Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG KH&CN PHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH LÀO CAI GIAI ĐOẠN 2010 – 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 21 trang )

HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG KH&CN PHỤC VỤ
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH LÀO CAI GIAI ĐOẠN 2010 – 2013
Ths. Phạm Thị Hồng Loan
Phó Giám đốc Sở KH&CN Lào Cai
Mục đích của Nghị quyết Trung ương 7 là xây dựng nền nông nghiệp phát
triển toàn diện, hiện đại, tạo ra các sản phẩm hàng hóa có giá trị cao. Vì vậy,
KH&CN có vai trò hết sức quan trọng, là một trong những yếu tố mang tính quyết
định sự phát triển nông nghiệp nước Nhà.
Với quan điểm đó, các hoạt động khoa học và công nghệ tỉnh Lào Cai đã tập
trung thúc đẩy ngành sản xuất nông nghiệp, đã thu được kết quả khá toàn diện, góp
phần quan trọng trong việc tăng năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm nông,
lâm, thuỷ sản, thúc đẩy nhanh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản
xuất hàng hoá chất lượng.
Từ năm 2010 đến nay, đã triển khai thực hiện 64 đề tài, dự án (duyệt mới 39
đề tài/dự án và chuyển tiếp là 25). Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp là 45 đề tài chiếm
70,3%, còn lại là các lĩnh vực khác. Một số kết quả nổi bật là:
Đối với lĩnh vực cây trồng:
Cây lương thực: Chọn tạo được 03 giống lúa lai (LC25, LC212, LC270) mang
thương hiệu Lào Cai năng suất trung bình đạt 70-80 tấn/ha đã được Bộ NN&PTNT
công nhận giống mới và được giải Bông lúa vàng năm 2012. Bên cạnh đó hiện nay
đang tiếp tục chọn lọc, duy trì sản xuất hạt giống gốc dòng mẹ của các tổ hợp lúa lai 2
dòng kháng bệnh bạc lá. Khảo nghiệm và lựa chọn được 6 giống mới phù hợp điều kiện
Lào Cai gồm: 02 giống lúa JAPONICA (ĐS1 và J01) có năng xuất, chất lượng cao, phù
hợp điều kiện tự nhiên của Lào Cai, hiện các giống này đã được nhân rộng trên 500 ha
trong năm 2012 ở các huyện vùng thấp như Bảo Thắng, Bảo Yên, Văn Bàn, Bát Xát …,
năng suất đạt từ 60-65 tạ/ha); 02 giống ngô (LVN61 và LCH9) là các giống có năng suất
cao đạt 65-70 tấn/ha cao gấp 1,5 lần so với năng suất bình quân cây ngô toàn tỉnh và khả
năng chống chịu sâu bệnh hại tốt, cơ cấu giống ngô lai chiếm 94,2%; 2 giống khoai
lang (KLC3, VC68-2) có năng suất đạt 20-25 tấn/ha cao gấp trên 2 lần giống địa phương
đang trồng. Ngoài ra, bảo tồn, khai thác và phát triển được 03 giống lúa bản địa có giá
trị kinh tế cao đó là: Lúa Séng Cù, Khẩu Nậm Xít và Chăm Pét, 3 giống này hiện nay


đang được sản xuất theo hướng hàng hóa, trong đó sản phẩm gạo 02 giống lúa Khẩu
Nậm xít và Séng cù đã được bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, giá trị gạo thương phẩm tăng
gấp 1,5-2 lần so với trước đây. Việc áp dụng quy trình canh tác tiên tiến vào sản xuất
tạo ra nhiều ảnh hưởng tích cực khác đến nền sản xuất nông nghiệp của địa phương
như: ”Ứng dụng sản xuất lúa theo quy trình thâm canh cải tiến SRI” đã góp phần
giảm thiểu chi phí nhân công, phân bón, giống và tăng hiệu quả kinh tế gấp 1,2 lần so
với phương pháp canh tác truyền thống...
Từ các kết quả nghiên cứu trên đã góp phần hàng năm đáp ứng được khoảng
60% giống lúa tốt cho nhân dân trong tỉnh, tiến tới sẽ hoàn toàn chủ động việc sản
xuất giống lúa lai tại tỉnh mà không phải nhập ngoại.

1


Cây rau, hoa: Đã khảo nghiệm thành công 2 giống khoai tây (Sinora và
Marabel) là những giống có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất, chất lượng năng
suất đạt từ 19-20 tấn/ha; nghiên cứu thử nghiệm sản xuất rau mầm chất lượng cao và
rau an toàn theo Vietgap như Cải xanh, cải bắp, đậu Hà Lan, đã phát triển sản xuất rau
hoa công nghệ cao quy mô lớn tập trung ở những địa phương có lợi thế đồng thời khuyển
khích phát triển vườn nhà như hoa hồng, hoa ly, hoa lan tại Sa Pa, Bắc Hà.. .

Cây ăn quả: Thực hiện chương trình hợp tác nghiên cứu, khảo nghiệm tập
đoàn nho và cây ăn quả với vùng Aquitaine - Cộng hoà Pháp, đã kết luận được 04
giống nho, 01 giống mận, 06 giống đào và 01 giống táo là có triển vọng phát triển ở
Lào Cai. Hiện nay 2 giống mới: lê VH6 và đào Maycrest/GF 305–1 đã nhân rộng
được 489,6 ha tạo thành vùng sản xuất cây ăn quả ôn đới chất lượng cao, cung ứng
sản phẩm tốt cho thị trường trong và ngoài tỉnh; 02 giống nhãn muộn (PH99M - 1.1,
HTM1), 02 giống xoài xanh (L4 và VRQ-XX1) và cam Vinh cũng đang tiến hành
trồng thử nghiệm tại Lào Cai để bổ sung cơ cấu cây trồng của tỉnh. . Ngoài ra, cây ăn
quả nhiệt đới như chuối, dứa cũng được quan tâm phát triển, đã tạo ra những vùng

sản xuất hàng hóa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Cây chè: KH&CN đã góp phần quan trọng trong phát triển cả về diện tích và
chất lượng chè của tỉnh. Tiến hành các nghiên cứu nhằm bảo tồn nguồn gen các giống
cây trồng bản địa như giống chè tím tại huyện Mường Khương; triển khai Dự án Xây
dựng vùng sản xuất chè an toàn theo hướng VietGAP tại huyện Mường Khương và
nay 1000 ha chè tại Mường Khương đã được công nhận sản xuất chè an toàn theo
hướng VietGAP.
Cây Lâm nghiệp: Đã tiến hành nghiên cứu bảo tồn và phát triển một số loài
cây bản địa quý hiếm có giá trị kinh tế và ý nghĩa khoa học đó là: Bách tán Đài Loan,
Táo mèo và cây keo lai ... và một số nghiên cứu, ứng dụng kỹ thuật mới trong công tác
xác định nguy cơ và phòng cháy rừng như kỹ thuật GIS và xây dựng băng cản lửa.
Lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản:
Chăn nuôi: Tăng cường nghiên cứu chọn lọc, phục tráng và phát triển các
giống gia súc, gia cầm bản địa như lợn đen Mường Khương, Bắc Hà; gà ác Hmong...
hàng năm sản xuất hàng nghìn con giống chất lượng tốt cung ứng tại chỗ cho sản xuất,
hạn chế việc nhập con giống từ nơi khác đến, an toàn dịch bệnh tăng hiệu quả kinh tế
cho hộ chăn nuôi. Ngoài ra tích cực khảo nghiệm, thử nghiệm nuôi các giống mới như: lợn
rừng, gà Hmông, gà Ai Cập, kỳ đà, dúi, nhím, rắn hổ mang. gà Đông Tảo, Gà Zô la,
chim Bồ Câu Pháp.... và đặc biệt là đưa ong ngoại vào nuôi khảo nghiệm theo hướng quy
mô trang trại phù hợp từ khâu sản xuất đến khâu chế biến tạo sản phẩm an toàn VSTP cho hiệu
quả kinh tế rất cao. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn áp dụng các giống gia súc, gia cầm

có năng suất cao, chất lượng tốt, sản xuất theo hướng công nghiệp, bước đầu đã cho
hiệu quả kinh tế cao như phát triển đàn lợn lai tại các huyện vùng thấp, đàn ngựa lai
Cabadin, trâu Bảo Yên...
Thủy sản: Đã có nhiều dự án khuyến khích hỗ trợ các tổ chức cá nhân trong tỉnh


