Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Phân tích thực trạng thị trường lao động việt nam trong năm 2010 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.9 KB, 28 trang )

A. Lời Nói Đầu
Lao động và việc làm hiện nay và trong tương lai vẫn là vấn đề bức xúc, nhạy
cảm đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển
như Việt Nam chúng ta, đây là vấn đề rất được quan tâm nó có tác động trực tiếp đến
mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi tổ chức mỗi hộ gia đình và từng người lao động trong cả
nước. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của vấn đề này, trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta đề ra các chính sách nhằm phát triển kinh tế do đó đã làm thay đổi
đáng kể về quy mô, cơ cấu lao động và vấn đề về giải quyết việc làm, dần dần chuyển
Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những
năm qua, tỷ lệ lao động thất nghiệp, chưa có việc làm của thành phố có xu hướng
giảm từ 2,88%, (năm 2010) còn 2,22% (năm 2011) và 1,99% (năm 2012). Theo điều
tra của Tổ chức Lao động Quốc tế đưa ra hôm 21/01/2013 thì tỷ lệ thất nghiệp của
Việt Nam tăng nhẹ từ 1,81% lên 1,9% so với cùng kì Quý I năm 2012. Kinh nghiệm
mở rộng các cơ hội có việc làm trong những năm 1980 của 69 nước trên thế giới đã
cho kết luận; tốc độ tăng của việc làm liên quan chặt chẽ và tỷ lệ thuận với tốc độ tăng
của GDP theo đầu người và sự giảm thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực (HDI). Tốc độ
tăng GDP theo đầu người hàng năm tăng lên 1% sẽ làm tốc độ tăng việc làm lên
0,18%. Và sự thiếu hụt chỉ số phát triển nhân lực giảm đi 1% sẽ làm tốc độ tăng của
việc làm lên 0,09%. Kết quả này cho thấy việc mở rộng cơ hội có việc làm phụ thuộc
vào sự tăng trưởng kinh tế và vào việc tăng cường năng lực cơ bản cho con người.
Những chính sách giải pháp hoàn thiện thị trường lao động Việt Nam đã được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm nhằm phát triển thị trường lao động ở nước ta, về giải
quyết việc làm cho người lao động, giảm áp lực về lao động, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực... trong thời gian hạn hẹp của đề tài “Phân tích thị trường lao động
Việt Nam trong năm 2010-2012 ” chỉ đề cập tới những vấn đề khái quát nhất. Nội
dung của đề tài gồm:


Phụ Lục
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung


Chương I: Những vấn đề chung về thị trường lao động
I.1: Khái niệm về thị trường lao động
I.2: Đặc điểm của thị trường lao động
I.2.1. Tính đa dạng của thị trường lao động :
I.2.2. Tính không đồng nhất của hàng hóa sức lao động trên thị trường :
I.2.3. Vị thế của người lao động trong các đàm phán trên thị trường lao động:
I.3. Các yếu tố cấu thành thị trường lao động:
I.3.1. Cung về sức lao động
I.3.2. Cầu về sức lao động
I.4. Việc làm
I.5. Chính sách về thị trường lao động
I.5.1. Chính sách thị trường lao động chủ động :
I.5.1. Chính sách thị trường lao động thụ động :
Chương II: Phân tích thực trạng thị trường lao động Việt Nam trong năm 2010-2012
II.1 Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tang nhanh
II.2 Phân bố lực lượng lao động không đều:
II.3. Chất lượng nguồn lao động:
II.3.1. Về trình độ học vấn của lực lượng lao động:
II.3.2. Về trình độ chuyên môn kĩ thuật:
II.4. Cơ cấu lao động của nước ta có sự chuyển biến nhưng còn chậm:
II.4.1. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế:
II.4.2. Cơ cấu lao động theo loại hình kinh tế:


II.4.3. Cơ cấu thị trường theo vị thế công việc
II.5. Tình trạng mất việc làm và thất nghiệp:
II.6. Mối quan hệ giữ cung – cầu:
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt Nam.
III.1. Định hướng:
III.2. Mục tiêu:

III.3. Giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt Nam:
III.3.1. Giải pháp chung trong giai đoạn 2013-2020:
III.3.2. Giải pháp cụ thể đối với cung và cầu:
a.Đối với cung lao lao động:
b. Đối với cung lao động
C. Phần kết luận.

B. Phần nội dung
Chương I: Những vấn đề chung của thị trường lao động


I.1. Khái niệm về thị trường lao động:
Hiện nay đang tồn tại nhiều định nghĩa về thị trường lao động từ các nguồn tài
liệu khác nhau:
- Theo Adam Smith, thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động (hàng
hóa sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động (chủ sử dụng lao động) và
người bán sức lao động (người lao động).
Định nghĩa này nhấn mạnh vào đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao động,
chứ không phải là người lao động.
- Theo Từ điển Kinh tế học Pengiun, thị trường lao động là thị trường trong đó tiền
công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác định trong bối cảnh quan hệ của
cung lao động và cầu lao động.
Định nghĩa này nhấn mạnh kết quả của quan hệ tương tác cung - cầu trên thị trường
lao động là tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động.
- Theo Từ điển kinh tế MIT, thị trường lao động là nơi cung và cầu lao động tác động
qua lại với nhau.
Định nghĩa này nhấn mạnh vào quan hệ trên thị trường lao động cũng là quan hệ cung
- cầu như bất kỳ một thị trường nào khác.
- Theo Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của Đảng, thị trường lao
động là: "Thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về thực chất là mua bán

sức lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hóa sức lao động được sử
dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân, các doanh nghiệp tư bản nhà nước, các
doanh nghiệp tiểu chủ, và trong các hộ gia đình neo đơn thuê mướn, người làm dịch
vụ trong nhà. Trong các trường hợp đó có người đi thuê, có người làm thuê, có giá cả
sức lao động dưới hình thức tiền lương, tiền công"
Theo định nghĩa này, thị trường lao động chỉ bó hẹp trong một vài thành phần kinh tế
nhất định. Toàn bộ các quan hệ lao động trong khu vực kinh tế nhà nước, khu vực
kinh tế tập thể, và quan hệ lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp được đặt ra
ngoài các quy luật của thị trường.
- Mặc dù có nhiều điểm khác biệt, nhưng các định nghĩa hiện có về thị trường lao
động đều thống nhất với nhau về các nội dung cơ bản của thị trường lao động. Có thể
tóm lược các nội dung này thành một định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về thị trường
lao động như sau:
Thị trường lao động (hoặc thị trường sức lao động) là nơi thực hiện các quan hệ
xã hội giữa người bán sức lao động (người lao động làm thuê) và người mua sức lao
động (người sử dụng sức lao động), thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả (tiền


công, tiền lương) và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động
bằng văn bản, bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác.

I.2. Các đặc điểm của thị trường lao động:
Nếu trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sức lao động không được công
nhận là hàng hóa, nên không ai có quyền mua đi bán lại, thì trong nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, việc thương phẩm hóa sức lao động đã nảy sinh như một nhu
cầu khách quan. Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, lý luận về hàng hóa sức lao động
vừa không gây cản trở đối với địa vị chủ nhân của người lao động, vừa không phá bỏ
phương thức phân phối theo lao động mà các nước xã hội chủ nghĩa đã theo đuổi.
Điều khác biệt chỉ là ở chỗ nó phản ánh các quan hệ kinh tế khác nhau
I.2.1. Tính đa dạng của thị trường lao động :

