Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Giải pháp góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.72 MB, 116 trang )

1

ĐẶT VÂN ĐỀ
1- Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội cung cấp nhiều
loại sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội, là thị trường rộng lớn của nền kinh
tế, cung cấp nguồn nhân lực và tạo nên tích luỹ ban đầu cho phát triển đất nước.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng, nông nghiệp đóng vai trò to lớn trong sự
phát triển kinh tế. Hầu hết các nước phải dựa vào sản xuất nông nghiệp để tạo sản
lượng lương thực, thực phẩm cần thiết đủ để nuôi sống dân tộc mình và tạo nền
tảng cho các ngành, các hoạt động kinh tế phát triển.
Việt nam là một nước nông nghiệp có điểm xuất phát thấp, với trên 70%
dân số sống ở nông thôn và khoảng gần 50% lao động xã hội làm việc trong
nông nghiệp, năng suất khai thác ruộng đất và năng suất lao động còn thấp….Để
giải quyết những vấn đề này thì thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng với nước ta.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của
cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội nước ta. Xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp
phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế nước ta không những là mục tiêu, mà còn
là yêu cầu cấp thiết đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm tạo dựng một ngành nông
nghiệp có cơ cấu kinh tế hợp lý, qua đó phát huy mọi tiềm năng sản xuất, phát
triển nền nông nghiệp sản suất hàng hóa lớn, giải quyết việc làm, nâng cao thu
nhập và cải thiện mức sống cho người nông dân. Do đó, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương là hết sức cần thiết.
Đất là cơ sở của sản xuất nông nghiệp, là yếu tố đầu vào có tác động
mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng đất nông nghiệp có
hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc gia, nhằm



2

duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp đúng hướng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất, ...
nhờ vậy đời sống người dân sẽ được nâng lên.
Tuy nhiên, nền nông nghiệp nước ta mang tính thuần nông, công nghệ lạc
hậu, sử dụng đất trong nông nghiệp chưa thực sự hiệu quả dẫn tới cơ cấu nông
nghiệp còn nhiều bất cập, nhất là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Vì thế trong thời gian tới, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất là nhiệm vụ trọng tâm và
cấp bách của mọi cấp, mọi ngành và mọi tầng lớp nhân dân.
Hạ Hoà là một huyện vùng cao của Tỉnh Phú Thọ, có nhiều tiềm năng thế
mạnh phát triển kinh tế nhưng chưa được khai thác hiệu quả, cho nên việc nghiên cứu
thực trạng và giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện
đến năm 2020 có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng.
Mặt khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện Hạ
hòa theo xu hướng tích cực, phù hợp với điều kiện địa phương không những tận
dụng được đất đai, phát huy được các lợi thế so sánh của địa phương, mà còn
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo việc làm, tăng
thu nhập và ổn định đời sống nhân dân, đưa kinh tế địa phương phát triển
Với một số lý do trên tôi đã lựa chọn luận văn tốt nghiệp là: “Giải pháp
góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng
cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ ”.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
nâng cao hiệu quả sử dụng đất
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp
- Khái niệm cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu được dùng để chỉ cách tổ chức, cấu tạo, sự điều chỉnh các yếu tố
tạo nên một hình thể, một vật hay một bộ phận.
Sự phát triển của sản xuất dẫn đến quá trình phân công lao động xã hội.
Tuỳ thuộc vào tính chất sản phẩm, chuyên môn kỹ thuật mà chia thành từng
ngành, lĩnh vực khác nhau. Nhưng trong nền sản xuất, các ngành, lĩnh vực này
không thể hoạt động một cách độc lập mà phải có sự tương tác qua lại lẫn nhau,
hỗ trợ và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Từ đó đòi hỏi nhận thức đầy đủ về mối
quan hệ giữa các bộ phận. Sự phân công và mối quan hệ hợp tác trong hệ thống
thống nhất là tiền đề cho quá trình hình thành cơ cấu kinh tế.
Theo Các Mác: “Cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản
xuất phù hợp với quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật
chất”.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành,
các lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ trọng tương ứng của chúng và mối
quan hệ hữu cơ tương đối ổn đinh giữa chúng hợp thành trong một khoảng thời
gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan phản ánh trình độ phát triển của xã
hội và các điều kiện phát triển của một quốc gia. Sự tác động từ chiến lược phát
triển kinh tế, hay sự quản lý của Nhà nước có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm


4


sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong một thời gian nhất định chứ không thể thay
đổi hoàn toàn nó.
Mặt khác, cơ cấu kinh tế lại mang tính lịch sử xã hội nhất định. Cơ cấu kinh
tế được hình thành khi quan hệ giữa các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế được
thiết lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến ở mọi
quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên
trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự
khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, đặc trưng văn hoá- xã
hội và các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc. Các nước có hình thái kinh tế- xã hội
giống nhau nhưng vẫn có sự khác nhau trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì
điều kiện kinh tế- xã hội, chiến lược phát triển của mỗi nước có sự khác nhau.
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách hợp lý khi chủ thể quản lý Nhà
nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực
trong nước và nước ngoài để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình
thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp đặt ý chí mà là
sự tác động mang tính định hướng.
Cơ cấu kinh tế được xem xét dưới các góc độ khác nhau như: cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần kinh tế. Đây là ba bộ
phận cơ bản và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, cơ cấu ngành kinh tế có
vị trí chủ yếu trong cơ cấu kinh tế của mọi quốc gia.
- Khái niệm cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Trước hết, nền kinh tế được phân chia theo các lĩnh vực hoạt động và gọi
là các ngành kinh tế. Ngành kinh tế là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế.
Toàn bộ nền kinh tế được chia ra các nhóm ngành lớn khác nhau, thường chia ra
ba cấp ngành kinh tế lớn là ngành kinh tế cấp I, cấp II và cấp III. Theo cách phân
chia hẹp hơn nền kinh tế chia ra ba nhóm ngành lớn là: Ngành kinh tế nông - lâm