ứng dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất, phát triển các loài thủy sản có giá trị kinh tế
cao như: cá Hồi, cá tầm, cá chiên, Ba Ba gai, ...Tiến hành khảo nghiệm sinh sản nhân

tạo một số giống mới như cá rô đầu vuông, cá trắm đen, cá nheo; khảo nghiệm nuôi
thương phẩm cá lăng nha, cá chẽm, cá lăng chấm, cá nheo vàng... bước đầu đánh giá
được tính thích nghi và tiềm năng phát triển của chúng tại Lào Cai. Dự án ”nuôi cá
thâm canh tổng hợp” đưa năng suất bình quân đạt trên 10 tấn/ha/năm, tăng gấp 2 đến
2,5 lần so với trước đây. Sau sự thành công của mô hình nuôi cá nước lạnh đầu tiên tại
Sa Pa, đến nay mô hình đã được nhân rộng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, trong đó phát triển
mạnh tại Sa Pa với hơn 30 cơ sở nuôi cá hồi, cá tầm thương phẩm, sản lượng đạt trên
150 tấn mỗi năm. Cả tỉnh có 1.720 ha diện tích mặt nước được người dân đưa vào khai
thác nuôi trồng thủy sản. Công tác sản xuất con giống tại chỗ được đặc biệt quan tâm,
bước đầu đã đảm bảo đủ số lượng, chất lượng đáp ứng nhu cầu con giống nuôi
thương phẩm của nhân dân.
Mô hình sản xuất rau an toàn theo VietGAP tại xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai

Từ năm 2010 đến nay triển khai mạnh hoạt động sở hữu trí tuệ, đã hỗ trợ kinh
phí đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu tập thể, Sáng chế và Chỉ dẫn địa lý. Số
lượng nhãn hiệu và kiểu dáng được cấp tăng lên nhanh chóng, từ 45 nhãn hiệu và
kiểu dáng trong giai đoạn trước năm 2010, đến nay đã có 130 nhãn hiệu và 4 kiểu
dáng được cấp. Việc bảo hộ nhãn hiệu không chỉ làm tăng giá trị sản phẩm, mang lại
lợi ích trực tiếp cho người dân mà còn bảo vệ danh tiếng của sản phẩm, nó là công cụ
pháp lý để bảo vệ sản phẩm đó.
Ngoài ra, ứng dụng tiến bộ KH&CN ngành thông tin truyền thông được tăng
cường, thời gian qua đã đầu tư phát triển mạnh mẽ mạng thông tin di động phủ sóng
đến tận các vùng sâu, vùng xa của tỉnh; Mạng Internet tốc độ cao phát triển ngày càng
thông dụng trong các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện, các xã, phường thị trấn,
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và cả trong các hộ gia đình. Dự án ”thư viện điện tử
KH&CN Lào Cai” đã hỗ trợ 20 xã với nhiều tiện ích phục vụ khai thác hiệu quả
thông tin KH&CN, góp phần nâng cao dân trí và đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông
thôn mới của các dân tộc vùng cao;
Tóm lại, KH&CN đã thúc đẩy nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, cơ cấu
kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng. Sản xuất nông nghiệp liên tục được

mùa, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân đạt 6,57%, đã bổ sung 11cây
con, giống mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện của Lào Cai vào
cơ cấu giống của tỉnh Bảo tồn, khai thác và phát triển được 05 giống cây con, bản địa
có giá trị kinh tế cao góp phần bảo tồn nguồn gen và phát triển kinh tế bền vững từ đó
đã góp phần quan trọng để sản lượng lương thực tỉnh năm 2012 đạt 260 nghìn tấn về
trước 3 năm so với mục tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra. Chăn nuôi
phát triển khá ổn định, tốc độ tăng trưởng bình quân 6,19%/năm; giá trị sản xuất
ngành thủy sản đạt 124,2 tỷ đồng, tăng 39,47 tỷ đồng so với năm 2010, tốc độ tăng
trưởng bình quân 21,1%. Giá trị sản phẩm thu hoạch trên 1 ha đất trồng trọt và nuôi
trồng thủy sản đạt 39 triệu đồng, tăng 21 triệu đồng so với năm 2008.
Tuy nhiên, việc ứng dụng tiến bộ KH&CN trong sản xuất, đời sống cũng còn
những khó khăn, hạn chế nhất định như: nguồn nhân lực hoạt động KH&CN còn ít,


thiếu các chuyên gia đầu ngành; việc ứng dụng khoa học và công nghệ còn nhỏ lẻ, kết
quả một số đề tài, dự án nghiên cứu khoa học chưa được áp dụng rộng rãi vào sản
xuất; các huyện, thành phố chưa có cán bộ chuyên trách quản lý nhà nước về khoa
học và công nghệ, hầu hết hoạt động kiêm nhiệm nên chất lượng chưa cao.
Để phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, từ nay
đến năm 2015 tập trung thực hiện một số định hướng:
- Nghiên cứu, ứng dụng để tạo ra các sản phẩm chủ lực trong sản xuất nông lâm
nghiệp của tỉnh thông qua các hoạt động: Tập trung nghiên cứu chọn tạo một số
giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất chất lượng cao mang thương hiệu của
tỉnh; Bảo tồn, khai thác, phát triển các nguồn gen cây trồng, vật nuôi đặc hữu, quý
hiếm có giá trị kinh tế cao của tỉnh để tạo ra các sản phẩm đặc sản, hướng tới sản xuất
hàng hóa tăng thu nhập cho người dân địa phương; Khảo nghiệm đưa vào sản xuất
một số giống mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện của Lào Cai,
qua đó sẽ bổ sung vào cơ cấy cây trồng tăng vụ nâng cao hiệu quả trên một đơn vị
diện tích đất canh tác; Thử nghiệm phương thức canh tác bền vững theo tiêu chuẩn
Quốc gia, Quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa phù hợp từng vùng sinh

thái của địa phương; Nghiên cứu đưa tiến bộ KH&CN vào bảo quản, chế biến để
giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị sản phẩm.
- Nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất đai phù hợp với từng vùng và tiểu
vùng sinh thái để hình thành và phát triển những vùng kinh tế nông nghiệp điển hình
như: vùng trồng rau, hoa; cây công nghiệp, lâm nghiệp và vùng nuôi gia súc, gia cầm,
thủy sản.
- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu KH&CN mới nhằm hạn chế, ngăn chặn
xứ lý suy thoái, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là trong các cơ sở sản xuất tập trung,
các làng nghề.
- Đẩy mạnh việc hỗ trợ xác lập, khai thác, quản lý, bảo vệ và phát triển tài sản
trí tuệ của các tổ chức và cá nhân.
Với sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và hỗ
trợ của Trung ương, sự nỗ lực và trách nhiệm của các cấp, các ngành, với tiềm năng
trí tuệ, tinh thần sáng tạo và đặc biệt là nguồn lực khoa học công nghệ đang được
tăng cường tạo điều kiện đưa hàm lượng chất xám ngày càng cao vào sản phẩm, tất
yếu sẽ tạo những đột phá cho sự phát triển nông lâm nghiệp của tỉnh trong những
năm tới./.

HOẠT ĐỘNG KH-CN TRONG TỈNH

Kết quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Lào Cai năm 2013
Vũ Thị Hợi
GĐ Trung tâm UDTBKHCN

Những năm qua hoạt động ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tỉnh

Lào Cai có nhiều chuyển biến tích cực,
kết quả góp phần quan trọng trong việc



phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Một số kết quả ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ nổi bật trong năm
2013 là:
Trong lĩnh vực nông nghiệp và
nông thôn: KH&CN đã góp phần tích
cực trong việc nâng cao năng suất cây
trồng góp phần ổn định cuộc sống cho
nhân dân các dân tộc vùng cao và công
cuộc xóa đói giảm nghèo của tỉnh.

Mô hình trồng địa lan tại Sa Pa
(ảnh: Ngọc Thắng)
Về cây lúa, diện tích gieo cấy vụ
xuân đạt 9.885 ha, trong đó giống lúa lai
chiếm 49,3%, giống lúa chất lượng cao
chiếm 23,2% bao gồm các giống Séng
cù, ĐS1, Bắc thơm và Hương thơm,
năng suất bình quân đạt 56,2 tạ/ha sản
lượng đạt 55.553 tấn; Tăng cường sản
xuất hạt giống lúa lai và lúa thuần chất
lượng cao tại tỉnh, diện tích lúa lai vụ
xuân là 73 ha, năng suất đạt 2,5 tấn/ha hạt
lai F1, sản lượng dự kiến đạt 182 tấn, sản
xuất 05 ha giống lúa séng cù cấp nguyên
chủng, sản lượng đạt 20 tấn và 7 ha hạt
giống cấp xác nhận năng suất đạt 5
tấn/ha, sản lượng 35 tấn; Cây ngô diện
tích trồng 23.772 ha, trong đó ngô đông

xuân 11.126 ha, năng suất bình quân đạt
36,51 tạ/ha. Cơ cấu giống ngô lai chiếm
94,2%, còn lại là các giống ngô địa
phương; Cây đậu tương, diện tích trồng