Trên thực tế, có rất nhiều dạng thị trường lao động khác nhau, tùy thuộc vào
các tiêu chí được lựa chọn để phân loại. Xét từ giác độ pháp lý, có thể có thị trường
hợp pháp và thị trường bất hợp pháp; dưới góc độ quản lý, có thể có thị trường tự do
và thị trường có tổ chức; dưới góc độ hình thức tổ chức, có thể có thị trường tập trung
và thị trường phi tập trung.
Tuy nhiên, có hai tiêu chí thường hay được sử dụng để phân loại thị trường. Đó là
trình độ kỹ năng và phạm vi địa lý. Xét từ góc độ kỹ năng, thị trường lao động được
phân ra thành thị trường lao động giản đơn và thị trường lao động được đào tạo. Xét
từ giác độ địa lý, thị trường lao động được phân chia thành thị trường lao động địa
phương và thị trường lao động quốc gia, hoặc thị trường lao động quốc tế.
I.2.2. Tính không đồng nhất của hàng hóa sức lao động trên thị trường :
Khác với nhiều loại hàng hóa thông thường là những thứ thường được chuẩn
hóa ở mức cao, hàng hóa sức lao động hoàn toàn không giống nhau. Mỗi người lao
động là tập hợp của các năng lực bẩm sinh, cộng với các kỹ năng chuyên biệt tiếp thu
được từ giáo dục và đào tạo. Mỗi người lao động đều có những đặc điểm riêng về khả
năng, trình độ, tuổi tác, nguồn gốc, giới tính, nhu cầu, thể lực, động lực làm việc,...
Chính vì thế, sức lao động do những người này đem ra trao đổi trên thị trường lao
động cũng hoàn toàn không đồng nhất với nhau.
I.2.3. Vị thế của người lao động trong các đàm phán trên thị trường lao
động :
Thực tiễn cho thấy, thông thường, trong các quan hệ giao dịch hay đàm phán
trên thị trường lao động, cán cân thường nghiêng về phía người có nhu cầu sử dụng
sức lao động. Xuất phát điểm của thực tiễn này là ở chỗ cho đến nay, số lượng những
người tìm việc vẫn nhiều hơn số lượng các cơ hội việc làm sẵn có. Hơn nữa, người lao
động đi tìm việc bao giờ cũng là người có nguồn lực hạn chế, trong khi đó, người sử
dụng lao động có nhiều khả năng chờ đợi và lựa chọn hơn. Chính vì thế, trong quá


trình đàm phán hoặc giao dịch, khi thỏa thuận các điều khoản hợp đồng, người sử
dụng lao động thường có vị trí quyết định.


I.3. Các yếu tố cấu thành thị trường lao động:
Các yếu tố chủ yếu tạo nên thị trường lao động bao gồm bên cung sức lao động;
bên cầu sức lao động; các quan hệ giao dịch giữa bên cung và bên cầu sức lao động về
giá cả sức lao động. Trạng thái của các yếu tố này quyết định cơ cấu và đặc điểm của
thị trường lao động. Trong đó, bên cung và bên cầu sức lao động là hai chủ thể của thị
trường lao động, có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự chuyển
hóa lẫn nhau của hai chủ thể này quyết định tính cạnh tranh của thị trường lao động:
Khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hóa này, thì bên mua ở vào
địa vị có lợi hơn trên thị trường lao động (thị trường của bên mua). Ngược lại, nếu cầu
về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung (thị trường của bên bán) người bán sẽ có
lợi thế hơn, có nhiều cơ hội để lựa chọn công việc, giá cả sức lao động có thể được
nâng cao.
I.3.1. Cung về sức lao động :
Là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào
quá trình tái sản xuất xã hội, tức tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng
lực lao động, và cả tổng số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng trong
thực tế chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Thông thường, khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt rõ
thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
- Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc và những người thất nghiệp;
- Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ, hoặc không có nhu cầu làm
việc.
Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cung lao động là: quy mô và tốc độ tăng dân
số, quy định về độ tuổi lao động, tình trạng tự nhiên của người lao động, tỷ lệ tham
gia của lực lượng lao động vào thị trường lao động và một số nhân tố khác.
I.3.2. Cầu về sức lao động :

Là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay
một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Về mặt lý thuyết, cầu về lao động
cũng được phân chia thành hai loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng.


- Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một
thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm việc
mới.
- Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc
có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm
trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, và cả những điều kiện
khác nữa như chính trị, xã hội, v.v...
Cầu về lao động bao gồm hai mặt: thứ nhất, cầu về chất lượng lao động, và thứ hai,
cầu về số lượng lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động
không biến đổi, cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất.
Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao
động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy
mô, tiền vốn, tri thức... của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất
lượng sức lao động.

I.4. Việc làm :
Trong thị trường lao động, người lao động được coi là có việc làm khi có người
mua hàng hóa sức lao động mà họ muốn bán. Ngược lại, khi người lao động mong
muốn bán sức lao động mà không tìm được người mua, thì bị coi là thất nghiệp. Trên
thực tế, việc xác định người có việc làm và người thất nghiệp trong mỗi quốc gia có
những sự khác biệt nhất định, tùy thuộc vào cách định nghĩa thế nào là “việc làm” và
“thất nghiệp”.
Ở Việt Nam, Điều 13 Bộ luật Lao động đã định nghĩa: “mọi hoạt động tạo ra nguồn
thu nhập và không bị pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm”. Theo định

nghĩa này, các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm:
* Tất cả các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần, không bị pháp luật
cấm, được trả công dưới dạng tiền hoặc hiện vật;
* Những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho
gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng tiền hoặc
hiện vật.
Khái niệm việc làm theo Bộ Luật Lao động bao gồm một phạm vi rất rộng: từ những
công việc được thực hiện trong các nhà máy, công sở, đến các hoạt động hợp pháp tại
khu vực phi chính quy (vốn trước đây không được coi là việc làm), các công việc nội
trợ, chăm sóc con cái trong gia đình, đều được coi là việc làm.

I.5. Chính sách thị trường lao động:
Chính sách thị trường lao động là các công cụ can thiệp của Nhà nước vào hoạt
động của thị trường lao động nhằm mục tiêu cuối cùng là đảm bảo tốt hơn cơ hội việc
làm cho người lao động, cung cấp việc làm tương xứng hơn với khả năng và đem lại


thu nhập cao hơn cho người lao động. Lý thuyết và thực tiễn áp dụng các chính sách
thị trường lao động cho thấy có thể chia chúng thành hai nhóm chính sách cơ bản là:
chính sách thị trường lao động chủ động và chính sách thị trường lao động bị động.
I.5.1. Chính sách thị trường lao động chủ động :
Chính sách thị trường lao động chủ động là các biện pháp do Chính phủ đề
xướng nhằm ngăn ngừa nạn thất nghiệp và thiếu việc làm, cụ thể là nhằm các mục
tiêu: thứ nhất, tạo mở việc làm và tăng thu nhập; thứ hai, điều hòa cầu về lao động;
thứ ba, nâng cao công bằng xã hội (hỗ trợ nhóm lao động yếu thế). Cho đến nay, trên
thế giới đã có nhiều loại hình chính sách thị trường lao động chủ động được thiết kế
và áp dụng. Trong đó, phổ biến nhất là các biện pháp như: hỗ trợ tìm kiếm việc làm
(dịch vụ việc làm); đào tạo về thị trường lao động; hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp; các
chương trình tạo việc làm chuyên biệt cho các nhóm lao động khác nhau;.v.v...
- Dịch vụ việc làm, là hoạt động môi giới giữa chủ sử dụng lao động và người

lao động đang tìm việc làm. Có nhiều loại hình dịch vụ việc làm khác nhau được áp
dụng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể. Thí dụ: dịch vụ phỏng vấn tại cơ quan dịch vụ
việc làm, dịch vụ tư vấn cho người thất nghiệp, câu lạc bộ tìm việc; các chương trình
đào tạo kỹ năng tìm việc; hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ xin việc, v.v...Dịch vụ việc làm có thể
do các cơ quan nhà nước và các tổ chức tư nhân cùng đảm nhiệm, với mục đích bổ
sung cho nhau. Trong khi các tổ chức dịch vụ việc làm của Nhà nước thường chú ý
nhiều hơn đến việc hỗ trợ các nhóm yếu thế (người tàn tật, phụ nữ), và thường thực
hiện dưới dạng miễn phí, thì tại các tổ chức tư nhân, dịch vụ này chủ yếu phục vụ các
nhóm lao động có tay nghề cao, công nhân cổ trắng hoặc những người đang có việc
nhưng muốn tìm việc khác tốt hơn. Dịch vụ việc làm của các tổ chức tư nhân
thường thu phí, nhưng có ưu điểm là đáp ứng nhu cầu nhanh và nhạy bén.
- Đào tạo về thị trường lao động: là biện pháp đào tạo người lao động nhằm
đáp ứng các yêu cầu của thị trường lao động. Loại hình này chủ yếu áp dụng với các
đối tượng lao động thất nghiệp dài hạn (trên 12 tháng), hoặc các công nhân bị mất
việc hàng loạt do điều chỉnh cơ cấu, hay với các đối tượng là lao động trẻ, học sinh
mới tốt nghiệp ra trường.
- Các chính sách tạo việc làm: là một trong những chính sách thị trường lao
động quan trọng, thường được áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Thí dụ: hình
thức trợ cấp cho việc tự tạo việc làm, là hình thức trực tiếp cho người lao động để họ
tự tạo công ăn việc làm cho mình. Việc trợ cấp này có thể được thực hiện dưới dạng
trợ cấp tài chính, hỗ trợ về kỹ thuật, hoặc hỗ trợ bằng tư vấn nghề nghiệp. Hình thức
thứ hai là tạo ra các việc làm mới trong các ngành công ích hoặc phi lợi nhuận, nhằm
thu hút những người bị thất nghiệp lâu ngày, giúp họ giữ mối liên hệ với thị trường
lao động, tránh bị tụt hậu về kỹ năng, tránh cho họ mặc cảm bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Trong các thời kỳ kinh tế suy thoái, nhiều Chính phủ đã tăng các dự án đầu tư xây
dựng các công trình cơ sở hạ tầng (đường sá, sân vận động, các tiện ích công cộng
khác), một phần cũng là nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tạo việc làm cho người
lao động, tránh tình trạng để họ thất nghiệp hàng loạt.