5


- thuỷ sản, ngành kinh tế công nghiệp - xây dựng cơ bản và ngành kinh tế thương
mại - dịch vụ.
* Cơ cấu kinh tế ngành là một tổng thể các ngành kinh tế hợp thành với vị
trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ
phận ấy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở một thời điểm nhất định.
Ngành nông nghiệp nằm trong hệ thống phân ngành kinh tế có liên quan
đến lĩnh vực hoạt động nông nghiệp. Nó là một tổ hợp các ngành kinh tế sinh
học cụ thể trong lĩnh vực nông - lâm - thuỷ sản.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp thực chất là cấu trúc bên trong của ngành nông
nghiệp, cấu trúc này bao gồm các bộ phận hợp thành và các mối quan hệ tỷ lệ hữu
cơ giữa các bộ phận đó trong điều kiện thời gian và không gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cơ cấu kinh tế
giữa các ngành nông – lâm – thuỷ sản và cơ cấu kinh tế nội bộ của các ngành đó.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ gồm cơ cấu kinh
tế giữa các ngành trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong nông nghiệp và cơ cấu
kinh tế trong nội bộ các ngành đó. Và trong nội bộ mỗi ngành nhỏ lại có cơ cấu
riêng, ví dụ như cơ cấu cây trồng trong cơ cấu ngành trồng trọt, cơ cấu vật nuôi
trong cơ cấu chăn nuôi, cơ cấu nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản trong cơ cấu thuỷ
sản, cơ cấu nuôi trồng và bảo vệ rừng trong cơ cấu ngành lâm nghiệp,…Hay, cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp là tổng thể các bộ phận hợp thành và các mối
quan hệ thể hiện qua tỷ trọng sản lượng, diện tích, lao động giữa các bộ phận đó.
Trong đó, ngành nông nghiệp mà biểu hiện cụ thể là mối quan hệ giữa trồng trọt
- chăn nuôi; Trong trồng trọt là tỷ trọng giữa cây lương thực, cây thực phẩm, cây
công nghiệp, cây lâu năm, lâm nghiệp và các loại cây khác trong trồng trọt.
Trong chăn nuôi như chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm, nuôi thuỷ sản và
chăn nuôi khác.
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các mối quan hệ kinh tế
bao gồm các lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, dịch vụ, lâm nghiệp, …



6

có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên
quan chặt chẽ với nhau về mặt chất.
1.1.1.2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là giành một phần tài nguyên của một bộ phận
kinh tế này cho một bộ phận kinh tế khác theo hướng có lợi hơn, đáp ứng nhu
cầu sản phẩm xã hội và tăng thu nhập của người lao động.
Lực lượng sản xuất phát triển gắn liền với phân công lao động xã hội, chi
phối sự hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế. Khi nền kinh tế tự cấp tự túc
thì lực lượng sản xuất trì trệ kém phát triển dẫn đến cơ cấu KTNN chậm chuyển
biến. Chuyển nền kinh tế thuần nông sang sản xuất hàng hóa thì lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội mới phát triển ở trình độ cao. Mặt khác sự
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội là xu thế tất yếu
khách quan của sự phát triển xã hội. Vì vậy, chuyển dịch cơ cấu KTNN cũng là
một tất yếu khách quan. Trong điều kiện nước ta hiện nay, điều kiện tự nhiên
tương đối thuận lợi, nguồn lao động trẻ dồi dào nhưng vẫn ở dạng tiềm năng
chưa được huy động và khai thác đầy đủ, hợp lý. Bởi vậy rất cần thiết để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu phải dựa trên cơ sở tiềm
năng sẵn có hình thành cơ cấu mới nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đó tạo
ra một tỷ suất hàng hóa lớn hơn, hiệu quả kinh tế ngày càng cao, bền vững góp
phần đắc lực vào quá trình tăng trưởng kinh tế đất nước. Thực hiện đường lối đổi
mới kinh tế đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nền kinh tế thị trường
đang ngày một phát triển và tác động mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực, mọi ngành
nghề trên địa bàn cả nước. Theo cơ chế đó mọi thành phần kinh tế, mọi khu vực
sản xuất kinh doanh tiến hành sản xuất phải nắm vững và bám sát thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển các yếu tố sản xuất như: tài nguyên, sức

lao động, công nghệ, các sản phẩm dịch vụ tạo ra và ngay cả chất xám đều được


7

coi là đối tượng mua bán, là hàng hóa và cơ cấu KTNN trong cơ chế thị trường
cũng phải đảm bảo và tuân thủ các mối quan hệ đó. Trong nền kinh tế thị trường
giá cả điều tiết hành vi của người sản xuất từ đó tạo ra một thiết chế làm nảy sinh
mối quan hệ tỷ lệ nhất định trong cơ cấu kinh tế, vấn đề đặt ra là bằng nhận thực
và hành động các cơ quan hoạch định chính sách, của các nhà quản lý có giải
pháp điều chỉnh thông qua hệ thống các chính sách kinh tế định hướng cho sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường, cơ
cấu kinh tế hiệu quả cao là cơ cấu kinh tế phải thoả mãn được những yêu cầu
của thị trường đặt ra. Vì thế, chuyển dịch cơ cấu KTNN phải xuất phát từ những
căn cứ mà thị trường đòi hỏi và phải thỏa mãn tốt mọi nhu cầu thị trường.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là sự thay đổi về số lượng hoặc
về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong nội bộ ngành nông nghiệp. Khi có sự thay
đổi về qui mô và tốc độ phát triển của các tiểu ngành sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu một cách hợp lý.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là sự thay đổi về qui
mô và tốc độ của các ngành trong nông nghiệp như chuyển dịch cơ cấu ngành nông lâm - thuỷ sản, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp thuần giữa trồng trọt chăn nuôi và chuyển dịch cơ cấu ngay nội bộ các tiểu ngành.
Hơn nữa, giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nói riêng với tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế có mối
quan hệ mật thiết với nhau: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một mặt trong phát triển
kinh tế. Vậy, muốn kinh tế phát triển không những cần phải tăng thu nhập cho
người dân, tăng phúc lợi xã hội cho con người mà còn phải tạo ra một cơ cấu kinh
tế hợp lý. Khi xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý phải dựa vào những thay đổi của
hoàn cảnh xung quanh để có được hướng chuyển dịch hiệu quả nhất. Từ đó, đây là
bàn đạp cho kinh tế phát triển nhanh, mạnh, ổn định và lâu dài.