1.882 ha, năng suất bình quân đạt 10,18
tạ/ha, sản lượng 1.915 tấn; Cây thuốc lá,
diện tích trồng đến 30 tháng 6 là 276 ha,
về năng suất ước đạt từ 1,7-2,2 tấn/ha,
chất lượng tốt; Cây chè, năm 2012 tổng
diện tích chè toàn tỉnh đạt 4.368,12 ha,
trong đó diện tích chè kinh doanh
3.609,87 ha, diện tích cho thu sản phẩm
ổn định là 2.971 ha, sản lượng thu
hoạch 6 tháng đầu năm đạt 3.047 tấn.
Về cây rau, một số huyện Sa Pa,
Bắc Hà, Mường Khương, Bát Xát và
thành phố Lào Cai đã phát triển sản xuất
rau chuyên canh an toàn với diện tích
trồng trên 100ha gồm các giống rau bắp
cải, bí đỏ, cà chua, cải thảo và nổi bật
lên là cây su su Sa Pa, sau khi được bảo
hộ nhãn hiệu tập thể sản phẩm su su Sa
Pa đã có mặt ở nhiều nhà hàng, siêu thị
thuộc các tỉnh như Hà Nội, Hải Phòng,
Bắc Ninh…, diện tích vùng sản xuất su
su đã đạt trên 120 ha, năng suất quả dự
kiến khoảng 50 tấn/ha/năm với giá giao
hiện nay cho các nhà hàng, siêu thị ở
các tỉnh là 4.000đồng/kg thì sẽ cho

doanh thu khoảng 24 tỷ đồng ...
Để khai thác lợi thế vùng ôn đới,
Lào Cai tiếp tục phát triển một số giống
hoa như hoa hồng, hoa lý, hoa lan tại Sa
Pa, Bắc Hà đồng thời nghiên cứu, chọn
tạo và phát triển một số dòng cây ăn quả
ôn đới có chất lượng và giá trị kinh tế
cao như: mận tam hoa Bắc Hà; cây Lê
VH6 và giống đào Pháp chín sớm xây
dựng tạo lập, quản lý và phát triển nhãn
hiệu chứng nhận “Mận Bắc Hà” nhằm
nâng cao giá trị sản phẩm mận địa
phương và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Ngoài ra, cây ăn quả nhiệt đới như
chuối, dứa cũng được nhân dân quan
tâm phát triển, đã tạo ra những vùng sản
xuất hàng hóa mang lại hiệu quả kinh tế
cao.


Đối với cây chè: KH&CN đã góp
phần quan trọng trong phát triển cả về
diện tích và chất lượng chè của tỉnh.
Đến nay tổng diện tích chè tập trung
toàn tỉnh đạt trên bốn ngàn ha, trong đó
chè kinh doanh đạt gần ba ngàn ha, năng
suất bình quân đạt 45,9 tạ/ha, sản lượng
chè búp tươi cả năm ước đạt 13.639 tấn.
Đồng thời để nâng cao chất lượng sản
phẩm, Lào Cai đã triển khai Dự án Xây

dựng vùng sản xuất chè an toàn theo
hướng ViệtGAP tại huyện Mường
Khương.
Về chăn nuôi: Nhiều hộ gia đình
đã mạnh dạn áp dụng các giống gia súc,
gia cầm có năng suất cao, chất lượng tốt,
sản xuất theo hướng công nghiệp, bước
đầu đã cho hiệu quả kinh tế cao phát
triển đàn lợn lai tại các huyện vùng thấp,
phát triển đàn bò lai Shin, đàn ngưa lai
Cabadin... Đồng thời tăng cường chọn
lọc, phát triển các giống gia súc, gia cầm
bản địa như lợn đen Mường Khương,
Bắc Hà; đàn bò vàng Mường Khương;
gà ác Hmong... tạo ra các sản phẩm đặc
trưng của từng vùng. Ngoài ra tích cực
khảo nghiệm các giống vật nuôi đặc hữu
như lợn rừng, dúi, nhím, cầy hương, cầy
nhung đen, rắn hổ mang... nhằm đánh
giá tính thích nghi, hiệu quả kinh tế để
khuyến khích nhân ra diện rộng tạo ra
các đặc sản tại địa phương.

Dự án nuôi khảo nghiệm Ba Ba gai
tại Lào Cai (ảnh: Thanh Phúc)

Về nuôi trồng thủy sản: 1.720 ha
diện tích mặt nước được người dân đưa
vào khai thác nuôi trồng thủy sản; sản
lượng ước đạt hai nghìn tấn. Công tác

sản xuất con giống tại chỗ được đặc biệt
quan tâm, bước đầu đã đảm bảo đủ số
lượng, chất lượng đáp ứng nhu cầu con
giống nuôi thương phẩm của nhân dân,
6 tháng đầu năm 2013 đã sản xuất được
3,6 triệu con giống cá rô phi đơn tính,
chép lai ba máu, mè…, đã cung ứng cho
nhân dân khoảng 2 triệu con. Tiến hành
khảo nghiệm sinh sản nhân tạo một số
giống mới như cá rô đầu vuông, cá trắm
đen, cá nheo; khảo nghiệm nuôi thương
phẩm cá lăng nha, cá chẽm, cá lăng
chấm, cá nheo vàng... bước đầu đánh giá
được tính thích nghi và tiềm năng phát
triển của chúng tại Lào Cai.
Ngoài ra, nhiều lĩnh vực khác
cũng đã tăng cường ứng dụng tiến bộ
KH&CN, nổi bật lên là ngành thông tin
truyền thông, thời gian qua đã đầu tư
phát triển mạnh mẽ mạng thông tin di
động phủ sóng đến tận các vùng sâu,
vùng xa của tỉnh; Mạng Internet tốc độ
cao phát triển ngày càng thông dụng
trong các cơ quan Nhà nước cấp tỉnh,
cấp huyện, các xã, phường thị trấn,
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và cả
trong các hộ gia đình. Hiện nay nhiều xã
đã xây dựng được các thư viện điện tử
tại trung tâm xã với nhiều tiện ích phục
vụ khai thác thông tin, góp phần nâng

cao dân trí cho nhân dân các dân tộc
vùng cao; Ngành y tế, đã đầu tư nhiều
thiết bị khám chữa bệnh hiện đại tại các
cơ sở tuyến dưới góp phần nâng cao sức
khỏe ban đầu, giảm chi phí khám chữa
bệnh cho nhân dân, giảm thiểu sự quá
tải của các cơ sở y tế tuyến trên.


Công tác tuyên truyền ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ cũng
được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức.
Riêng Bản tin ứng dụng tiến bộ Khoa
học và Công nghệ năm 2013 xuất bản
06 số với 1.800 cuốn. Các bản tin
chuyển tải kịp thời những thành tựu về
KH&CN, kết quả nghiên cứu của các đề
tài, dự án; kết quả việc ứng dụng tiến bộ
KH&CN của các tổ chức, cá nhân; giới
thiệu thành quả của KH&CN; giới thiệu
các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến
trong nước, nước ngoài…; hướng dẫn áp
dụng các quy trình kỹ thuật tiên tiến
trong sản xuất; các văn bản có liên quan
đến phát triển KH&CN của các cấp, các
ngành; các gương điển hình tiên tiến
trong việc ứng dụng tiến bộ KH&CN
trên địa bàn tỉnh.

như: vẫn chủ yếu tập trung cho lĩnh vực

nông nghiệp và phát triển nông thôn;
nguồn nhân lực hoạt động KH&CN còn
ít, thiếu các chuyên gia đầu ngành; việc
ứng dụng khoa học và công nghệ còn
nhỏ lẻ, kết quả một số đề tài, dự án
nghiên cứu khoa học chưa được áp dụng
rộng rãi vào sản xuất; các huyện, thành
phố chưa có cán bộ chuyên trách quản
lý nhà nước về khoa học và công nghệ,
hầu hết hoạt động kiêm nhiệm nên chất
lượng chưa cao.

Những kết quả đạt được trong
hoạt động ứng dụng tiến bộ KH&CN
vào sản xuất, đời sống đã góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập
cho người dân lên 1,5- 2 lần, cải thiện
đời sống của nhân dân; nhiều sản phẩm
mũi nhọn của Lào Cai và là thế mạnh
của tỉnh đã được đăng ký nhãn hiệu và
bảo hộ.

Có thể nói, những kết quả đạt
được, cũng như tồn tại hạn chế trong
ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất,
đời sống trong thời gian qua là cơ sở để
các ngành có cái nhìn tổng quan, đề ra
những định hướng, biện pháp phù hợp,
cụ thể nhằm đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ
KH&CN trong giai đoạn mới, góp phần

thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần
thứ XIV đề ra./.

