùng
TP.HCM, Báo cáo nghiệm thu đề tài Sở KH&CN TP.HCM.
Tiêu chuẩn Việt Nam (2002), Tuyển tập 31 tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường bắt buộc
áp dụng, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.

20


Tài liệu ngoài nước
MRC (2010a), Biomonitoring Methods for the Lower Mekong Basin, Mekong River
Commission, Vientiane, 65 pp.
MRC (2010b), “Report on the 2008 biomonitoring survey of the lower Mekong River and
selected tributaries”, MRC Technical Paper, (27), Vientian, 69 pp.
Sangpradub, N. & B. Boonsoong (2006), Identification of freshwater invertebrates of the
Lower Mekong River and its tributaries, Mekong River Commission, Vientiane.
Wayne S. Davis, Thomas P. Simon (1995), Biological assessment and criteria-tools for
water resource planning and Decision making, CRC Press, 415 pp.
MRC (2010), Biomonitoring Methods for the Lower Mekong Basin, Mekong River
Commission, Vientiane, 65 pp.
MRC (2010), Report on the 2008 biomonitoring survey of the lower Mekong River and
selected tributaries, MRC Technical Paper, (27), Vientian, 69 pp.
Tài liệu Internet
/>
/>
21




×