8

Với điều kiện Việt Nam là một nước nông nghiệp thì ngành nông nghiệp
giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế và đời sống nhân dân. Do đó, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế của Việt Nam cũng như của một vùng. Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia và của một vùng.
1.1.1.3. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả là một phạm trù kinh tế xã hội phản ánh mặt chất của các hoạt
động sản xuất kinh doanh và là đặc trưng chung cho mọi hình thái xã hội. Bản
chất của hiệu quả có thể được hiểu như sau: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế
khách quan, nhưng nó không chỉ là mục đích cuối cùng của sản xuất. Bản chất
thực sự của nó chính là thước đo duy nhất đánh giá chất lượng của một hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế là quan hệ so sánh, đo lường cụ thể quá trình sử dụng các
yếu tố sản xuất (đất đai, vốn, lao động,...) để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn
với chất lượng cao hơn và phải lượng hoá được cụ thể việc sử dụng các yếu tố
đầu vào (chi phí) và các yếu tố đầu ra (kết quả) trong quá trình sản xuất ở từng
đơn vị, ngành, nền sản xuất xã hội trong từng thời kỳ nhất định.
Hiệu quả kinh tế phải được gắn liền với kết quả của những hoạt động sản xuất
cụ thể trong các doanh nghiệp, nông hộ và nền sản xuất xã hội ở những điều kiện xác
định về thời gian, hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội.
Hiệu quả và kết quả là hai phạm trù khác nhau nhưng có mối liên hệ khăng
khít và mật thiết - mối liên hệ đó thể hiện giữa mặt chất và mặt lượng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Kết quả là một đại lượng vật chất biểu hiện bằng nhiều
chỉ tiêu, nội dung tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Hiệu quả là đại lượng đánh
giá xem kết quả đó được tạo ra như thế nào, chi phí bao nhiêu, có thể chấp nhận

được không. Tuy vậy, hiệu quả và kết quả phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố: Điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, đặc điểm ngành sản xuất, quy luật kinh tế.v.v. Do vậy,


9

khi đánh giá hiệu quả cần phải cân nhắc xem xét để có kết luận phù hợp.
Căn cứ vào nội dung và bản chất của hiệu quả, hiệu quả chia làm 3 loại:
- Hiệu quả kinh tế: Phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu
ích đạt được về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Nó đánh giá hoạt
động sản xuất chủ yếu về mặt kinh tế.
- Hiệu quả xã hội: Phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu ích
đạt được về mặt xã hội và chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Nó đánh giá chủ yếu
về mặt xã hội của hoạt động sản xuất.
- Hiệu quả môi trường: Là hiệu quả của việc làm thay đổi môi trường do
hoạt động sản xuất gây ra như xói mòn, ô nhiễm đất...
Trong ba loại hiệu quả trên, hiệu quả kinh tế đóng vai trò quyết định và nó
được đánh giá đầy đủ khi được kết hợp với hiệu quả xã hội và môi trường.
1.1.2. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu
quả sử dụng đất.
1.1.2.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính mang tính khách quan và tính lịch
sử nhất định
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan và được hình thành trên cơ
sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội chi phối.
Thật vậy, ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội thì tất sẽ phải có một cơ cấu kinh tế cụ thể để thích ứng
với nó. Như vậy việc xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần phải tôn trọng tính
khách quan của nó và không thể áp đặt một cách chủ quan duy ý chí. Trong quá
trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội tự các mối
quan hệ kinh tế đã có thể xác lập những tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là cơ cấu.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính lịch sử và xã hội nhất định: Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp như đã được nói tới nó là một tổng thể các mối quan hệ kinh
tế được xác lập theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng trong thời gian cụ thể.
Tại một thời điểm với những điều kiện về kinh tế, tự nhiên, xã hội, các tỷ lệ đó


10

được xác lập và hình thành tạo thành một cơ cấu kinh tế nhất định. Song một khi
có những thay đổi trong các điều kiện nói trên thì lập tức các mối quan hệ này
cũng thay đổi và hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý hơn.
Tuỳ hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi vùng mỗi quốc gia mà xác lập
được một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất
định. Không thể có một cơ cấu mẫu làm chuẩn mực trong mọi điều kiện.
1.1.2.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp không ngừng vận động và phát triển theo
hướng ngày càng hoàn thiện hợp lý và có hiệu quả hơn.
Trong triết học Mac đã nói rằng: “Sự vật hiện tượng luôn luôn biến đổi và
vận động không ngừng”. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng vậy chúng luôn luôn
vận động và ngày càng phát triển theo chiều hướng ngày một hợp lý hơn. Lực
lượng sản xuất ngày càng phát triển, khoa học công nghệ ngày càng hiện đại,
phân công lao động ngày càng tỷ mỉ và phức tạp, tất cả những điều đó đã dẫn
đến một cơ cấu nông nghiệp ngày càng phải hoàn thiện hơn. Sự vận động và
biến đổi không ngừng của các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân nói
chung và trong khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng. Cơ cấu kinh tế nông
nghiệp cũng sẽ vận động biến đổi không ngừng thông qua chuyển dịch trong
chính nội tại bản thân nó. Cơ cấu cũ sẽ mất đi và cơ cấu mới sẽ hình thành phát
triển, quá trình đó luôn vận động không ngừng của sự vật hiện tượng. Khi cơ cấu
mới trở thành lỗi thời không còn phù hợp với điều kiện thực tế thì nó lại được
thay thế bằng một cơ cấu mới tiến bộ và hoàn thiện hơn. Sự vận động và biến đổi
là tất yếu, phản ánh sự phát triển không ngừng của văn minh nhân loại.