Tuy nhiên, việc ứng dụng tiến bộ
KH&CN trong sản xuất, đời sống cũng
còn những khó khăn, hạn chế nhất định

Để khắc phục những khó khăn,
hạn chế nêu trên Lào Cai đã xây dựng
đề án Phát triển KH&CN tỉnh Lào Cai
2011- 2015, với chủ trương huy động tối
đa nguồn lực để đẩy mạnh hoạt động
ứng dụng chuyển giao tiến bộ KH&CN
vào sản xuất và đời sống.

Áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan
HCNN
Đinh Thị Thúy Nga
Phó phòng Kế hoạch - Tổng hợp

Lào Cai là tỉnh miền núi, vùng
cao, biên giới, có tổng diện tích tự nhiên
là 6.360,76 km2, chia thành 08 huyện và
01 thành phố trực thuộc tỉnh với 164 xã,

phường, thị trấn; có 27 dân tộc anh em,
trong đó dân tộc thiểu số chiếm 64,1%.
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tỉnh 5

năm qua đạt 13%, cơ cấu kinh tế đang


ngày càng chuyển dịch tích cực. Bộ máy
các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh hiện có
22 sở, ban, ngành; các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện dao động
từ 12-14 phòng ban. Những năm qua,
nhằm xây dựng một nền hành chính dân
chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên
nghiệp hóa và hoạt động thật sự có hiệu
quả theo mục tiêu chương trình cải cách
hành chính đặt ra, Lào Cai đã xây dựng
đề án “Đẩy mạnh cải cách hành chính”.
Đề án xác định một trong năm mục tiêu
cụ thể là: “Từng bước hiện đại hóa nền
hành chính nhà nước; áp dụng có hiệu
quả công nghệ thông tin trong quản lý
hành chính nhà nước; triển khai áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO 9001:2008 vào các hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà
nước của tỉnh…”
Cùng với công cuộc cải cách
hành chính thời gian qua, Lào Cai cùng
với các tỉnh trong cả nước đang tích cực
đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định số
144/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về áp dụng Hệ thống quản lý chất
lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn

TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước.
Đến nay, Lào Cai đã có 43/43 đơn vị
tiến hành xây dựng và áp dụng
HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO
9001:2008 và đã được Tổng cục Tiêu
chuẩn Đo lường Chất lượng cấp giấy
chứng nhận, chứng nhận lại và đánh giá
chứng nhận phù hợp yêu cầu tiêu chuẩn
ISO 9001:2008. Các cơ quan sau khi

được cấp giấy chứng nhận, hàng năm
tiến hành đánh giá giám sát định kỳ (12
tháng/lần) và đánh giá chứng nhận lại
nhằm xác nhận việc duy trì hệ thống và
tuân thủ các yêu cầu chứng nhận.
Năm 2013, Lào Cai tiếp tục xây
dựng thí điểm HTQLCL ở 09 xã,
phường, thị trấn thuộc 09 huyện và
thành phố trên địa bàn tỉnh. Đồng thời,
sẽ tiến hành đánh giá giám sát HTQLCL
ở 43 cơ quan hành chính nhà nước trên
địa bàn tỉnh, trong đó, 11 đơn vị đánh
giá giám sát lần 1 sau chứng nhận lại; 15
đơn vị đánh giá giám sát lần 1 sau
chứng nhận; 17 đơn vị đánh giá giám sát
lần 2.

Quang cảnh lớp tập huấn kiến thức
hệ thống quản lý chất lượng theo

TCVN ISO 9001:2008

Quá trình triển khai áp dụng HTQLCL
theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008
bước đầu đã đem lại hiệu quả thiết thực
trong việc thực hiện Chương trình cải
cách hành chính của tỉnh. Thông qua áp
dụng ISO, lãnh đạo đơn vị kiểm soát
được quá trình giải quyết công việc trong
cơ quan; cán bộ, công chức được phân
công trách nhiệm rõ ràng trong quá trình
xử lý công việc; phục vụ tốt cho thực


hiện cơ chế “một cửa liên thông” trong
tiếp nhận và giải quyết yêu cầu của các
tổ chức và công dân; từng bước nâng cao
chất lượng và hiệu quả của công tác quản
lý và cung cấp dịch vụ hành chính công,
góp phần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính.
Tuy nhiên, Lào Cai là một tỉnh
miền núi, trình độ dân trí không đồng
đều, việc thấu hiểu các yêu cầu của tiêu
chuẩn ISO đối với từng lĩnh vực hoạt
động tại các đơn vị hiện nay còn nhiều
hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến hiệu
quả của việc áp dụng. Để phát huy tốt
tính ưu việt của HTQLCL, rất cần có sự
quan tâm đúng mức của lãnh đạo các

cấp, các ngành; sự hiểu biết, thực thi tốt
nhiệm vụ của cán bộ công chức và sự
tham gia, giám sát chặt chẽ của nhân
dân để việc áp dụng HTQLCL theo tiêu
chuẩn ISO vào hoạt động của các cơ
quan quản lý hành chính nhà nước thực
sự có hiệu quả, góp phần đắc lực đẩy
nhanh công cuộc cải cách hành chính tại
địa phương.
Quá trình áp dụng ISO, xin rút
ra một số kinh nghiệm trong triển khai
thực hiện như sau:
Một là: Thủ trưởng cơ quan
ngoài việc cam kết thực hiện áp dụng
HTQLCL theo tiêu chuẩn ISO bằng văn
bản còn phải trực tiếp chỉ đạo, tham gia,
giám sát toàn bộ quá trình xây dựng,
duy trì, cải tiến HTQLCL theo Tiêu
chuẩn ISO.
Hai là: Kết hợp việc áp dụng
HTQLCL với việc chuẩn hoá công vụ,

áp dụng công nghệ thông tin, truyền
thông trong hoạt động thực thi công vụ
để nâng cao hiệu lực hiệu, hiệu quả
QLHCN một cách tốt nhất.
Ba là: Thường xuyên tổ chức các
lớp đào tạo, tổ chức hội thảo về chất
lượng nhằm nâng cao nhận thức về hệ
thống quản lý chất lượng cho lãnh đạo,

cán bộ các cơ quan, đơn vị trên địa bàn
tỉnh.
Bốn là: Thường xuyên theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra tiến độ triển khai xây
dựng và áp dụng HTQLCL theo tiêu
chuẩn ISO trong các cơ quan QLHCNN
trên địa bàn tỉnh.
Năm là: Cần đẩy mạnh công tác
thông tin tuyên truyền để mọi người
hiểu rõ những ưu điểm của việc áp dụng
HTQLCL theo Tiêu chuẩn ISO, nhằm
nâng cao nhận thức cho cộng đồng, để
họ tham gia một cách tốt nhất vào các
giai đoạn của các quy trình trong
HTQLCL của cơ quan QLHCNN.
Có thể nói, việc áp dụng
HTQLCL theo tiêu chuẩn TCVN ISO
9001:2008 trong hoạt động của các cơ
quan hành chính là một chủ trương đúng
đắn. Với những kết quả ban đầu đạt
được tại Lào Cai cho thấy việc áp dụng
và triển khai HTQLCL theo tiêu chuẩn
TCVN ISO 9001:2008 đã góp phần
quan trọng trong công tác cải cách hành
chính. Đặc biệt, năm 2012, Lào Cai đã
hoàn thành việc xây dựng HTQLCL
sớm hơn 1 năm so với lộ trình của
Chính phủ tại Quyết định 118/2009/QĐTTg. Nhằm đảm bảo hiệu lực của Giấy



chứng nhận, trong thời gian tới, Lào Cai
tiếp tục duy trì, cải tiến HTQLCL;
thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn các cơ quan mở rộng HTQLCL đáp
ứng yêu cầu Mô hình khung của Bộ
Khoa học và Công nghệ và Bộ thủ tục
hành chính được UBND tỉnh công bố áp
dụng tại đơn vị. Để làm được điều đó,
không chỉ có cố gắng của cán bộ làm

công tác ISO, mà cần có sự phối hợp
chặt chẽ của các cơ quan hành chính nhà
nước, hướng đến xây dựng một nền
hành chính hiện đại, hiệu lực lấy thước
đo sự thoả mãn khách hàng làm cơ sở
cho việc đánh giá hiệu quả cho hoạt động
của các đơn vị mà trong đó HTQLCL là
một công cụ hữu hiệu, là điều kiện cần
thiết cho mọi hoạt động quản lý./.

Kết quả hoạt động nghiên cứu Khoa học và Công nghệ

trên địa bàn tỉnh năm 2013
Mai Thị Thu Huệ
Phó trưởng phòng Quản lý Khoa học
Thời gian qua, hoạt động nghiên
cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ tỉnh Lào Cai đã có nhiều
đóng góp tích cực trong việc chuyển
đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên

địa bàn tỉnh. Việc ứng dụng và chuyển
giao các thành tựu khoa học và công
nghệ vào các lĩnh vực sản xuất kinh

doanh, đã góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh
của sản phẩm, tăng thu nhập cho người
sản xuất. Nhờ đẩy mạnh ứng dụng
KH&CN sản xuất nông lâm nghiệp
Lào Cai đã có những bước khởi sắc,
hoạt động Khoa học và Công nghệ đã
có tác động mạnh mẽ đến phát triển


nông nghiệp và nông thôn; nông dân
tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo huớng giảm dần tỷ
trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn
nuôi.