- Trợ cấp trả lương: là một biện pháp thị trường lao động chủ động được áp
dụng nhiều tại các nước phát triển. Nhà nước trợ cấp cho các chủ sử dụng lao động để
họ thuê thêm lao động hoặc giữ lại số lao động lẽ ra đã bị sa thải. Chính sách này
thường được áp dụng đối với các nhóm thất nghiệp dài hạn, trong các lĩnh vực kinh tế
thường xuyên có tỷ lệ thất nghiệp cao, hoặc để đảm bảo việc làm cho các nhóm lao
động đặc biệt (thí dụ: lao động trẻ vừa mới ra trường, lao động tàn tật).
I.5.2 Chính sách thị trường lao động thụ động :
Chính sách thị trường lao động thụ động là các chính sách hỗ trợ thu nhập cho
người lao động bị thất nghiệp. Mục tiêu của chính sách này là điều hòa mức tiêu dùng
(giảm bớt các bức bách về tài chính) cho những người lao động bị thất nghiệp; đảm
bảo sự công bằng trong phân phối (giảm bớt mức chênh lệch về thu nhập giữa người
đang có việc và người không có việc, nhất là những người không có việc dài hạn),
thúc đẩy việc tái cơ cấu trong các doanh nghiệp.
Hiện đã có nhiều loại hình chính sách này được áp dụng, nhưng được bàn đến
nhiều nhất là các chính sách về bồi dưỡng thất nghiệp; chính sách trợ cấp thất nghiệp;
chính sách cho về hưu trước thời hạn; chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Ở một số
nước phát triển (như ở Hồng Kông), chương trình mở tài khoản tiết kiệm cá nhân bảo
hiểm thất nghiệp được khuyến khích sử dụng và đang ngày càng có ảnh hưởng tốt.
- Chính sách bồi thường thất nghiệp kiểu "một cục": là chính sách trả bồi
thường thất nghiệp một lần cho người lao động. Người lao động sau khi nhận bồi
thường, không còn quyền lợi gì tại doanh nghiệp. Ưu điểm của chính sách này là giúp
doanh nghiệp giảm nhanh, cùng một lúc với số lượng lớn người lao động dư thừa
trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, chính sách này có nhược điểm lớn là không làm tăng
khả năng tìm được việc làm mới cho người lao động.
- Bảo hiểm thất nghiệp: là khoản tiền được chuyển trực tiếp từ Chính phủ cho
người thất nghiệp. Nguồn thu cho bảo hiểm thất nghiệp có thể từ chủ sử dụng lao
động, từ người lao động đang có việc làm, từ thuế hoặc từ nhiều nguồn khác. Khác
với trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp chỉ được trả cho những người lao động
thất nghiệp nhưng trước đó (khi còn làm việc) đã đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Mục tiêu của chính sách bảo hiểm thất nghiệp là nhằm điều hòa thu nhập cá

nhân cho người lao động, đảm bảo để họ có thể có nguồn sống trong khi tìm kiếm việc
làm mới, và đảm bảo ổn định kinh tế ở tầm vĩ mô. Tuy vậy, điều cần chú ý ở đây là
biện pháp này rất phức tạp trong quy trình thực thi, đòi hỏi những chi phí lớn cho
giám sát thực hiện để tránh thất thoát hoặc hiệu quả thấp. Hơn nữa, chính sách bảo
hiểm thất nghiệp không cho phép khu vực phi chính quy tham gia.
Khi bàn về các chính sách thị trường lao động, thường có hai luồng ý kiến khác nhau.
Một số người cho rằng, Chính phủ không nhất thiết phải thực hiện các biện pháp can
thiệp, hoặc có thì cũng chỉ ở mức độ thấp nhất, vào sự vận hành của thị trường lao
động, để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường. Nhóm ý kiến khác lại cho rằng, thị
trường luôn có những "thất bại" của nó, rằng, thị trường tự nó không dễ tìm ra điểm


cân bằng, vì vậy, các cơ quan của Chính phủ cần có những can thiệp tích cực nhằm
giảm thiểu hoặc/và ngăn chặn sự mất cân đối trong việc phân bổ thu nhập và việc làm.
Những can thiệp đó có thể là:
+ Xây dựng hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm hiệu quả để hỗ trợ cho việc tìm kiếm
việc, rút ngắn thời gian và giảm chi phí của người tìm việc và chủ sử dụng lao động.
+ Thiết lập các hệ thống thay thế lương nhằm làm giảm sức ép xã hội do thất nghiệp
và ngăn ngừa tình trạng "bần cùng hóa".
+ Tạo công ăn việc làm và cơ hội việc làm thông qua các chương trình đầu tư nhà
nước và tư nhân.
+ Cung cấp các cơ hội đào tạo và đào tạo lại; nâng cao các chương trình giáo dục và
đào tạo hiện nay.
+ Xây dựng một cơ chế hợp tác ba bên hữu hiệu giữa các tổ chức công đoàn, giới chủ
doanh nghiệp và Chính phủ.
Để các chính sách thị trường lao động có thể được thực hiện một cách hiệu quả, nó
cần phải được lồng ghép vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là một
chỉnh thể. Vì rõ ràng là các chính sách thị trường lao động chỉ có thể đóng góp tích
cực vào việc xúc tiến việc làm một khi môi trường kinh tế chấp nhận sử dụng nhiều
lao động, tăng thu nhập và tăng năng suất, chấp nhận việc cân bằng cơ cấu công nghệ

có sử dụng nhiều vốn, với công nghệ sử dụng nhiều lao động, cân bằng vai trò của
khu vực chính quy với khu vực phi chính quy.


Chương II: Phân tích thực trạng thị trường lao động Việt Nam
trong năm 2010 – 2012

II.1. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tăng nhanh:
Việt Nam là nước đông dân, có cơ cấu dân số trẻ. Năm 2012, dân số là 88,77
triệu người, trong đó dân số từ 15 tuổi trở lên là 68,195 triệu người, chiếm 76,8% dân
số cả nước. Vì dân số đông nên lực lượng lao động của nước ta khá dồi dào, đó là một
lợi thế to lớn để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bảng 1. Lực lượng lao động ở nước ta thời kì 2010-2012 (triệu người)
Năm

2010

2011

2012

Lực lượng lao động

50,8

51,4

52,3

Bảng 1 cho thấy lực lượng lao động của nước ta giai đoạn 2010-2012 tăng từ 50,8

triệu người lên 52,3 triệu người (tăng 1,5 triệu người).
Năm 2010 cơ cấu lực lượng lao động theo nhóm tuổi tập trung nhiều nhất ở nhóm
15 - 34 tuổi, tiếp theo là các mùa, lực lượng lao động thiếu việc làm cao nên tỉ lệ lao
động nông thôn giảm dần, góp phần làm tăng tỉ lệ lao động thành thị. Lao động di cư
từ nông thôn ra thành thị tìm việc một cách tự phát cũng đang trở thành một trong
những khó khăn cho vấn đề việc làm ở nước ta.
Năm 2012, lực lượng lao động nước ta là 52,3 triệu người từ 15 tuổi trở lên
thuộc lực lượng lao động, chiếm 58,9% tổng dân số cả nước, bao gồm 51,4 triệu
người có việc làm và 925,6 nghìn người thất nghiệp.
Bảng 2. Cơ cấu lực lượng lao động theo nhóm tuổi (%)
Nhóm trẻ

Nhóm trung niên

Nhóm cao tuổi

Năm

(15-24 tuổi)

(25-49 tuổi)

(≥ 50 tuổi)

2010
2011
2012

18,3
16,5

15,1

61,4
61,3
61,1

20,3
22,3
23,8

Theo Bảng 2 thì ta có thể thấy ở những năm gần đây lực lượng lao động vẫn tập
trung chủ yếu ở nhóm trung niên (25-49 tuổi).Tuy nhiên từ năm 2010 đến năm 2012
thì cơ cấu lực lượng lao động ở cả nhóm trẻ và nhóm trung niên đều lần lượt giảm
xuống là 3,25% và 0,3%, còn nhóm cao tuổi thì tăng lên 3,5%. Điều này cho thấy lực
lượng lao động nước ta đang có xu hướng già hóa. Đây là yếu tố gây mâu thuẫn trong


thị trường lao động ở Việt Nam khi dân số vẫn tăng theo từng năm nhưng cơ cấu lao
động lại đang già đi.