1.1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình và cũng không
thể có một cơ cấu hoàn thiện bất biến.
Chuyến dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một quá trình làm thay đổi cấu
trúc và mối quan hệ của nền kinh tế theo mục đích và phương hướng nhất định.
Quá trình này tất yếu phải xẩy ra bởi sự phát triển và vận động không ngừng của
sự vật đó. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp sẽ vận động và chuyển hoá từ cơ cấu cũ


11

sang cơ cấu kinh tế mới đòi hỏi phải có thời gian và qua các nấc thang nhất định
của sự phát triển. Đầu tiên là biến đổi về lượng và khi lượng được tích luỹ đến độ
nhất định sẽ dẫn đến sự chuyển đổi về chất. Đó là quá trình chuyển hoá cơ cấu
kinh tế cũ sang một cơ cấu kinh tế mới một cách phù hợp và có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó sự tác động của con người có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Vì thế, cần phải có những giải pháp chính sách và cơ chế quản lý thích
hợp để định hướng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng
và chuyển dịch kinh tế nông thôn nói riêng. Tất cả sự nóng vội sẽ dẫn tới sự trì trệ
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gây phương hại đến sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp phải là một quá trình không thể khác được nhưng không phải là một quá
trình tự do của con người. Trên cơ sở nhận thức, nắm bắt được quy luật khách
quan của cơ cấu kinh tế nông nghiệp con người sẽ tác động theo những mục tiêu
đã định nhằm chuyển một cách có hiệu quả và đúng hướng phục vụ cho con
người. Nhưng vấn đề quan trọng là phải bắt nguồn từ đâu và với những biện pháp
nào mà khi tác động vào nó sẽ gây phản ứng dây truyền tạo ra bước phát triển nói
nên tổng thể kinh tế nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
1.1.2.4. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được hình thành và phát triển trên cơ sở của
điều kiện tự nhiên và mức độ khai thác cải tạo điều kiện tự nhiên (đất đai, thời

tiết, khí hậu).
Thật vậy, sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên vì vậy cơ
cấu kinh tế nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện tự nhiên. Một nền
nông nghiệp hay, một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hiệu quả là phải đạt năng suất cây
trồng, vật nuôi cao với chi phí ít trên một đơn vị sản phẩm. Muốn vậy phải lợi dụng
tối đa các yếu tố của điều kiện tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất. Cơ cấu
kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo xu hướng ngày càng lợi dụng được điều kiện
tự nhiên và cải tạo tự nhiên có lợi nhất.


12

1.1.2.5. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành và biến đổi gắn liền với sự ra đời
và phát triển của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
Kinh tế nông nghiệp trải qua một quá trình phát triển từ nền kinh tế sinh
tồn sang kinh tế tự cung tự cấp, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp rất
chậm chạp và trì trệ. Từ khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá (kinh tế
thị trường) thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới được hình thành đa dạng và có
hiệu quả hơn.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với hiệu quả
sử dụng đất
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc điểm tự nhiên
sinh thái của vùng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Sản xuất nông
nghiệp bao gồm cây trồng, vật nuôi nên việc áp dụng các phương thức sản xuất
nông lâm nghiệp với các mô hình canh tác phù hợp với điều kiện sinh thái của
từng vùng như trồng những loại cây phù hợp với đặc điểm về thời tiết, đất đai,
loại đất, … hay biết kết hợp các loại cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện
sinh thái vùng, địa điểm canh tác thì sẽ đem lại năng suất cao hơn, giá trị sản
xuất trên một đơn vị diện tích sẽ cao hơn, từ đó hiệu quả sử dụng đất sẽ được
nâng cao.

- Trong nông nghiệp, khi hiệu quả sử dụng đất được nâng cao tức là người
dân đã bố trí các phương thức sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi) phù hợp với điều
kiện tự nhiên sinh thái. Do vậy, cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã được chuyển dịch
theo xu hướng nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp vì thế tác động đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.4. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng
cao hiệu quả sử dụng đất
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, nội dung của cơ cấu kinh tế nông
nghiệp (KTNN) bao gồm: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành
phần kinh tế, cơ cấu kỹ thuật. Sự phân công lao động theo ngành là cơ sở hình


13

thành cơ cấu ngành, sự phân công lao động phát triển ở trình độ cao, càng tỷ mỷ
thì sự phân công chia ngành càng đa dạng và sâu sắc. Trong lịch sử phát triển xã
hội loài người trong thời gian dài kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn
nuôi chưa phát triển, những nước kém phát triển tỷ trọng trồng trọt trong nông
nghiệp chiếm rất cao, đại bộ phận nông dân chủ yếu tham gia lao động trồng trọt
chỉ có số ít là kết hợp và chăn nuôi. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và tiến bộ khoa học - kỹ thuật đặc biệt sự phát triển của nông nghiệp hiện
đại, cơ cấu KTNN được cải biến nhanh chóng theo hướng sản xuất hàng hóa,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành và nội bộ ngành
Sản xuất nông nghiệp bao gồm: Nông nghiệp theo nghĩa hẹp (trồng trọt và chăn
nuôi); lâm nghiệp; thuỷ sản và dịch vụ nông nghiệp.
Do vậy trong cơ cấu ngành còn phải xét tới sự chuyển dịch của ngành lâm
nghiệp và ngành dịch vụ. Cơ cấu ngành của kinh tế nông nghiệp bao gồm các
nhóm ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp và lâm nghiệp.
Trong mỗi nhóm ngành lại được chia thành những ngành hẹp hơn. Trong