Đ/c Doãn Văn Hưởng phát biểu tại phiên
họp Hội đồng tư vấn KHCN cấp tỉnh.

Hoạt động nghiên cứu khoa học
trên địa bàn tỉnh được đẩy mạnh. Trong
9 tháng đầu năm 2013 đã triển khai thực
hiện 20 đề tài, dự án cấp tỉnh (duyệt mới
05 đề tài/dự án). Trong đó, lĩnh vực
nông nghiệp là 13 đề tài chiếm 65%,
lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn

06 đề tài chiếm 30%; Lĩnh vực khác 01
đề tài chiếm 5%. Kết quả cụ thể như
sau:
Về lĩnh vực nông nghiệp và phát
triển nông thôn: Triển khai thực hiện
13 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học,
các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực
này đã được ứng dụng nhiều vào đời
sống sản xuất. Nhiều giống cây trồng,
vật nuôi đưa vào khảo nghiệm như: Các
giống khoai lang (Khoai lang tím Nhật
Bản HL491, KLC3, VC68-2, KLC5
thích hợp trồng tăng vụ đông ); Các
giống hoa chất lượng cao (hoa tuy líp,
hoa địa lan); các giống cây ăn quả (nhãn
chín muộn và xoài ăn xanh); các giống
thủy sản (Ba ba gai và cá chiên). Đây là

các giống mới có năng suất, chất lượng
cao, có triển vọng phát triển tại địa
phương. Góp phần bổ sung cho tỉnh bộ
giống cây trồng vật nuôi mới mang lại
hiệu quả kinh tế và phù hợp với điều
kiện của địa phương. Bên cạnh đó, còn
tiến hành các nghiên cứu nhằm bảo tồn
nguồn gen các giống cây trồng bản địa
như giống chè tím tại huyện Mường
Khương, 2 loài cây lâm nghiệp Bách tán
Đài loan đang có nguy cơ tuyệt chủng,
loài cây đa mục đích táo mèo. Ngoài ra,

còn tiến hành nghiên cứu, ứng dụng
công nghệ lai chuyển gen nhằm phát
triển tổ hợp lai 2 dòng mới có khả năng
kháng bệnh bạc lá lúa góp phần nâng
cao năng suất, chất lượng hạt giống lúa
lai của tỉnh; ứng dụng phương pháp nuôi
cấy mô tế bào để sản xuất thử nghiệm
giống chuối bằng nuôi cấy mô tế bào
đây sẽ là cơ sở để phát triển và tiến tới
sản xuất hàng hoá tạo ngành nghề mới
cho người dân của địa phương.
Thông qua việc triển khai các dự
án, các mô hình ứng dụng, chuyển giao
khoa học và công nghệ, kết hợp với các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn
cho cán bộ kỹ thuật cơ sở và nông dân
đã tập huấn được cho hàng trăm lượt
người dân về kỹ thuật tiến bộ mới và
đào tạo được hàng chụ kỹ thuật viên cơ
sở, chuyển giao được nhiều quy trình kỹ
thuật trồng, chăm sóc các giống cây
trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện của
Lào Cai. Giúp cho người dân được tiếp
cận với tiến bộ kỹ thuật mới và chủ
động tìm kiếm, lựa chọn và ứng dụng
công nghệ tiên tiến phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Về lĩnh vực khoa học xã hội,
nhân văn và khác: Tập trung nghiên

cứu bảo tồn các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể, khôi phục, phát triển và


bảo tồn các lễ hội truyền thống của các
dân tộc trên địa bàn tỉnh; Nghiên cứu
đặc trưng cơ bản của người H’mông và
các nhân tố truyền thống tác động đến
đời sống của người H’mông.... Kết quả
của các đề tài đã góp phần bảo tồn và
phát huy bản sắc dân tộc, các di sản văn
hoá truyền thống, ổn định và nâng cao
đời sống văn hóa tinh thần cho người
dân trên địa tỉnh Lào Cai.
Các nghiên cứu xây dựng giải
pháp dạy phát triển ngôn ngữ tiếng việt
cho trẻ 5 tuổi dân tộc Hmông tại huyện
Bắc Hà; Nghiên cứu xây dựng phương
pháp đánh giá cán bộ công chức các cơ
quan hành chính cấp tỉnh, cấp huyện của
tỉnh Lào Cai; Nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn của tỉnh Lào Cai 20
năm tái lập, đổi mới và phát triển;
Nghiên cứu đánh giá vai trò đại biểu dân
cử là người dân tộc thiểu số… đã góp
phần vào việc xây dựng những luận cứ
cho việc hoạch định chiến lược, chính
sách, mục tiêu, các giải pháp phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh, như: Tạo luận cứ
khoa hoc góp phần định hướng cho việc

hoạch định và xây dựng đội ngũ cán bộ
trên địa bàn tỉnh, tạo các luận cứ đề xuất
các giải pháp đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giáo dục - đào
tạo và luận cứ khoa học cho việc hoạch
định và xây dựng các giải pháp đổi mới,
nâng cao chất lượng của cả hệ thống
chính trị của tỉnh.
Về lĩnh vực khác: Ứng dụng
công nghệ viễn thám và hệ thông tin địa
lý (GIS) xây dựng bản đồ phân vùng có
nguy cơ cháy rừng và chỉ huy chữa cháy
rừng trên địa bàn tỉnh Lào Cai nhằm góp
phần giảm thiểu nguy cơ cháy rừng và
thiệt hại do cháy rừng trên địa bàn tỉnh.
Nhìn chung, 9 tháng đầu năm
2013 hoạt động nghiên cứu khoa học
được xác định đúng trọng tâm, trọng

điểm; tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
nông, lâm nghiệp. Khoa học nông
nghiệp đã tập trung nghiên cứu, ứng
dụng các tiến bộ khoa học công nghệ
trong sản xuất nông lâm nghiệp. Đưa
các tiến bộ khoa học kỹ thuât vào trong
sản xuất và đời sống, thông qua việc
triển khai các mô hình khảo nghiệm các
giống cây, con mới; áp dung các công
nghệ mới trong bảo quản và chế biến
các sản phẩm nông, lâm sản; Kết quả

các nhiệm vụ KH&CN đã được ứng
dụng thiết thực vào đời sống, nhất là
việc áp dụng các giống cây trồng, vật
nuôi và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ
cấu giống và thay đổi tập quán canh tác
theo hướng tích cực đã góp phần tạo sự
tăng trưởng sản xuất nông nghiệp của
tỉnh. Khoa học xã hội và nhân văn tập
trung nghiên cứu bảo tồn các di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể nhằm lưu giữ,
bảo tồn và phát triển; phục vụ thiết thực
trong việc cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Để hoạt động nghiên cứu đạt
được hiệu quả tốt hơn, thì trong thời
gian tới cần có một số Giải pháp như
sau:
Một là: Tuyên truyền, nâng cao
nhận thức ứng dụng tiến bộ KH&CN;
Hai là: Tăng cường cơ sở vật
chất và thiết bị, phục vụ phát triển
nghiên cứu, ứng dụng thực nghiệm và
chuyển giao KHCN;
Ba là: Xây dựng cơ chế liên kết
giữa cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa
học với người sản xuất và doanh nghiệp
về chuỗi ứng dụng KHCN, sản xuất, tiêu
thụ;
Bốn là: Đào tạo nâng cao trình
độ năng lực cán bộ, công chức để có thể

đảm đương công tác tiếp nhận và
chuyển giao ứng dụng khoa học công
nghệ đồng thời tạo mọi điều kiện để


phát huy năng lực cán bộ hình thành nên
hệ thống chuyển giao ứng dụng khoa
học công nghệ từ tỉnh đến cơ sở. Triển
khai nhiều hình thức đào tạo bồi dưỡng,
nâng cao trình độ ứng dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật, kỹ năng canh tác, kiến
thức sản xuất mới cho nông dân;
Năm là: Đa dạng hóa nguồn vốn
cho phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ./.