II.2. Phân bố lực lượng lao động không đều:
II.2.1. Phân bổ lực lượng lao động theo vùng:
Lực lượng lao động của Việt Nam tuy đông và tăng nhanh nhưng có sự phân bố
không đều giữa các vùng lãnh thổ. Lao động nước ta tập trung chủ yếu khu vực nông
thôn. Điều này là do ở nông thôn hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính nên cần
một lực lượng lao động đông, diện tích đất đai ở nông thôn cũng lớn hơn. Tuy nhiên,
do năng suất lao động thấp, hơn nữa, vào thời gian chuyển giao giữa các mùa, lực
lượng lao động thiếu việc làm cao nên tỉ lệ lao động nông thôn giảm dần, góp phần
làm tăng tỉ lệ lao động thành thị. Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị tìm việc
một cách tự phát cũng đang trở thành một trong những khó khăn cho vấn đề việc làm

ở nước ta.
Phân bố lao động cũng có sự chênh lệch giữa các vùng kinh tế. Trong 6 vùng
kinh tế, lực lượng lao động tập trung ở 3 vùng là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung
Bộ và Duyên hải miền Trung, Đồng bằng sông Cửu Long (Xem bảng 3).
Như vậy, khu vực nông thôn và 3 vùng kinh tế - xã hội này là những nơi cần có
các chương trình khai thác nguồn lực lao động, tạo việc làm và đào tạo nghề trong
những năm tới.
Bảng 3. Số lượng lao động và phân bố lực lượng lao động Việt Nam năm 2010-2012
Nơi cư trú/ vùng
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Các vùng
Trung du miền núi Bắc Bộ
ĐB sông Hồng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
ĐB sông Cửu Long

Lực lượng lao động ( Nghìn người)
2010
2011
2012
50 837,3
51 398,4
52 348,0
14 231,0
15 251,9
15 885,7

36 606,2
36 146,5
36 462,3
6 942,0
11 554,5
11 040,7
2 957,5
8 124,6
10 218,0

7 058,9
11 536,4
11 151,1
3 051,4
8 362,4
10 238,3

7209,3
11 726,1
11 309,3
3 136,3
8 604,1
10 362,8

II.2.2. Lực lượng lao động phân theo tỷ lệ nam nữ:
Năm 2011, trong tổng số 67,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên có hơn ba phần tư
(77,0%) tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chênh lệch
đáng kể giữa nam và nữ (81,7% so với 72,6%) và không đồng đều giữa các vùng. Tỷ
lệ tham gia lực lượng lao động năm 2011 của dân số khu vực nông thôn cao hơn khu



vực thành thị tới 10,9 điểm phần trăm (80,6% so với 69,7%). Cả nam và nữ giới đều
có sự chênh lệch này, song mức độ chênh lệch của nữ giới lớn hơn của nam giới.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao nhất ở hai vùng Trung du và miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên, thì tỷ lệ này thấp nhất tại Hà Nội và TP.HCM (68,7% và 65,6%).
Ở tất cả các vùng, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới đều thấp hơn nam
giới. Mức chênh lệch tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giữa nam và nữ giới tăng dần
từ Bắc vào Nam.

II.3. Chất lượng nguồn lao động:
Lực lượng lao động tuy đông, giá thành thấp song chất lượng chưa cao, năng suất
lao động hạn chế nên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Hiện nay tỷ lệ lao
động qua đào tạo rất thấp trong tổng số lực lượng lao động xã hội.
Số liệu tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo cho thấy chất lượng việc làm
của Việt Nam còn thấp, đây là một thách thức lớn của đất nước trong việc đáp ứng
mục tiêu phát triển bền vững. Lao động với chất lượng thấp đồng nghĩa với việc làm
không bền vững, việc trả lương thấp và không đáp ứng được xu thế mới, sử dụng công
nghệ hiện đại trong sản xuất và quản lý.
Bảng 4: Lực lương lao động theo trình độ học vấn năm 2012
Đơn vị tính: Phần trăm (%)
Trình độ học vấn

Tổng số

Nam

Nữ

% Nữ


Tổng số

100

100

100

48,5

Chưa đi học

3,9

2,9

5,1

62,4

Chưa tốt nghiệp tiểu học

11,7

10,4

13,0

53,9


Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS

24,6
30,9

24,0
30,8

25,4
31,0

49,9
48,6

Tốt nghiệp THPT

12,3

13,4

11,1

44,0

Trình độ chuyên môn kỹ thuật

16,6

18,6


14,5

42,3

II.3.1. Về trình độ học vấn của lực lượng lao động:
Tỷ trọng lao động chưa bao giờ chưa bao giờ đi học chiếm 3,9% trong tổng số lao
động, trong đó nữ chiếm nhiều hơn (5,1%). Gần một phần ba số lao động trong nền
kinh tế đã tốt nghiệp trung học cơ sở (30,9%). Số liệu cho thấy, ở các trình độ học vấn
thấp (từ chưa báo giờ đi học cho đến tốt nghiệp trung học cơ sở) thì nữ chiếm số đông
hơn nam, tuy nhiên càng ở các trình độ cao thì nam lại chiếm số đông hơn nữ. Điều
này cho thấy, vẫn còn sự bất bình đẳng về giới tính trong giáo dục phổ thong của lục
lượng lao động.


Nhìn chung trong cả nước, trình độ học vấn của lực lượng lao động ngày càng
được nâng cao. Tỉ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp không ngừng giảm.
Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn sẽ tạo nhiều thuận lợi cho việc đẩy
mạnh các hoạt động đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực
lượng lao động trong thời gian tới. Tuy nhiên, trình độ học vấn còn có sự phân hóa
giữa nông thôn với thành thị và theo các vùng lãnh thổ. Ở nông thôn, tuy trình độ học
vấn của lực lượng lao động đã được cải thiện, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với
khu vực thành thị.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ cũng có chênh lệch.
Tỉ lệ những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao nhất ở vùng Trung
du và miền núi (TD&MN) phía Bắc (chiếm 11,3% lực lượng lao động của vùng,
2009), tiếp đến là Tây Nguyên (10,2%) và ĐB sông Cửu Long (5,7%). Đây cũng là
những vùng có tỉ lệ lao động tốt nghiệp THPT trở lên thấp nhất, đặc biệt là vùng ĐB
sông Cửu Long, chỉ có 13,4% trong khi trung bình của cả nước là 25,6%. Hai vùng có
trình độ học vấn của lực lượng lao động cao là ĐB sông Hồng và Đông Nam Bộ. Tỉ lệ

lực lượng lao động chưa từng đi học chỉ có 0,8% và 2,2%, còn tỉ lệ tốt nghiệp THPT
trở lên chiếm 35,9% và 32,9%.
II.3.2. Về trình độ chuyên môn kĩ thuật:
Trình độ chuyên môn kĩ thuật là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành
chất lượng lao động. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của người lao động nước ta đã có
sự thay đổi theo thời gian như sau (xem bảng 5):
Bảng 5. Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật (%)
Các chỉ tiêu
Không có trình độ CMKT
Dạy nghề
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học trở lên