trồng trọt lại được chia thành cây lương thực, cây công nghiệp, cây thực phẩm,
cây ăn quả, cây dược liệu... Trong ngành chăn nuôi được phân chia thành: đại gia
súc, tiểu gia súc, gia cầm...kinh nghiệm trong nước và thế giới cho thấy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính qui luật: từ trồng trọt mở ra lâm
nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, sản xuất hàng hoá.
- Trước thời kỳ đổi mới nước ta là một nước có nền kinh tế kém phát triển,
cơ cấu kinh tế chậm chuyển biến. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu
kinh tế, cơ cấu chậm chuyển dịch nguyên nhân chủ yếu là sản xuất kém phát triển,
năng suất lao động thấp, phân công lao động chưa hợp lý nên tình trạng thiếu
lương thực kéo dài .Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ 1989 trở lại đây, sản xuất nông
nghiệp đã đạt được thành tựu to lớn: Lương thực không chỉ cung cấp đủ ăn mà


14

còn dư thừa lương thực để xuất khẩu. Vì vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta
đã chuyển dịch nhanh chóng theo hướng có hiệu quả.
- Những nước có trình độ kém phát triển, nông nghiệp chiếm đại bộ phận
trong nền kinh tế thì sự phát triển của lực lượng sản xuất đặc biệt là tiến bộ khoa
học kỹ thuật cần được ứng dụng vào sản xuất để cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh chóng theo hướng CNH,HĐH.
1.1.4.2.Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ
Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo
lãnh thổ đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau. Sự phân công
lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên những vùng lãnh thổ nhất định.
Cơ cấu kinh tế phân theo vùng lãnh thổ là việc bố trí các ngành kinh tế theo
không gian khu vực cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế tiềm năng của vùng, lãnh
thổ. Ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu KTNN theo vùng, lãnh thổ đi vào chuyên
môn hoá và tập trung hoá hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn tập
trung để mang lại hiệu quả kinh tế cao và gắn kết với các vùng chuyên môn hoá

khác, gắn cơ cấu của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước. Trong từng
vùng lãnh thổ coi trọng chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp đa dạng.
- Để hình thành cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ hợp lý thì cần bố trí các
ngành trên vùng lãnh thổ hợp lý và khai thác đầy đủ tiềm năng của từng vùng.
Đặc biệt cần bố trí các ngành chuyên môn hoá dựa trên những lợi thế so sánh
từng vùng, cụ thể là: Những vùng có đất đai tốt, khí hậu thuận lợi, đường giao
thông lớn và các khu công nghiệp đô thị.
- So với cơ cấu ngành thì cơ cấu vùng lãnh thổ có tính trí tuệ hơn, có sức ỳ
hơn, chậm chuyển dịch hơn vì thế khi bố trí các vùng chuyên môn hoá cần được
xem xét cụ thể thận trọng nếu phạm sai lầm thì sẽ khó khắc phục và gây ra
những tổn thất rất lớn.
1.1.4.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo thành phần kinh tế


15

Trong suốt thời gian dài của thời kỳ bao cấp ở nước ta, cơ cấu thành phần
kinh tế trong nông nghiệp chậm chuyển biến với sự tồn tại thuần nhất của hai loại
hình kinh tế, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Đến đại hội VI của Đảng với
yêu cầu đặt ra là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước thì ở nước ta đã có nhiều thành phần kinh tế phát triển.
- Điều đáng chú ý trong qua trình chuyển dịch cơ cấu KTNN theo thành
phần kinh tế nổi lên các xu thế sau: Đó sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế
trong đó kinh tế hộ nổi lên thành kinh tế hộ độc lập, tự chủ, đây là thành phần kinh
tế năng động nhất, tạo ra sản phẩm hàng hoá phong phú đa dạng cho xã hội. Trong
quá trình phát triển kinh tế hộ chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất
hàng hoá nhỏ tiến tới hình thành các trang trại, công trại (sản xuất hàng hóa lớn).
- Thành phần kinh tế quốc doanh có xu hướng giảm mạnh nhà nước đang
có biện pháp sắp xếp, rà soát lại, hoặc chuyển sang các chức năng khác cho phù
hợp với điều kiện hiện nay.

Thành phần kinh tế tập thể (hay kinh tế hợp tác ) còn chuyển đổi chức
năng của mình sang các HTX kiểu mới làm chức năng hướng dẫn sản xuất và
công tác dịch vụ phục vụ cho nguyện vọng của các hộ nông dân mà trước đây
chức năng của HTX là trực tiếp điều hành sản xuất.
Như vậy, sự phát triển đa dạng của các thành phần kinh tế cùng với việc
chuyển đổi chức năng cuả nó làm chuyển dịch cơ cấu KTNN theo thành phần
kinh tế theo hướng phát huy hiệu quả của các thành phần kinh tế .
1.1.5. Nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất;
Cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn luôn biến đổi, chuyển dịch
dưới tác động của nhiều nhân tố: nhân tố bên trong – bên ngoài, nhân tố khách
quan – chủ quan. Trong những nhân tố tác động, có những nhân tố tích cực thúc
đẩy phát triển, song cũng có những nhân tố hạn chế, kìm hãm sự chuyển dịch và


16

phát triển. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn có
thể chia thành các nhóm sau:
1.1.5.1. Nhóm nhân tố tác động từ bên trong
* Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ của xã hội
Thị trường là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến sự
hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nói riêng. Nhân tố thị trường tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh
tế nông nghiệp, thể hiện như sau:
- Tạo ra quá trình mở rộng và khai thác tiềm năng cho sự phát triển của các
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, đa dạng hoá ngành nghề ở nông
thôn, khuyến khích mở rộng đầu tư trong và ngoài nước, tạo ra sự tăng trưởng
nhanh cho các ngành kinh tế ở nông thôn nói riêng và cả nước nói chung.