Hoạt động Khoa học và Công nghệ Lào Cai
ứng phó với biến đổi khí hậu
Ths. Đinh Văn Tuyến
Phó trưởng phòng QLKHCN CS

Biến đổi khí hậu, cạn kiện tài nguyên, ô nhiễm môi trường và suy giảm đa
dạng sinh học là những vấn đề lớn, mang tính toàn cầu, đã và đang làm thay đổi
các hệ sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế - xã hội trên toàn thế giới trở thành một
trong những thách thức lớn nhất đối với toàn nhân loại. Ứng phó với biến đổi khí
hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường có ý nghĩa sống còn, là những nhân


tố quyết định đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc (Nghị quyết số

24-NQ/TW ngày 03/6/2013).
Trong những năm qua, biến đổi
khí hậu (BĐKH) đã ảnh hưởng rõ rệt
đến đời sống và sản xuất của nhân dân
tỉnh Lào Cai. Ảnh hưởng của BĐKH
ngày càng đa dạng và sâu sắc tới tất các
ngành và lĩnh vực bao gồm nông
nghiệp, lâm nghiệp, tài nguyên nước,
năng lượng và công nghiệp, ... Các hiện
tượng thời tiết bất thường như rét đậm,
rét hại và khô hạn, nắng nóng kéo dài, lũ
quét, sạt lở đất, mưa đá, … trên địa bàn
tỉnh trong những năm qua đều có liên
quan đến vấn đề BĐKH.
Tỉnh Lào Cai cũng có nhiều giải
pháp cụ thể để ứng phó với BĐKH. Về
mặt chính sách, UBND tỉnh đã có Quyết
định
số
3555/QĐ-UBND
ngày
06/12/2010 về việc phê duyệt đề cương
và dự toán kinh phí Dự án “Xây dựng kế
hoạch hành động của tỉnh Lào Cai
nhằm triển khai thực hiện Chương trình
mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu”, với nhiều mục tiêu cụ thể như:
Đảm bảo an ninh lương thực, an ninh
năng lượng, an ninh nguồn nước, xóa
đói giảm nghèo, bình đẳng giới, an sinh


xã hội, sức khỏe cộng đồng, nâng cao
đời sống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
trong bối cảnh biến đổi khí hậu; Phát
triển tiềm lực khoa học và công nghệ,
chất lượng nguồn nhân lực; …
Nhận thức rõ được tầm quan
trọng của ứng phó với BĐKH, trong
thời gian qua Sở Khoa học và Công
nghệ Lào Cai đã tham mưu và tổ chức
xét duyệt nhiều đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học góp phần tăng cường năng lực
thích ứng và hạn chế các ảnh hưởng tiêu
cực của BĐKH đến đời sống và sản xuất
ở địa phương. Từ năm 2008 đến năm
2013, đã có 64 đề tài, dự án nghiên cứu
khoa học cấp tỉnh được phê duyệt, trong
đó lĩnh vực khoa học nông lâm nghiệp
có 40 đề tài được phê duyệt chiếm
62.5%. Đặc biệt trong số các đề tài dự
án này có nhiều đề tài, dự án đã và đang
được thực hiện nhằm tìm ra giải pháp
tăng khả năng thích ứng cho sản xuất
nông lâm nghiệp với những biến đổi
thời tiết bất thường ở Lào Cai thông qua
thử nghiệm các giải pháp kỹ thuật mới,
và sử dụng giống mới.


- Cây ngô là cây

lương thực có vai trò quan
trọng đối với nhiều đồng
bào dân tộc thiểu số ở các
huyện Sa Pa, Mường
Khương, Bắc Hà, Bảo
Thắng … Sản lượng ngô
được sản xuất ra chủ yếu
được sử dụng làm lương
thực và trong chăn nuôi.
Vốn là một loại cây thường
được địa phương trồng trên
đất đồi, vừa cao vừa dốc,
đất nghèo dinh dưỡng
không chủ động được nước
tưới, nay do thời tiết thường
khô hạn kéo dài, việc trồng
và chăm sóc cây ngô càng
thêm khó khăn. Năm 2010 Hội đồng Tư
vấn Khoa học và Công nghệ tỉnh đã xét
duyệt đề cương đề tài NCKH cấp tỉnh:
Nghiên cứu, thử nghiệm một số giống
ngô ngắn ngày chịu hạn tại tỉnh Lào
Cai, do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
Lâm nghiệp miền núi phía Bắc thực hiện
từ 4/2010 đến tháng 11/2011 nhằm mục
tiêu tìm ra các giống ngô chịu hạn có
năng xuất cao phù hợp với điều kiện
Lào Cai. Sau hơn một năm thực hiện, đề
tài đã chọn được 2 giống ngô lai LVN61
và LCH9 ngắn ngày chịu hạn thích hợp

trên cả đất bằng, đất dốc ở Lào Cai. Hơn
thế nữa đề tài cũng đã xây dựng quy
trình kỹ thuật phù hợp để trồng các
giống ngô chịu hạn ở điều kiện khô hạn
đạt năng xuất cao (7 tấn/ha) (Báo cáo
Tổng hợp kết quả Đề tài NCKH năm
2013).
- Cây lúa là cây lương thực quan
trọng nhất ở huyện Sa Pa. Tuy nhiên
không phải tất cả các xã đều có điều
kiện thuận lợi để trồng cây lúa do thời
tiết lạnh và BĐKH cũng có thể dẫn đến
mùa đông lạnh và kéo dài hơn thậm chí

Ngô chịu hạn ở Mường Khương - Lào Cai
(Ảnh: Phòng QLKHCNCS)

ở cả các xã vùng thấp của huyện Sa Pa.
Năm 2010, đề tài: Khảo nghiệm một số
giống lúa Japonica chất lượng cao có
khả năng chịu rét tốt tại huyện Sa Pa Lào Cai, do Trung tâm Giống Nông lâm
nghiệp Lào Cai đề xuất đã được phê
duyệt thực hiện từ năm 2009 đến 2010.
Sau khi khảo nghiệm 6 giống lúa (ĐS1,
J01, J09, Koshihikari, Séng cù, Hương
thơm), đề tài đã xác định giống lúa ĐS 1
nhập nội từ Đài Loan có năng xuất cao
nhất đạt 60.09 – 64.55 tạ/ha (Báo cáo
kết quả đề tài nghiên cứu khoa học năm
2013). So với các giống lúa truyền

thống như Hương thơm và Séng cù,
giống ĐS1 có khả năng chịu lạnh tốt (12
– 150C), chống chịu sâu bệnh cao, phù
hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu Sa
Pa.
- Một vấn đề nữa đang được
người trồng hoa lan Sa Pa quan tâm là
thời điểm ra hoa thất thường và sâu
bệnh hại diễn biến phức tạp trên cây địa
lan. Hoa Địa lan Sa Pa là sản phẩm rất
có giá trị và được yêu thích trên thị
trường hoa cây cảnh vào mỗi dịp tết
Nguyên Đán. Tuy nhiên những năm gần


đây, do sự thay đổi thất thường của thời
tiết ảnh hưởng đến quang chu kỳ của
cây và làm thay đổi thời điểm ra hoa.
Mặt khác, sự thay đổi về điều kiện thời
tiết cũng gây ra nhiều loại bệnh nguy
hiểm cho loại cây có giá trị này như
bệnh thối nõn do virut và các loại bệnh
nấm lá. Nhằm khắc phục tình trạng trên,
năm 2012, Sở Khoa học và Công nghệ
đã tham mưu UBND tỉnh xét duyệt đề
tài: Nghiên cứu một số biện pháp phòng
trừ bệnh hại trên hoa địa lan tại Sa Pa
và điều tiết nở hoa theo ý muốn, do
phòng Kinh tế huyện Sa Pa thực hiện từ
năm 2012 đến năm 2014.


- Biến đổi khí hậu đe dọa nghiêm trọng
đến tài nguyên đa dạng sinh học ở tất cả
mọi nơi trên thế giới. Trong những năm
qua, thời tiết nắng nóng kéo dài luôn
dẫn đến nguy cơ cháy rừng với quy mô
lớn và nghiêm trọng ở nhiều khu vực
của Lào Cai đặc biệt là rừng đặc dụng
trên dãy Hoàng Liên. Từ năm 2008 đến
nay mật độ các vụ cháy rừng có xu
hướng thường xuyên và diễn biến phức
tạp hơn, điển hình là những vụ cháy
rừng năm 2010 và 2012 ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tài nguyên đa dạng
sinh học tại Vườn Quốc gia Hoàng Liên.
Năm 2012 Hội đồng Tư vấn Khoa học

và Công nghệ tỉnh để xét duyệt đề
cương đề tài nghiên cứu khoa học: Ứng
dụng công nghệ viễn thám và hệ thông
tin địa lý (GIS) xây dựng bản đồ phân
vùng có nguy cơ cháy rừng và chỉ huy
chữa cháy rừng trên địa bàn tỉnh Lào
Cai. Hơn nữa ở Lào Cai, lũ quét và sạt
lở đất là những biểu hiện tiêu biểu nhất
của BĐKH. Trồng và bảo vệ rừng
phòng hộ đầu nguồn là những giải pháp
quan trọng và mang tính bền vững để
hạn chế sạt lở đất và lũ quét. Để phát
triển rừng phòng hộ đầu nguồn trong