2010
85,3
3,8
3,5
1,7
5,7

2011
84,4
4,0
3,7
1,8
6,1

2012
83,2

4,7
3,7
2,0
6,4

Theo kết quả Điều tra lao động – việc làm năm 2012, trong tổng số 52,3 triệu
người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có gần 9 triệu
người đã được đào tạo, chiếm 16,8% tổng lực lượng lao động. Như vậy, nguồn nhân
lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng đa số là lao động không có tay nghề và chuyên
môn kĩ thuật. Bảng 5 cho thấy xu hướng giảm dần tỉ lệ lao động không có trình độ
chuyên môn kĩ thuật so với tổng dân số, từ 85,3% năm 2010 xuống còn 83,2% năm
2012, giảm 2,1%. Nhìn chung, xu hướng này là tiến bộ, tuy nhiên, mức giảm của tỉ lệ
lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật còn chậm, chưa đáp ứng được yêu
cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đối với dạy nghề, tăng từ 3,8%
năm 2010 lên 4,7% năm. Mức độ tăng này là chậm so với yêu cầu và không ổn định,


điều này đặt ra những nhiệm vụ là cần mở rộng và hoàn thiện hệ thống dạy nghề trong
nền kinh tế quốc dân.
Qua các năm cho thấy tỷ trọng lực lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta có tăng
nhưng vẫn còn thấp, kéo theo chất lượng nguồn lao động nước ta đã được cải thiện, có
đóng góp đáng kể cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhưng nhìn chung vẫn
còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đất nước và còn có sự khác biệt lớn
giữa các vùng lãnh thổ.
Như vậy, nguồn nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng trình độ tay nghề và
chuyên môn kỹ thuật thấp vẫn còn tồn tại 1 lượng lớn chưa được đào tạo để đạt một
trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT) nào đó. Con số này đặt ra nhiệm vụ nặng nề
cho những cố gắng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực lao động phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

Nhìn chung, xu hướng này là tiến bộ, tuy nhiên, mức giảm của tỉ lệ lao động không
có trình độ chuyên môn kĩ thuật còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Mức độ tăng này là chậm so với yêu cầu và không
ổn định, điều này đặt ra những nhiệm vụ là cần mở rộng và hoàn thiện hệ thống dạy
nghề trong nền kinh tế quốc dân.

II.4. Cơ cấu lao động của nước ta có sự chuyển biến nhưng còn chậm:
II.4.1. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế:
Các chỉ tiêu về việc làm đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển
kinh tế và xây dựng các chính sách việc làm phù hợp.
Sự biến động số người có việc làm theo quý ở khu vực thành thị và nông thôn có
xu hướng trái chiều. Ở khu vực thành thị, số người có việc làm có xu hướng tăng. Ở
khu vực nông thôn, số người có việc làm giảm.
Số liệu về biến động số người có việc làm theo khu vực kinh tế và loại hình kinh tế
cho thấy số người có việc làm ở khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc loại
hình "Kinh tế ngoài nhà nước". Nguyên nhân dẫn đến xu hướng này là do số học
sinh/sinh viên trở về quê trong dịp hè và tham gia làm việc trên ruộng/vườn cùng gia
đình họ và họ lại quay trở lại các thành phố để tiếp tục học tập khi kết thúc kỳ nghỉ hè.


Bảng 5. Mức thay đổi số lao động có việc làm giữa các năm 2010 – 2012 theo khu
vực thành thị và nông thôn, khu vực kinh tế, loại hình kinh tế và vùng.
Đơn vị tính: Nghìn người.
Nơi cư trú/ vùng
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ

Lực lượng lao động
2010
2011
2012
27,6
29,3
30
72,4
70,7
70
48,7
21,7
29,6

48,4
21,3
30,3

47,4
21,2
31,4

Bảng 6 cho thấy qua các năm cơ cấu lao động của nước ta đã có sự chuyển dịch
mạnh mẽ. Tỉ trọng lao động trong nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp – xây
dựng giảm tương ứng từ 48,7 % xuống 47,4% và từ 21,7% xuống 21,2% còn tỉ trọng
lao động trong dịch vụ tăng từ 29,6% lên 31,4%. Tuy vậy, có thể thấy rằng sự gia
tăng tỉ lệ lao động trong nhóm ngành dịch vụ vẫn còn chậm.

II.4.2. Cơ cấu lao động theo loại hình kinh tế:
Phân loại cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với
nước ta, đặc biệt trong thời kì chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cơ cấu lao động
theo thành phần kinh tế có những thay đổi quan trọng. Nền kinh tế của nước ta hiện
nay là nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài.
Cơ cấu các loại hình kinh tế trong những năm gần đây gần như không đổi. Khu vực
cá nhân/hộ sản xuất kinh doanh cá thể chiếm tới 77,8% (39,2 triệu lao động). Kinh tế
tập thể hiện nay chỉ còn một tỷ trọng rất nhỏ (0,3%). Tư nhân và vốn đầu tư nước
ngoài là hai loại hình kinh tế năng động, nhưng tỷ trọng lao động đang làm việc trong
hai loại hình này khá khiêm tốn (8,1% và 3,4%).
Tuy nhiên, các số liệu thống kê lao động –việc làm chia cơ cấu này thành 3 khu
vực kinh tế lớn: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (xem bảng 6).
Bảng 6. Cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế thời kì 2010 - 2012 (%)
Loại hình kinh tế
Nhà nước
Ngoài nhà nước
Vốn đầu tư nước ngoài

2010
9,7
86,8
3,5

2011
10,4
86,2
3,4


2012
10,4
86,3
3,3


Việc sử dụng lao động phân theo các thành phần kinh tế đã có chuyển biến rõ nét.
Năm 1986 được coi là một mốc trên con đường đổi mới kinh tế. Việc đa dạng hóa các
hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất đã tạo điều kiện cần thiết cho sự hình
thành, tồn tại và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần. Lao động trong thành
phần kinh tế nhà nước không có nhiều biến động, chiếm 10,4% trong cơ cấu lao động
(2012) và có xu hướng giảm, chuyển sang khu vực kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể,
đặc biệt khu vực đầu tư nước ngoài giảm từ 3,5% năm 2010 xuống 3,3% năm 2012.
Sự chuyển dịch lao động từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh tế khác đang diễn ra
phù hợp với quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường. Điều này cho
thấy thị trường lao động ở nước ta đã phát triển trong thời gian qua. Tuy vậy, mức
tăng lao động khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài vẫn ở mức thấp và chậm.
II.4.3. Cơ cấu lao động có việc làm theo vị thế việc làm:
Đến năm 2011, phần lớn lao động đang làm việc trong nền kinh tế vẫn làm những
nghề không cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cũng như yêu cầu cao về kỹ năng
nghề nghiệp như: 20,4 triệu lao động làm “Nghề giản đơn” (chiếm 40,4%), 7,6 triệu
lao động làm “Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng” (15,0%), 7,1 triệu lao động làm
“Nghề trong nông, lầm, ngư nghiệp” (14,1%) và 6,1 triệu lao động làm “Thợ thủ công
và các thợ khác có liên quan” (12,1%). Lao động làm các nghề về quản lý, đòi hỏi
phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn
trong tổng số lao động đang làm việc như: chỉ có 2,7 triệu lao động có trình độ CMKT
bậc cao (5,3%) và 1,8 triệu lao động có trình độ CMKT bậc trung (3,5%).
Trong tổng số 50,35 triệu người có việc làm thuộc 9 nhóm nghề (Nhà lãnh đạo,
CMKT bậc cao, CMKT bậc trung, Nhân viên, Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng,

nghề trong nông, lâm và ngư nghiệp, Thợ thủ công và các thợ khác có liên quan. Thợ
lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị, nghề giản đơn). Có bốn nhóm nghề sử dụng
nhiều lao động nữ hơn là “Dịch vụ cá nhân, bảo vệ và bán hàng” (63,1%), “Chuyên
môn kỹ thuật bậc trung” (55,3%), “Lao động giản đơn” (52,4%) và “Chuyên môn kỹ
thuật bậc cao” (50,2%).
Trong từng nhóm nghề, phân bổ lao động theo các nhóm tuổi không giống nhau
và có sự lựa chọn tuổi đối với từng nhóm nghề. Đối với nhóm nghề “Nhà lãnh đạo”,
phần lớn các nhà lãnh đạo từ 40 tuổi trở lên (69,1%). Một số nhóm nghề yêu cầu có
trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề cao thì lao động trẻ dưới 40 tuổi lại chiếm
tỷ trọng lớn, như nhóm nghề “Chuyên môn kỹ thuật bậc cao”, “Thợ lắp ráp và vận
hành máy móc thiết bị”. Trong khi đó, những nghề không yêu cầu trình độ chuyên
môn kỹ thuật và kỹ năng nghề nghiệp thì tỷ trọng lao động ở các nhóm tuổi không có
sự khác biệt lớn.
Cơ cấu lao động có việc làm chia theo vị thế việc làm qua các cuộc Điều tra lao
động và việc làm từ năm 2010 đến 2012 cho thấy: Tỷ trọng của nhóm “làm công ăn
lương” chiếm khoảng một phần ba tổng số lao động đang làm việc. Tỷ trọng của
nhóm này tăng chậm từ 34,6% năm 2010 lên 40,0% năm 2012. Xu hướng này chứng
tỏ thị trường lao động nước ta đã và đang phát triển theo hướng kinh tế thị trường.
Mặc dù vậy, khi so sánh với các nước trên thế giới và khu vực, đặc biệt với các nước


có nền kinh tế phát triển (thường có tỷ trọng người làm công ăn lương chiếm trên
80%), Việt Nam vẫn còn ở mức rất thấp.
Bảng 7. Cơ cấu (%) lao động theo vị thế việc làm, 2010-2012
1/9/2010
Loại hình kinh tế