- Tác động của sự cạnh tranh và nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao trên thị
trường tạo động lực thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đổi mới
công nghệ ở trong nội bộ từng ngành trở nên bức thiết.
- Thông qua lợi ích kinh tế thu được sẽ tạo ra động lực chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nhằm đạt hiệu quả ở mức cao hơn.
Như vậy, thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội là người đặt hàng cho
tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó không chỉ qui định số lượng mà cả chất
lượng các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nên nó có tác động trực tiếp đến quy mô,
trình độ phát triển của các ngành, lĩnh vực ở địa phương…
* Nhân tố các nguồn lực
Các nguồn lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ có vai trò quan trọng
trong việc hình thành và tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế, nhất là
ở khu vực nông thôn.
- Vị trí địa lý của một vùng lãnh thổ góp phần tạo ra sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng đó.


17

- Tài nguyên thiên nhiên: gồm khoáng sản, đất đai, khí hậu, lâm sản, hải
sản…là một trong những nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất, là điều kiện
cần thiết để phát triển các ngành kinh tế.
- Tuy nhiên tài nguyên thiên nhiên là hữu hạn, do đó cần tính toán chuyển
dịch cơ cấu các ngành kinh tế để đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên
đó, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho thế hệ sau.
- Dân số, sức lao động: đây được xem là nguồn lực quan trọng cho phát
triển kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nói riêng. Dân số và tốc độ tăng dân số của một quốc gia hay vùng lãnh
thổ có ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu
kinh tế. Có một nguồn lao động dồi dào thì sẽ có nguồn nhân lực phục vụ cho

sản xuất nhiều hơn, nhưng nếu tốc độ tăng dân số quá cao sẽ làm tăng trưởng
kinh tế chậm lại.
Việc cải thiện chất lượng lao động hay nguồn nhân lực là cơ sở quan trọng
để phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật cao, có tác dụng kích thích tăng trưởng
kinh tế.
- Vốn đầu tư: Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình sản xuất,
quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Nhà nước sử dụng ngân sách để đầu tư phát
triển sản xuất sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu ngành công
nghiệp một cách nhanh chóng.
Vốn đầu tư là chìa khoá cho mọi sự phát triển của quốc gia nói chung và
địa phương nói riêng. Không có vốn đầu tư để hiện đại hoá trang thiết bị, đổi
mới công nghệ thì không có tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
* Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tại khu vực nông thôn
Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu lao động và con người có khả năng sử
dụng tư liệu lao động để tác động vào các đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Lực lượng sản xuất phát triển sẽ


18

làm thay đổi quy mô sản xuất, công nghệ, trang thiết bị… làm hình thành và phát
triển các ngành nghề mới, chuyển lao động từ đơn giản thành phức tạp, từ ngành
nghề này sang ngành nghề khác… Làm phá vỡ những cơ cấu cũ, thiết lập một cơ
cấu kinh tế mới phù hợp hơn.
* Cơ chế quản lý của Nhà nước
Cơ chế quản lý của Nhà nước có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng.
Cơ chế quản lý khoa học, phù hợp với quy luật khách quan và tình hình thực tiễn
thì nó sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh và hiệu quả. Ngược lại nó sẽ kìm hãm, làm chậm lại
quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
* Định hướng chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước trong từng giai đoạn
Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch sử xã hội, nhưng
nó lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Nhà nước tác động gián tiếp
thông qua định hướng chiến lược, đặt ra các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội
và khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhằm đạt các mục tiêu đề ra.
Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, không quy định cụ
thể về cơ cấu kinh tế song thông qua chiến lược phát triển, mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội, Nhà nước có sự điều tiết vĩ mô, dẫn dắt các ngành, lĩnh vực
kinh tế phát triển theo định hướng chung, đảm bảo tính cân đối và đồng bộ của
nền kinh tế.
1.1.5.2. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài
*Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất
Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đã hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế,
cùng với việc ứng dụng các công nghệ mới và sự phát triển mạnh mẽ của các
công ty đa quốc gia đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch sản xuất kinh doanh vượt
xa hơn biên giới của một vùng lãnh thổ.


19

Xu thế này tạo ra sự đan xen vào nhau, khai thác thế mạnh của nhau, thúc
đẩy hợp tác với nhau một cách toàn diện cả trong sản xuất, trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ. Tính phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế tăng lên, các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước và
các khu vực ngày càng trở lên sâu rộng và mật thiết. Quá trình phân công lao
động trở lên sâu sắc và chuyên môn hoá hơn, làm cơ sở cho quá trình quốc tế
hoá lực lượng sản xuất ( hay công nghiệp hoá toàn cầu).

*Xu hướng chính trị xã hội của khu vực và thế giới
Xét đến cùng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Sự biến động về
chính trị – xã hội của một nước, một khu vực hoặc thế giới sẽ tác động mạnh mẽ
đến hoạt động ngoại thương, đầu tư, chuyển giao công nghệ…buộc các nước phải
điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng phù hợp, đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển.
*Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến được coi là nhân tố
quyết định đối với quá trình sản xuất, làm tăng mạnh giá trị kinh tế các ngành,
lĩnh vực, tạo ra những bước đột phá lớn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Như vậy, các nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội, là nhân tố tác động đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu kinh tế nông nghệp. Tuy nhiên, chính các nhân tố bên trong mới giữ vai
trò then chốt và quyết định đối với quá trình chuyển dịch trên.
1.1.6. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao
hiệu quả sử dụng đất
* Về trồng trọt:
- Thâm canh tăng vụ để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
- Chuyển từ cây trồng mang hiệu quả kinh tế thấp sang các loại cây trồng
mang lại hiệu quả kinh tế cao.