việc hạn chế các rủi ro do BĐKH gây ra,
Hội đồng Tư vấn Khoa học và Công
nghệ tỉnh đã xét duyệt nhiều đề tài, dự
án nghiên cứu khoa học như: Nghiên
cứu khả năng chịu lửa của một số loài
cây, xác định tập đoàn cây trồng đường
băng xanh cản lửa tại Lào Cai (Viện cải
thiện giống và phát triển lâm sản thực
hiện từ năm 2011 – 2013); Ứng dụng
khoa học và công nghệ để trồng rừng
keo cung cấp nguyên liệu gỗ xẻ tại tỉnh
Lào Cai; Nghiên cứu kỹ thuật gây trồng
và nhân giống cây Xoan đào (Pygeum
arboreum) phục vụ trồng rừng kinh
doanh gỗ lớn cho tỉnh Lào Cai.
Nhìn chung, các hoạt động Khoa
học và Công nghệ được triển khai trong
thời gian qua đang đóng góp tích cực
vào nâng cao năng lực thích ứng và ứng
phó với biến đổi khí hậu trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp thông qua các áp dụng
các giải pháp về giống và kỹ thuật mới.
Trong thời gian tới Sở Khoa học và
Công nghệ sẽ tiếp tục đẩy mạnh các
hoạt động nghiên cứu khoa học thông
qua các đề tài, dự án nghiên cứu khoa
học cấp tỉnh về quản lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu./.



CÔNG TÁC CẤP GIẤY PHÉP VẬN CHUYỂN HÀNG NGUY HIỂM
CỦA SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÀO CAI
Ths. Mai Văn Sơn
Phó trưởng phòng Quản lý Công nghệ
Hàng hóa nguy hiểm là hàng hóa có nguy cơ gây hại đối với sức khỏe con người,
tài sản, sinh vật sống khác, cũng như môi trường. Vận chuyển hàng nguy hiểm là việc
các doanh nghiệp vận chuyển hàng nguy hiểm bằng phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ. Để các doanh nghiệp vận chuyển hàng nguy hiểm được thuận lợi và đảm
bảo an toàn cho cả người và phương tiện, tránh những rủi ro xấu có thể sảy ra.
Lào Cai là tỉnh biên giới có điều kiện
thuận lợi cho việc sản xuất, kinh doanh,
xuất nhập khẩu hóa chất như: Nằm trên
tuyến Hành lang kinh tế Côn Minh
(Trung Quốc) - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng (Việt Nam); có khu công nghiệp
Tằng Loỏng dành cho những dự án luyện
kim, hóa chất quan trọng của tỉnh và của cả
nước như: dự án luyện đồng, dự án sản xuất
phốt pho vàng, dự án sản xuất phân bón,
gang thép…, có cửa khẩu Quốc tế. Những
năm qua, công tác quản lý và cấp giấy phép
vận chuyển hàng nguy hiểm cho các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn được chú
trọng và tăng cường, nhằm đảm bảo an ninh
trật tự, giúp cho các doanh nghiệp vận
chuyển hàng nguy hiểm được an toàn, tránh
những rủi ro sấu có thể xảy ra khi vận
chuyển hóa chất.
Để thực hiện tốt Thông tư số

25/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 của
Bộ Khoa học và Công nghệ về việc hướng
dẫn thủ tục cấp giấy phép vận chuyển hàng
nguy hiểm là chất ôxy hóa, các hợp chất ô
xít hữu cơ và các chất ăn mòn (Thuộc nhóm
5, 8) bằng phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ (Thông tư 25), Sở KH&CN đã
chủ động, tích cực tổ chức triển khai thu
được một số kết quả, cụ thể như sau:
Công tác Tham mưu:
- Xin chủ trương thực hiện và được
UBND tỉnh đồng ý cho thực hiện hiện tại
Công văn số 1170/UBND-VX ngày
13/5/2011 của UBND tỉnh về việc thẩm xét

hồ sơ và cấp giấy phép vận chuyển hàng
nguy hiểm là chất ôxy hóa, các hợp chất ô
xít hữu cơ và các chất ăn mòn bằng phương
tiện giao thông cơ giới đường bộ thuộc
thẩm quyền của Sở Khoa học và Công nghệ
Lào Cai;
Chủ động tham mưu Công văn số
955/BKHCN-PC ngày 10/4/2013 của Bộ
Khoa học và Công nghệ về việc giải đáp
một số vướng mắc trong quá trình triển khai
thực hiện Thông tư số 25/2010/TTBKHCN.
- Tham mưu ban hành các văn bản
phối hợp thực hiện:
+ Công văn số 71/SKHCN-QLCN
ngày 24/02/2012 của Sở Khoa học và Công

nghệ gửi các tổ chức, cá nhân đề nghị báo
cáo tình hình vận chuyển nhóm hàng nguy
hiểm của các đơn vị kinh doanh trên địa bàn
tỉnh;
+ Công văn số 52/SKHCN-QLCN
ngày 25/02/2013 của Sở Khoa học và Công
nghệ về việc đề nghị phối hợp với Bộ Chỉ
huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, Công an tỉnh
trong trong công tác quản lý Nhà nước đối
với các đơn vị vận chuyển hàng nguy hiểm
thuộc nhóm 5,8 trên địa bàn tỉnh, ngoài ra
còn nhiều văn bản quan trọng khác...
+ Công văn số 152/SKHCN-QLCN
ngày 17/4/2012 của Sở Khoa học và Công
nghệ gửi các tổ chức, cá nhân về việc hướng
dẫn, cấp giấy phép vận chuyển hàng nguy
hiểm thuộc nhóm 5,8 cho các doanh nghiệp,


đơn vị vận chuyển hàng nguy hiểm trên địa
bàn tỉnh;
+ Công văn số 176/SKHCN-QLCN
ngày 02/5/2012 của Sở Khoa học và Công
nghệ về việc đề nghị phối hợp với Công an
tỉnh, Sở Giao thông vận tải, Sở Công
thương, Ban quản lý các khu công nghiệp
tỉnh, Cục Hải quan tỉnh trong công tác quản
lý Nhà nước đối với các đơn vị vận chuyển
hàng nguy hiểm thuộc nhóm 5,8;


quyết của Sở khoa học và Công nghệ,
được UBND tỉnh công bố tại Quyết định
số 2981/QĐ-UBND ngày 03/11/2011,
Sở Khoa học và Công nghệ đã niêm yết
công khai, tuyên truyền trên cổng thông
tin điện tử của Sở, tuyên truyền trên các
số bản tin của Sở, đồng thời hướng dẫn,
niêm yết trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả (bộ phận một cửa).

Công tác thẩm xét hồ sơ, cấp giấy
phép:

Tính đến 30/92013, đã hướng dẫn,
thẩm xét và cấp được tổng số 18 Giấy
phép vận chuyển hàng nguy hiểm thuộc
nhóm 5, 8 bằng phương tiện cơ giới
đường bộ cho các doanh nghiệp, với các
loại hóa chất, cụ thể như sau:

Căn cứ vào thủ tục hành chính về
cấp Giấy phép vận chuyển hàng nguy
hiểm nhóm 5, 8 thuộc thẩm quyền giải

Stt

Năm cấp
Giấy
phép


I

2012

Đơn vị vận chuyển

Công ty TNHH MTV Kinh doanh nước
sạch Lào Cai

2

Công ty TNHH MTV Supe Lân
Apromaco Lào Cai

II

Nhóm hàng
nguy hiểm 8

Số
lượng

8

1

3

Nhóm hàng
nguy hiểm 5


Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam

Calcium
hypochlorite

Chlorine (Cl2);

4

Axit Sunfuric

2

(H2SO4)
Oxy (O2);

2

2013

10

(9 tháng)
1

Công ty TNHH MTV Kinh doanh nước
sạch Lào Cai

2


Công ty TNHH Công Mậu Long Trần
Hà Khẩu (Trung Quốc)

3

Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam

4

Công ty TNHH MTV Supe Lân
Apromaco Lào Cai

III

Tổng:

Calcium
hypochlorite

Chlorine (Cl2);

4

Axit Sunfuric

4

(H2SO4)
Oxy (O2);


1
Axit Sunfuric

1

(H2SO4)
18


Trong thời gian qua Công tác quản
lý nhà nước về cấp giấy phép vận
chuyển hàng nguy hiểm nhóm 5, 8 trên
địa bàn tỉnh đã thu được nhiều kết quả:

- Một số doanh nghiệp thiếu giấy
phép hoặc không có giấy phép vận chuyển
hàng nguy hiểm vẫn tổ chức vận chuyển,
không chấp hành đúng quy định tại Nghị
định số 104/2009/NĐ-CP và các quy định
khác của pháp luật hiện hành.