Tổng số
Chủ cơ sở
Tự làm

Lao động gia đình
Làm công ăn lương
Xã viên hợp tác xã
Thợ học việc

Tổng số

100,0
4,8
44,6
16,9
33,4
0,1
0,2

1/7/2011

% Nữ Tổng số

48,7
32,6
51,1
64,1
40,1
29,5
31,2

100,0
3,4
43,3

19,4
33,8
0,0
0,1

1/7/2012

% Nữ

Tổng số

% Nữ

48,4
31,4
48,6
65,4
40,2
18,5
31,2

100,0
2,9
43,9
18,6
34,6
0,0
-

48,2

30,7
48,8
64,7
40,0
39,6
-

Trong nhóm “lao động gia đình”, lao động nữ vẫn chiếm vai trò chủ đạo (65%). Đây
là nhóm lao động dễ thay đổi việc làm và hầu như không được hưởng một loại hình
bảo hiểm xã hội nào.

II.5. Tình trạng mất việc làm và thất nghiệp:
Cả nước có hơn 1 triệu người thất nghiệp, trong đó khu vực thành thị chiếm
49,8% và số nữ chiếm 57,7% tổng số thất nghiệp. Số người trẻ tuổi thất nghiệp từ 1529 tuổi chiếm tới 59,2%, trong khi đó nhóm dân số từ 15-29 tuổi chỉ chiếm 32,8%
tổng dân số từ 15 tuổi trở lên của cả nước. Số lao động thất nghiệp ở cả khu vực thành
thị và nông thôn đều tập trung chủ yếu vào nhóm thanh niên dưới 30 tuổi. Như vậy,
vấn đề thất nghiệp được đặt ra với lao động trẻ tuổi, một trong những nhóm lao động
dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các biến động trên thị trường lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị luôn cao hơn khu vực nông thôn và ngược
lại tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn thường cao hơn khu vực thành thị.
Năm 2011, tỷ lệ thất nghịêp trong độ tuổi lao động của khu vực thành thị là 3,6% và
tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của khu vực nông thôn là 3,56%. Đây là
một trong những nét đặc thù của thị trường lao động nước ta trong nhiều năm gần đây.
Năm 2011, cứ 1000 người đang làm việc ở khu vực nông thôn thì có 36 người
thiếu việc làm, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động nông thôn cao gấp hơn 2,2 lầm khu
vực thành thị, trong khi có sự chênh lệch không đáng kể về mức độ thiếu việc giữa
nam và nữ ở khu vực nông thôn của các vùng kinh tế-xã hội.
Ở Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp năm 2011 là 2,2%, trong đó khu vực thành thị cao
hơn hai lần khu vực nông thôn (3,6% và 1,6%); và của nữ cao hơn nam (2,7 và 1,8%).



TP. HCM có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất (4,5%). Xét theo nhóm tuổi con số này cao
nhất ở nhóm 15-19 tuổi (4,9%), thấp nhất ở nhóm 40-44 (1,06%). Về trình độ chuyên
môn kỹ thuật, tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm có trình độ cao đẳng cao nhất (5,2%) và thấp
nhất ở nhóm chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (2,0%).
Theo Bảng 8 ta có thể thấy tỷ lệ thất nghiệp qua các năm ở nước ta thì đang
giảm qua các năm từ 4,29% (2010) còn 3,21% (2012) giảm gần 1,08%. Tuy nhiên tỷ
lệ thất nghiệp giảm không đồng đều giữa các vùng trên cả nước qua các năm như
Đồng bằng sông Hồng giảm 0,24% ít hơn gần gấp năm lần so với Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ là 1,48%.
Điều này cho thấy, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, trình độ nhân lực không
cao, nền kinh tế chủ yếu phát triển các ngành nghề dựa trên công nghệ sử dụng nhiều
lao động nên năng suất lao động thấp và do vậy tình trạng giãn việc làm đã ảnh hưởng
thu nhập của người lao động nói riêng và mức sống của gia đình họ nói chung.
Bảng 8: Tỷ lệ (%) thất nghiệp ở thành thị phân theo vùng 2010-2012
2010

2011

2012

4,29

3,60

3,21

Đồng bằng sông Hồng

3,73


3,41

3,49

Trung du và miền núi phía Bắc

3,42

2,62

2,25

5,01

3,96

3,91

3,37

1,95

1,89

Đông Nam Bộ

4,72

4,13


3,24

Đồng bằng sông Cửu Long

4,08

3,37

2,87

Cả nước

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung
Tây Nguyên

II.6. Mối quan hệ cung – cầu lao động:
Quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động Việt Nam gặp phải những
bất lợi sau.
- Cung lớn hơn cầu nhiều, dẫn đến áp lực lớn về việc làm tỷ lệ thất nghiệp ở thành
thị và thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng gia tăng. Dòng di dân từ nông thôn ra
thành thị cùng với quá trình đô thị hoá, đã gây áp lực cho các thành phố lớn. Trong
khi đó, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn chỉ dao động ở mức 70%
đến 73%, tăng trưởng chậm và không vững chắc.
- Cơ cấu nguồn lao động, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu lao
động trên thị trường lao động trong nước, càng khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.


- Tỷ lệ lao động tham gia vào quan hệ thị trường thấp thị trường lao động chủ yếu

tập trung ở khu vực đô thị lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, các trung tâm
công nghiệp mới, khu công nghệ cao..... Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2011
của dân số khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị tới 10,9 % (80,6% so với
69,7%).
- Gia công lao động đáp ứng tăng lên, đồng thời có sự khác biệt đáng kể về giá
công lao động giữa các địa phương giữa các nghề, các ngành và các thành phần kinh
tế. Tiền lương chưa thực sự gắn với mối quan hệ cung cầu lao động trên thị trường.
- Hạn chế về thể chế thị trường lao động Việt nam đã làm ngăn cản sự phát triển
của thị trường lao động vốn đã bị phân tán, di chuyển yếu và không linh hoạt. Thể chế
thị trường lao động Việt nam được xây dựng trên cơ sở Bộ Luật lao động năm 1994,
sau khi được sửa đổi bổ sung năm 2007, mặc dù đã thay đổi để phù hợp hơn rong cơ
chế thị trường mới nhưng vẫn bộc lộ nhiều bất cập dẫn đến việc tổ chức thực hiện các
chủ trương quyết định còn hạn chế, hệ thống thông tin thị trường lao động chưa đầy
đủ, chưa đáp ứng yêu cầu. Cho đến nay các thông tin về cầu vẫn là một đòi hỏi lớn
nhưng chưa được đáp ứng, dẫn đến một sự gặp gỡ chưa thực sự kịp thời cung và cầu
lao động trên thị trường.


Chương III: Một số giải pháp phát triển thị trường lao động của
Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, Việt Nam sẽ tiếp tục có các cơ hội và gặp
nhiều thách thức đối với sự phát triển thị trường lao động. Quá trình phân công sản
xuất trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bố lao động và sự
phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Trong khi đó, bối cảnh trong
nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. Nền kinh tế tiếp tục
mở cửa, tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh trong nước nhưng cần khắc
phục những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và cho xuất khẩu, các tiêu chuẩn hàng
hóa sản xuất và tiêu chuẩn lao động trở thành các ràng buộc cạnh tranh, kinh tế tăng
trưởng liên tục với tốc độ cao là điều kiện cơ bản để giải quyết việc làm nhưng yêu
cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động tiếp tục cần hoàn thiện để phù hợp với

thông lệ quốc tế.