20

- Hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá, sản xuất tập trung.
* Về chăn nuôi.
Chuyển đổi từ vật nuôi có giá trị kinh tế thấp sang vật nuôi có giá trị kinh
tế cao.
* Về thuỷ sản.

Phát triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đem lại hiệu quả kinh tế cao,
phát triển hình thức nuôi lồng bè, giảm tỷ lệ khai thác tự nhiên và tăng cường
đầu tư vào nuôi trồng các loại thuỷ sản có giá trị.
* Về lâm nghiệp.
Đầu tư phát triển rừng sản xuất, trồng rừng tập trung và trồng các loại cây
lâm nghiệp sinh trưởng, phát triển nhanh và có giá trị cao.
1.1.7. Những Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu KTNN là một trong những chủ trương, chính sách
của đảng và nhà nước để phát triển kinh tế đất nước và phát triển nông nghiệp
nông thôn.
Để định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn, nhà nước đã ban hành
một loạt các chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu KTNN, cụ thể là:
- Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị
về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.
- Nghị quyết số 09/NQ/CP ngày 15 tháng 6 của chính phủ về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
- Thông tư số 44/1999/TT-BTC ngày 26/4/1999 của Bộ Tài chính hướng
dẫn về ưu đãi thuế đối với hợp tác xã
- Nghị quyết số 03-NQ/CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về
kinh tế trang trại.


21

- Nghị định số 85/1999/NĐD-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và bổ
sung việc giao đất làm muối cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài.
- Nghị định số 68/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2001 của Chính

phủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
- Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và
nông thôn.
- Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngà 04/4/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001-2005.
-

Quyết định số 225/1999/QĐ-TTg ngày 10/12/1999 của Thủ tướng

Chính phủ về việc phê duyệt chương trình giống cây trồng, giống vật nuôi và
giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2005.
- Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ
tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được
giao, được thuê, nhận khoá rừng và đất lâm nghiệp.
- Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010.
- Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg ngày 15/7/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển giống thuỷ sản.
1.2. Khái quát tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số
nước trên thế giới và ở nước ta
1.2.1. Khái quát tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số
nước trên thế giới.
1.2.1.1. Nhật Bản.
Nhật Bản là nước nằm ở vùng Đông Á, diện tích tự nhiên là 372.313 km2,
diện tích đất canh tác khoảng 4.422.000 ha chiếm 11,7% diện tích đất tự nhiên


22


do địa hình đồi núi. Vì vậy, Nhật Bản là nước có bình quân đất canh tác trên đầu
người vào loại thấp nhất thế giới (khoảng 390m2/người). Tuy nằm ở vùng Đông
Á song Nhật Bản có điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội lúc xuất phát khá
giống nước ta đất ít, người đông, ruộng đất manh mún, quy mô các hộ nông dân
nhỏ bé, lúa nước là cây trồng chính.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái, thiếu
lương thực trầm trọng... Chính lúc đó, Nhật Bản đề ra chương trình mục tiêu
đảm bảo an ninh lương thực và chính sách cải cách kinh tế nông thôn.
Về lương thực: Chính phủ Nhật Bản chủ trương cải tạo 1,55 triệu ha đất
và định cư cho 1 triệu hộ nông dân trong 5 năm.
Về cải cách ruộng đất: Bắt buộc các điền chủ có diện tích đất lớn hơn theo
quy định phải bán cho nông dân để nông dân có đất sản xuất.
Chính phủ ban hành các chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp: chính
sách ổn định giá cả, tự do lưu thông hàng hóa, tăng cường công tác khuyến nông
do Nhà nước đầu tư, hoàn thiện quy trình sản xuất nông nghiệp, cải thiện điều
kiện sống...
Từ năm 1947, Chính Phủ Nhật Bản ban hành một số đạo luật nhằm thúc
đẩy nông nghiệp phát triển cao hơn: Luật Tài trợ cho nông dân trong trường hợp
gặp thiên tai, luật Tăng cường màu mỡ của đất, luật Đất đai nông nghiệp... Do
đó, từ năm 1949 lương thực đã có bước phát triển khá. Năm 1951, thu nhập của
hộ nông dân cao hơn hộ công nhân thành phố 30%. Năm 1956, lại kém hơn
10%. Trước tình hình đó, Nhật Bản lại đề ra mục tiêu: “Phát triển những đặc sản
nông nghiệp đáp ứng cho từng khu vực riêng”. Do vậy, Nhật Bản lại tiến hành
chuyển dịch CCKT nông nghiệp cho phù hợp. Năm 1975, Nhật Bản thực hiện
chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy an ninh lương thực làm mục tiêu
chính. Đến năm 1979, sản xuất gạo dư thừa, có gạo bán trên thị trường nội địa 6
triệu tấn. Từ năm 1990, Nhật Bản chủ trương chuyển 830.000 ha lúa sang sản
xuất các cây con khác có hiệu quả hơn. Hiện nay, Nhật trở thành nước nhập khẩu