- Hoạt động vận chuyển nhóm
hàng nguy hiểm bằng phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ thuộc thẩm quyền
của Sở Khoa học và Công nghệ đã đi vào
nề nếp, các doanh nghiệp đã nhận thức
và chấp hành nghiêm chỉnh theo đúng
quy định;
- Công tác phối hợp giữa các cơ

quan có liên quan đã được chủ động tăng
cường trong công tác rà soát, thống kê,
đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị đăng ký
xin cấp giấy phép. Trong đó có nhiều
đơn vị đã thực hiện và chấp hành tốt
như: Công ty TNHH MTV Kinh doanh
nước sạch Lào Cai, Công ty TNHH
MTV Supe Lân Apromaco Lào Cai,
Công ty TNHH MTV Apatit Việt Nam,
công ty TNHH Công Mậu Long Trần Hà
Khẩu (Trung Quốc).

- Một số doanh nghiệp vận
chuyển hàng nguy hiểm thuộc 2 cơ quan
quản lý thì phải được cả 2 cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy phép. Tuy nhiên có
đơn vị mới chỉ được 01 cơ quan cấp giấy
phép, mặc dù còn thiếu 01 giấy phép nữa,
đơn vị vẫn tổ chức vận chuyển hàng nguy
hiểm.
- Chưa thông kế được số lượng
các đơn vị chưa thực hiện việc cấp phép
vận chuyển nhưng vẫn vận chuyển;
- Chưa có sự phối hợp của các đơn
vị cấp phép đối với loại hóa chất thuộc 2
cơ quan quản lý khác nhau.
Theo Thông tư 25 thành phần hồ sơ xin
cấp Giấy phép gồm có:

Một số khó khăn và tồn tại trong quá

trình triển khai thực hiện, cụ thể như
sau:

1. Đơn đề nghị cấp giấy phép vận
chuyển.
2. Danh sách phương tiện vận
chuyển, người điều khiển, người áp tải.
3. Lịch trình vận chuyển.
4. Bản cam kết vận chuyển hàng hóa.

- Chưa có hướng dẫn liên ngành
trong công tác phối thanh tra, kiểm tra,
kiểm soát các phương tiện vận hàng
nguy hiểm lưu thông trên địa bàn và việc
tổ chức cấp giấy phép vận chuyển, đối
với những chất nguy hiểm thuộc nhiều
ngành quản lý.

5. Lệnh điều động vận chuyển.
6. Phiếu an toàn hóa chất, Giấy
chứng nhận huấn luyện vệ sinh an toàn

- Một số doanh nghiệp tổ chức
vận chuyển nhóm hàng nguy hiểm
không chấp hành việc làm thủ tục hồ sơ
cấp giấy phép vận chuyển với cơ quan
quản lý trên địa bàn tỉnh theo quy định.

thực phẩm đối với người áp tải (bản sao
công chứng).

7. Giấy phép lái xe, Giấy chứng nhận
kiểm định xe (bản sao công chứng).
8. Phiếu kiểm định bình chứa (bản sao
công chứng).

NGHIÊN CỨU – TRAO ĐỔI

1


Rau mầm: Một hướng đi mới trong sản xuất rau sạch tại Lào Cai
Trần Công Mạnh
Phòng Quản lý Khoa học
Rau mầm là loại rau ăn lá, rau sạch, thường
được canh tác bằng các loại hạt giống thông
thường như: củ cải, cải bẹ xanh,cải ngọt, rau
muống, hành tây, đậu xanh…được sử dụng khi rau
còn non. Đây là loại rau sạch, bổ dưỡng và an toàn
cho người tiêu dùng. Rau mầm có chứa nhiều chất
xơ, vitamin (vitamin B, C, E…) amino axit cần
thiết cho cơ thể và là một trong các loài rau sạch
được ưa chuộng hiện nay.
Rau mầm dễ trồng, thu hoạch
tiến bộ khoa học kỹ thuật sản xuất rau
nhanh, an toàn và có hàm lượng dinh
mầm an toàn phù hợp với Lào Cai để
dưỡng cao. Hiện nay, Sở Nông nghiệp
tạo ra sản phẩm rau đảm bảo dinh dưỡng
và Phát triển nông thôn đã và đang
cao, an toàn sức khỏe cho người tiêu

nghiên cứu triển khai quy trình sản xuất
dùng( đạt được các tiêu chuẩn của Bộ
rau mầm tại hợp tác xã Vạn Hòa –
Nông nghiệp & PTNT quy định), nâng
Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Qua
cao giá trị kinh tế cho người sản xuất;
nghiên cứu ứng dụng và triển khai thực
Tài liệu hóa quy trình sản xuất rau mầm,
nghiệm, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 5
tận dụng phụ phẩm nông nghiệp (Rơm
loại rau phổ biến tại Lào Cai để sản xuất
rạ, thân lá cây họ đậu) để làm giá thể
rau mầm như: Rau cải mèo địa phương,
sản xuất rau mầm phù hợp với điều kiện
rau muống, rau củ cải trắng, rau cải
sản xuất và thị trường tiêu thụ rau ở
ngọt, củ cải đỏ…để đáp ứng nhu cầu
Thành phố Lào Cai; Tuyên truyền, xây
người tiêu dùng; Nghiên cứu ứng dụng
dựng mô hình, nhân rộng sản xuất


thường khác như: sào, luộc, nhúng, ăn
sống.

Rau mầm được trồng theo
phương pháp 4 không: Không sử dụng
đất thật: Không sử dụng thuốc hóa học:
Không sử dụng phân hóa học: Không sử
dụng nước nhiễm bẩn để tưới cho rau.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
nhóm nghiên cứu đã lựa chọn, thử
nghiệm trên 05 công thức để lựa chọn
03 công thức (VnA1.2; GT1; GT2) phù
hợp là nguyên liệu phụ phẩm có sẵn tại
địa phương). Qua đó trồng để so sánh
năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản
xuất rau mầm trên các giá thể khác nhau
, đảm bảo sản xuất rau mầm sạch. Các
loại rau mầm được gieo trên các khay
gieo. Về kích thước, hình dạng tuỳ theo
từng điều kiện mà lựa chọn khay hình
tròn, hình vuông, hình chữ nhật. Chiều
cao của khay tốt nhất 7 - 8 cm. Rau
mầm được gieo trên giá thể được thanh
trùng bằng cách đưa vào nồi hấp nóng
nhằm diệt nấm, vi khuẩn nên không sợ
bị nhiễm kim loại nặng như trồng trên
đất. Chỉ trồng trong thời gian ngắn nên
không bị sâu bệnh (rau mầm không chịu
nhiều ánh sáng), không cần sử dụng
phân bón, thuốc trừ sâu. Sau khi gieo
hạt khoảng 7 - 15 ngày (tuỳ từng loại
rau) là có thể thu hoạch. Thông thường
rau mầm có từ 2 - 3 lá, thân dài trung
bình 10 cm, về cảm quan rau xanh non,
có thể chế biến như các loại rau thông

Trong giai đoạn mầm, cây mầm
không sinh trưởng, phát triển nhờ đất

hay phân bón hoá học mà hoàn toàn sinh
sôi dựa trên dinh dưỡng dự trữ của hạt
giống và nước, không dùng thuốc bảo vệ
thực vật. Vì vậy, rau mầm cần được
cung cấp đủ nước (vừa đủ độ ẩm) từ khi
gieo đến khi thu hoạch. Đặc biệt là chọn
hạt giống, chọn hạt giống là khâu quan
trọng vì hạt có ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng rau mầm. Nên chọn hạt to,
đều (hạt to có chứa nhiều dinh dưỡng),
không nên chọn hạt quá khô hoặc hạt
được sử dụng làm thực phẩm vì có thể
hạt này đã được sấy khô xác suất nảy
mầm không cao. Không nên chọn hạt
giống dễ bị nấm, mốc bảo quản không
tốt, có nguồn gốc không rõ ràng hoặc
hạt giống Trung Quốc vì những hạt này
dễ bị tẩm hoá chất.
Kết quả nghiên cứu: Sản xuất
giá thể tại chỗ để sản xuất rau mầm rất
đơn giản, rẻ tiền, có hiệu quả kinh tế cao
hơn rất nhiều so với giá thể Vn.A, sử
dụng phụ phẩm sẵn có ở địa phương
như rơm rạ để làm giá thể, góp phần hạn
chế ô nhiễm môi trường. Đề tài không
khuyến cáo sử dụng thân lá cây họ đậu
làm giá thể sản xuất rau mầm. Sử dụng
rau cải củ trắng sinh trưởng tốt nhất,
mùi vị hơi cay, thơm ngon, giòn, phù
hợp với chế biến nhiều món, nhất là gỏi

cá, thời gian sinh trưởng ngắn, dễ làm,
có tiềm năng về thị trường tiêu thụ, đặc
biệt là các nhà hàng gỏi cá... Tùy nhu
cầu của thị trường mà sản xuất rau
muống, đậu xanh cũng cho hiệu quả
cao./.



×