III.1. Định hướng:
Để phát triển thị trường lao động đến năm 2020 cần thể hiện rõ quan điểm phát
triển, đó là phát triển thị trường lao động phải đáp ứng mục tiêu tăng trưởng bền vững,
hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển con người;
trong quá trình phát triển phải bảo đảm thực hiện tốt ba chức năng cơ bản của thị
trường lao động: phân bố lao động hợp lý, phân chia và điều tiết thu nhập, phân tán và
hạn chế rủi ro nhằm phân phối công bằng hơn những thành quả đạt được của tăng
trưởng cho mọi người; cần tôn trọng các qui luật của nền kinh tế thị trường, chú trọng
nâng cao vai trò, năng lực của doanh nghiệp và tổ chức công đoàn trên thị trường lao
động; đặc biệt cần tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế,
tạo ra sân chơi bình đẳng thu hút đầu tư, thúc đẩy tính cạnh tranh, xóa bỏ các rào cản,
phân biệt trong thị trường và hỗ trợ thị trường lao động phát triển.Như vậy, phát triển
thị trường lao động đến năm 2020 cần tập trung vào các định hướng sau:
- Thứ nhất, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động trong nước và
trong điều kiện hội nhập quốc tế.
- Thứ hai, bảo đảm phân bố lao động đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, phát
triển mạnh thị trường lao động chính thức, đặc biệt chú trọng phát triển doanh nghiệp
trong các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất,
hỗ trợ lao động trong khu vực phi chính thức để giảm sự chia cắt giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng kinh tế, giữa các loại hình doanh nghiệp, giữa các nhóm
người lao động kỹ năng và không kỹ năng.
- Thứ ba, trong giai đoạn đầu (2013-2015), cần dựa vào chiến lược phát triển các
ngành sử dụng nhiều lao động, hướng về xuất khẩu, phát huy được các lợi thế so sánh
và tiềm năng của lực lượng lao động nhưng dần xóa bỏ sự phụ thuộc vào lao động giá
rẻ và kỹ năng thấp; giai đoạn sau (2016-2020), tập trung vào nhu cầu nguồn nhân lực
cho phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ yêu cầu công nghệ và kỹ năng cao
nhằm đạt mức năng suất lao động trung bình trong khu vực.



- Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua đẩy mạnh đào tạo kỹ
năng, năng lực thực hành, phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo đáp ứng nhu cầu của
thị trường lao động trong nước và quốc tế và nhu cầu học tập suốt đời của người dân,
chuẩn hóa chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế.
- Thứ năm, bảo đảm sự tự do lựa chọn việc làm và thúc đẩy dịch chuyển lao động
đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế, xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trường lao động và tổ chức
cung cấp các dịch vụ công có hiệu quả.
- Thứ sáu, tăng cường an sinh xã hội cho người lao động trong khi làm việc và
chuyển đổi việc làm.

III.2. Mục tiêu:
Mục tiêu chung của phát triển thị trường lao động đến năm 2020 là đảm bảo có
một thị trường hiện đại, hiệu quả, cạnh tranh và công bằng, góp phần thực hiện các
mục tiêu phát triển đất nước được nêu trong Chiến lược Phát triển kinh tế- xã hội giai
đoạn 2013-2020. Mục tiêu này cần được triển khai thành các mục tiêu cụ thể, thể hiện
rõ các yêu cầu về các mặt cung, cầu, kết nối cũng như an sinh cho người lao động.
Một là, nâng cao chất lượng và tăng cường năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực năm 2020 đạt phổ cập giáo dục trung học đối với thanh niên theo những tiêu chí
chung được sử dụng rộng rãi trên thế giới; tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao
động đạt 70%, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề trong tổng số lao động đạt 55%; năng
suất lao động tăng 5,5-6%/năm, đạt mức trung bình ASEAN. Hai là, việc làm đầy đủ
và bền vững cho người lao động - năm 2020 việc làm nông nghiệp trong tổng số việc
làm giảm xuống còn 30%; tỷ lệ lao động làm công ăn lương trong tổng lao động có
việc làm đạt 50%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị đạt dưới 5%; cả nước đạt dưới 3%; tiền
lương tối thiểu đạt 85% mức trung bình ASEAN; mức tiền lương trung bình/tháng/lao
động tăng 12-14%/năm. Ba là, gắn kết cung-cầu lao động, phát triển đồng bộ các yếu
tố hạ tầng của thị trường lao động - năm 2020 phát triển hệ thống thông tin thị trường
lao động quốc gia đảm bảo nối mạng đến các thành phố/thị trấn lớn của 63 tỉnh/thành
phố cả nước; công bố hàng tháng các chỉ tiêu chính của thị trường lao động; 70% học

sinh, 50% sinh viên tốt nghiệp các cơ sở đào tạo được hướng nghiệp, tư vấn và dịch
vụ việc làm; hệ thống dịch vụ việc làm đảm bảo cung cấp dịch vụ cho 3% lực lượng
lao động. Bốn là, hỗ trợ các nhóm yếu thế hòa nhập thị trường lao động và đẩy mạnh
an sinh xã hội - năm 2020 có 70% số người lao đông yếu thế trên thị trường lao động
được tiếp cận đào tạo nghề và hỗ trợ tìm việc làm; có 28,4 triệu người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội, chiếm 51,8% tổng số lao động cả nước; 15,7 triệu lao động tham
gia bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 84,5% số đối tượng bắt buộc; và 100% dân cư tham
gia bảo hiểm y tế.

III.3. Giải pháp nhằm phát triển thị trường lao động Việt Nam:
III.3.1. Giải pháp chung trong giai đoạn 2013-2020:
Để đạt các mục tiêu trên thì các giải pháp phát triển thị trường lao động giai đoạn
2013-2020 cần được thiết kế đồng bộ, từ luật pháp, cơ chế, chính sách thúc đẩy phát


triển doanh nghiệp đến cung cấp các dịch vụ công và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực cũng như năng lực, trình độ của các chủ thể trên thị trường lao động, đặc biệt là
vai trò của Nhà nước trong quản lý, đánh giá, giám sát và hỗ trợ thúc đẩy phát triển.
Về mặt thể chế, chính sách cần xây dựng các Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối
thiểu, Luật Quan hệ lao động, Luật An toàn, vệ sinh lao động, hoàn thiện Luật Bảo
hiểm xã hội; xây dựng Luật Bảo hiểm thất nghiệp (tách bảo hiểm thất nghiệp ra khỏi
Luật Bảo hiểm xã hội như hiện nay), trong đó mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm
thất nghiệp, hoàn thiện hệ thống chính sách, bộ máy quản lý đủ mạnh để giải quyết
vấn đề việc làm và chống thất nghiệp. Sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp,
Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Người lao động
Việt Nam làm việc theo hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài, Luật Bảo hiểm xã hội và
các văn bản hướng dẫn... phù hợp với quy luật của thị trường, lợi ích chính đáng và
hợp pháp của người lao động và doanh nghiệp. Làm rõ vai trò của Nhà nước, người sử
dụng lao động và tổ chức đại diện của họ, người lao động và tổ chức công đoàn và các
đối tác khác trên thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống thể chế về thỏa ước lao

động tập thể cấp ngành, cấp hiệp hội doanh nghiệp, xem xét và phê chuẩn các công
ước của Tổ chức Lao động quốc tế liên quan đến thị trường lao động.
Về tăng cường năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực, tiếp tục nâng cao chất
lượng chung về giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong
nước, của khu vực và trên thế giới; phát triển mạnh hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu
cầu phát triển về quy mô và cơ cấu nghề đào tạo cho các ngành kinh tế và phổ cập
nghề cho thanh niên, đặc biệt cần có những chính sách đột phá hỗ trợ doanh nghiệp
trở thành chủ thể chính trong đào tạo đội ngũ lao động có kỹ năng cao; xây dựng các
chính sách nhằm hỗ trợ chuyển đổi từ giai đoạn học tập sang giai đoạn gia nhập thị
trường lao động; hỗ trợ di chuyển lao động tạo điều kiện cho lực lượng lao động phân
bố hợp lý và hiệu quả.
Về việc làm đầy đủ và bền vững, cần đẩy mạnh giải quyết việc làm thông qua các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương, từng vùng, miền;
cải thiện môi trường cạnh tranh và thúc đẩy phát triển doanh nghiệp; cải thiện khu vực
phi chính thức, thúc đẩy sự hội nhập của khu vực này vào chuỗi giá trị gia tăng quốc
gia; Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm giai đoạn 2012-2015 cần hướng đến
các mục tiêu của “việc làm xanh” và việc làm bền vững; bảo đảm tiền lương, thu nhập
thực tế của người lao động; tăng cường cải thiện điều kiện làm việc của người lao
động.
Về gắn kết cung- cầu lao động, cần phát triển hệ thống định hướng nghề nghiệp;
phát triển hệ thống dịch vụ việc làm; phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.
Về hỗ trợ các nhóm yếu thế và đẩy mạnh an sinh xã hội, cần bảo đảm bình đẳng
giới; hỗ trợ nhóm yếu thế có việc làm, nâng cao thu nhập và tham gia thị trường lao
động; hoàn thiện bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế; đẩy mạnh trợ giúp xã hội.