23

nông sản lớn nhất thế giới, với khối lượng nông sản nhập khẩu hàng năm là gần
20 triệu tấn ngô; 5,5 triệu tấn lúa mỳ; 5 triệu tấn đậu tương; gần 2 triệu tấn
đường; trên 700 nghìn tấn thịt và hàng triệu tấn rau quả.
Quá trình điều chỉnh CCKT nông nghiệp của Nhật Bản là nhờ sự nhạy
bén nắm bắt các quy luật phát triển của nền kinh tế thị trường trong mỗi thời kỳ
nhất định.
1.2.1.2. Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Indonesia.
Với hơn 200 triệu dân và 70% dân cư sống ở nông thôn, ngành nông
nghiệp Indonesia có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Để
chuyển dịch cơ cấu KTNN Indonesia đã ban hành chính sách phát triển nông
nghiệp trong đó tập trung sản xuất lương thực, thực phẩm vì mục tiêu an toàn
lương thực, thực phẩm và đề cao vai trò khu vực nông thôn.
Để thực hiện việc dễ dàng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
chính phủ nước này đã tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, công
trình thuỷ lợi, nghiên cứu ứng dụng các loại giống cao sản… đều được trợ giá ở
mức độ khác nhau. Đây chính là điều kiện nhằm khuyến khích phát triển cho nền
kinh tế nông nghiệp.
Cơ cấu và diện tích cây trồng liên tục được mở rộng, chú trọng phát triển
những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu ở các trang trại nhà nước và tư nhân.
Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia thực hiện khá tốt chính sách phát triển
kinh tế trang trại. Nhờ đó, Indonesia trở thành nước xuất khẩu ca cao, cà phê,
chè hàng đầu thế giới. Chính phủ nước này luôn cố gắng duy trì sự cần bằng
tương đối giữa nông nghiệp và những ngành công nghiệp, dịch vụ.. đưa khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ giải quyết các yếu tố đầu
vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp.
1.2.1.3. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trong nông nghiệp cây lúa là cây trồng chính được trồng khắp các vùng,
chiếm khoảng ½ diện tích trồng trọt của cả nước. Để tăng thu nhập, cải thiện đời



24

sống cho nông dân chính phủ Thái Lan đã thực hiện chủ trương đa dạng hoá
nông nghiệp, giảm bớt nhập khẩu vật tư nông nghiệp, bảo tồn các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp.
Cụ thể, Thái Lan đã chú trọng mở mang đất đai, đầu tư sang sản xuất cây
ngũ cốc, cây ăn quả, chăn nuôi, lâm nghiệp, đánh cá, hoa, cây cảnh, ... Tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP giảm từ 50,1% năm 1951 xuống còn 14,2 % năm 1990.
Giá trị gạo trong tổng giá trị xuất khẩu từ 45% năm 1950 giảm xuống còn 4,4%
năm 1992. Thái Lan cũng đã giảm tỷ trọng phế phẩm nông nghiệp từ 40,9 %
xuống còn 25%. Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp cũng giảm từ 83,8%
xuống còn 7,4 %.
Thời kỳ năm 1987 đến 1996, mức tăng trung bình của nông nghiệp là
3,4%. Cũng trong thời gian ấy, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong tổng số
lao động cả nước giảm xuống còn 60 %. Sự chuyển dịch trong cơ cấu sản xuất
nông nghiệp của Thái Lan phản ánh định hướng phát triển thương mại theo lợi
thế một số mặt hàng xuất khẩu trong cơ cấu sản phẩm nông nghiệp mở rộng
(trước đây chỉ có lúa, ngô, sắn nay có thủy hải sản, gà đông lạnh, dứa hộp, cà phê,
hạt tiêu, rau và hoa quả). Để giúp nông dân phát triển sản xuất, chuyển dich cơ
cấu cây trồng, Chính phủ Thái Lan đã ban hành các chính sách tạo điều kiện cho
nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm chi phí, tăng cường chế biến nông
sản tại hộ gia đình nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và tạo ra nhiều loại sản phẩm
có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, hỗ trợ thiết lập các thị trường trong nước trở
thành nơi mua và bán nông sản ở từng địa phương; thay thế vụ lúa thứ hai bằng
những mặt hàng có lãi suất cao hơn ở những vùng trồng lúa không thích hợp; giới
thiệu cho nông dân mô hình sản xuất đa canh có lợi cho nông dân học tập, giúp
nông dân ít đất vùng khó khăn thu hồi vốn nhanh; thành lập hệ thống tín dụng có
khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho người sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng, phổ

biến công nghệ mới và cung cấp thông tin nhanh cho người nông dân.


25

1.2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao
hiệu quả sử dụng đất ở Việt Nam
* Những thành tựu đã đạt được
Trong những năm gần đây nông nghiệp, nông thôn Việt nam đã đạt được
những thành tựu toàn diện và to lớn, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp đã đạt được nhiều thành công, cụ thể:
- Từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp, lạc hậu, thiếu lương thực triền
miên đến nay về cơ bản đã là một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao, nhiều mặt hàng xuất
khẩu chiếm tỷ trọng có trong khu vực và thế giới. Tính sản xuất hàng hoá còn
thể hiện trong cơ cấu sản xuất ngày càng đa dạng, quy mô sản xuất ngày càng
tập trung, người sản xuất ngày càng quan tâm tới nhu cầu tị trường. Khoa học –
công nghệ mới ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp.
- Hình thành một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung gắn với công
nghiệp chế biến như: Lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, đòng bằng sông
Hồng mía đường ở miền trung, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, chè ở
trung du miền núi phía Bắc, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, nuôi
trồng thuỷ sản ở nhiều vùng ven biển, …
- Năng lực chế biến nông, lâm, thuỷ sản tăng đáng kể.
- Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã dịch chuyển theo hướng
khai thác lợi thế các đặc thù của mỗi vùng sinh thái.
- Tỷ trọng các cây trồng trong nghành trồng trọt cũng có những chuyển
dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của cây lương thực giảm từ 60,7% (năm
2000) xuống 6,4% (năm 2009), cây công nghiệp năm 2000 là 24% tăng lên
25,6% năm 2009; cây rau đậu từ 7% năm 2000 lên 8,8% năm 2009, cây ăn quả

từ 6,7% năm 2000 lên 7,8% năm 2009.


×