Về quản trị thị trường lao động, cần nâng cao nhận thức của mọi đối tác xã hội về
thị trường lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa và nâng cao hiệu quả quản lý
thị trường lao động.

III.3.2. Giải pháp cụ thể đối với cung và cầu:
a. Đối với cung lao động:
Các thông tin về phía cung lao động cần phải chú ý thông tin thu nhập, các thông
tin liên quan đến cung lao động bao gồm: Những người bước vào độ tuổi lao động
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động chưa có việc làm và có nhu
cầu việc làm, nhừng người có nguy cơ mất việc làm. Những thông tin cần thu nhập là
họ tên, tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe , chổ ở, trình độ đào tạo,khả năng, sở thích
của mỗi người lao động. Nhu cầu về việc làm, các thông tin cập nhật từ xã, phường,
thị trấn đến thành phố nơi người lao động đang cư trú hoặc lao động đang làm việc
các thông tin phải đầy đủ, chính xác, kịp thời, và hình thành các phương pháp dự báo
ngắn, dài hạn, về số lượng , chất lượng.
• Về ngắn hạn
Trong lĩnh vực đào taọ phát triển , nhà nước nên đặt ưu tiên ngân sách và huy
động ngoài ngân sách để củng cố ngay các trường dạy nghề tại địa phương thực hiện
dào tạo có mục tiêu. Các trường này cần phải phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan
trường này cần phải phối hợp với các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước để xác
định nhu cầu đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo để làm căn cứ tuyển chọn và đào
tạo công nhân đáp ứng nhu cầu theo ngành nghề về nền kinh tế đang cần. Đặc biệt,
trong ngành nông – lâm nghiệp cần nâng cao năng lực đào tạo nhân lực, trước hết
trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở nông thôn bao gồm: sớm khắc phục tình trạng đào tạo
theo diện hẹp, ngành hẹp, chuyên môn hóa quá sớm, nâng cấp, phát triển ngành, điều
chỉnh lại nội dung và cơ cấu ngành nghề, môn học, xây dựng một số ngành đào tạo
mới , thực hiện đa dạng hóa ngành nghề đào tạo. Đồng thời, tiến hành các biện pháp
đạo tạo, đào tạo lại nghề cho lao động dôi dư do chuyển đổi, sở hữu và sắp xếp lại
doanh nghiệp Nhà nước , triển khai việc sắp xếp doanh nghiệp thao quyết định số
177/199/QĐ-TTG của Thủ Tướng Chính Phủ . Ngoài ra còn xây dựng quỹ đào tạo
chung cho các doanh nghiệp các thành phần kinh tế, nhằm đào tạo lại nghề cho lao
động bị thất nghiệp do chuyển đổi cơ cấu, do chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ
thuật. Cần có các biện pháp trợ vốn, thuế, thủ tục hành chính đối với các doanh nghiệp
giữa công nhân đã có tay nghề đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài phục vụ chuyển giao

công nghệ và tiếp nhận khoa học kỹ thuật hiện đại. Để giảm áp lực về cung lao động
trong nước cần đẩy mạnh xuất khẩu lao động ra nước ngoài kèm theo quy định cụ thể
về nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người được đi học , đào tạo ở nước ngoài.
Đặc biệt cần phải điều chỉnh mối quan hệ giữa cung và cầu lao động.
• Về dài hạn
Muốn có nguồn nhân lực có chất lượng cao trước hết cần phải có thời gian .
Điều này đã được Nhà nước nhận thức rất rỏ ràng và đề ra chiến lược phát triển con
người toàn diện và đang được triễn khai thực hiên trên phạm vi cả nước, tuy nhiên


chúng ta mới chỉ chú ý nhiều đến số lượng, nhưng chưa chú ý đến chất lượng lao
động. Chiến lược giáo dục đào tạo phải gắn với chiến lược kinh tế - xã hội của đất
nước. Do đó cần phải có cơ cấu và chấn chỉnh lại hệ thống các trường cao đẳng, đại
học, các trường dạy nghề. Các hình thức dạy nghề từ Trung ương đến địa phương cần
đươc mở rộng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa. Có chính sách khuyến khích phát
triển các cơ sở dạy nghề trong các doanh nghiệp ưu tiên tỷ trọng đầu tư cho việc đào
tạo nguồn nhân lực ở nông thôn để cải tạo lại cơ cấu nguồn lao động đã qua đào tạo.
Đặc biệt đối với các trường cao đẳng, cần chú trọng ngay ngành nghề. Nhiệm vụ của
đào tạo phải nhằm tạp ra một lực lượng lao động mà nền kinh tế cần. Cần mở rộng hệ
thống các trường dạy nghề và xây dựng mối quan hệ chiều ngang giữa trường dạy
nghề và các cơ qua hoạch định chính sách của Nhà nước. Ngay bây giờ cần giới thiệu,
cung cấp cho con em học sinh phổ thông cơ sở phổ thông trung học hiểu biết trường
dạy nghề , trung học chuyên nghiệp cũng cần đào tạo cho các đối tượng khác theo nhu
cầu
b. Đối với cầu lao động:
Chính Phủ cần đề ra các chính sách để đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình
quân hằng năm đạt 6,7 – 7,5%/ năm, nhằm đẩy nhanh sản xuất tạo thêm chỗ làm việc
cho người lao động. Cầu lao động bao gồm: các đơn vị hành chính, các đơn vị sử
dụng lao động. Các thông tin thu nhập là: số lao động đang được sử dụng, số chỗ làm
việc còn thiếu người và yêu cầu đối với người lao động khi đảm đương công việc ở

chỗ làm việc còn thiếu đó. Thu nhập các thông tin về cầu lao động và doanh nghiệp,
các đơn vị sử dụng lao động…cần phải có những biện pháp đảm bảo tang cường là tạo
đưuọc nhiều việc làm càng tốt thông qua các biệ pháp kinh tế là chính. Cần phải cải
thiện mới trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực.
Ngoài ra các tổ chức trên còn có mặt yếu về trình độ quản lý do vậy muốn đẩy
mạnh sự phát triển của các tổ chức này cần phải trang bị trình độ, kỹ năng quản lý cho
những người ở các cơ sở sản xuất. Nhà nước và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
nếu hỗ trợ bằng cách mở các khóa đào tạo ngắn hạn cho các nguời chủ, người chủ cơ
sở. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế gia đình để giải quyết việc làm tại chỗ,
khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế gia đình để giải quyết việc làm tại chỗ,
khuyến khích liên kết giữa các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ qua đó có sự tuyển chọn
lao động có trìh độ khác nhau từ lao động giản đơn đến lao động kỹ thuật cao. Các
công ty cần thực hiện hiệu quả chương trình giải quyết việc làm bằng nhiều cách
chẳng hạn như xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát điều tra, điều chỉnh chặt chẽ từ
trung ương đến địa phương. Cần nâng cao vai trò của các cấp địa phương trong giải
quyết việc làm. Bao gồm trách nhiệm giám sát, thực hiện và đánh giá, chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện chương trình, một cách đồng bộ , ưu tiên những vùng căng
thẳng về việc giải quyết việc làm và cần sự hỗ trợ của các cấp, các ngành . Do đó, Nhà
nước nên thiết lập các kênh thông tin nhằm cung cấp cho họ những thông tin cần thiết
về sản phẩm, thi trường về lao động cho sản xuất mở rộng quy mô sản xuất. Nhu cầu
về thông tin thị trường là nhu cầu cần thiết cho tất cả các nhà sản xuất, các đơn vị, các
ngành


×