Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng đối với kiểm toán khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.71 KB, 67 trang )

HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước chúng ta sau một thời gian gia nhập tổ chức thương mại WTO đã
có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế, thu hút ngày càng nhiều nhà đầu tư
nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Trước các cơ hội và thách thức khi gia nhập
nền kinh tế thế giới các doanh nghiệp phải có sự đổi mới về mọi mặt như: công tác
quản lý, công tác kế toán…Để góp phần làm minh bạch và hoàn thiện hơn trong
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thì dịch vụ kiểm toán là thật sự cần
thiết.
Kiểm toán báo cáo tài chính là xác minh và bày tỏ ý kiến về báo cáo tài
chính được kiểm toán. Lĩnh vực kiểm toán BCTC luôn được coi là lĩnh vực chứa
đựng nhiều rủi ro trong hoạt động kiểm toán. Để đưa ra kết luận trung thực về thực
trạng hoạt động tài chính của đơn vị thì đòi hỏi kiểm toán viên phải thu thập bằng
chứng kiểm toán đầy đủ và có độ tin cậy cao. Vì vậy, bằng chứng kiểm toán có vai
trò quan trọng là cơ sở hình thành ý kiến, kết luận kiểm toán và là yếu tố quan trọng
quyết định hiệu quả một cuộc kiểm toán.
Tiền là yếu tố có vai trò quan trọng trong các doanh nghiệp, là phương tiện
thanh toán giúp cho mọi hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục và thường
xuyên. Khoản mục tiền có ảnh hưởng đến hầu hết các khoản mục trên Báo cáo tài
chính như hàng tồn kho, chi phí… Ngoài ra do đặc điểm của tiền là có tính thanh
khoản cao nhất vì nó biểu hiện trực tiếp dưới hình thức giá trị, gọn nhẹ, dễ vận
chuyển, nghiệp vụ thu chi tiền trong doanh nghiệp có tần suất lớn… nên rất dễ xảy
ra gian lận và sai sót. Có thể nói khoản mục tiền là khoản mục luôn ẩn chứa rủi ro
tiềm tàng và trở thành một trong những khoản mục trọng yếu. Do đó vai trò của
kiểm toán khoản mục tiền trong toàn bộ quy trình kiểm toán BCTC là rất lớn và vấn
đề đầy đủ và thích hợp đối với các bằng chứng kiểm toán thu thập được trong khi
kiểm toán tiền cần phải được chú trọng.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán khoản mục tiền, với những
kiến thức đã có và sự hướng dẫn của cô Bùi Thị Minh Hải em đã quyết định chọn
đề tài: “Vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng đối với kiểm toán



Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán
độc lập tại Việt Nam thực hiện.”
Nội dung của bài viết này, ngoài lời mở đầu và kết luận, đề án có 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán với
khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính
Chương II. Thực trạng vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán đối
với khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán độc
lập tại Việt Nam thực hiện.”
Chương III. Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc vận dụng các kỹ thuật thu
thập bằng chứng kiểm toán đối với khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài
chính do các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam thực hiện.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS. Bùi Thị Minh Hải
đã giúp em nghiên cứu và hoàn thành bài viết này. Mặc dù đã cố gắng, nhưng do
còn hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, em rất mong sẽ nhận được ý kiến của cô để bài làm của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VẬN DỤNG CÁC KỸ THUẬT THU THẬP

BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN VỚI KHOẢN MỤC TIỀN TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát các kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán báo cáo tài
chính
1.1.1.Bằng chứng kiểm toán
1.1.1.1. Khái niệm về bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán là những thông tin, tài liệu được kiểm toán viên thu
thập trong quá trình kiểm toán để làm cơ sở cho việc đưa ra ý kiến của mình trên
báo cáo kiểm toán.
Với định nghĩa như trên, BCKT trong kiểm toán tài chính là những thông tin,
tài liệu mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình thực hiện kiểm toán báo
cáo tài chính làm cơ sở để kiểm toán viên để kiểm toán viên đưa ra các ý kiến về
báo cáo tài chính trên báo cáo kiểm toán.
Như vậy BCKT chính là cơ sở để chứng minh cho báo cáo kiểm toán, và
thực chất của hoạt động kiểm toán chính là quá trình thu thập BCKT đặc biệt là giai
đoạn thực hiện kiểm toán thì công việc này chính là trọng tâm của cả giai đoạn.
Về hình thức tồn tại thì BCKT có thể tồn tại dưới dạng các thông tin nhân
chứng hoặc các thông tin vật chứng. Nhiệm vụ của KTV là thu thập đầy đủ các
bằng chứng có hiệu lực để làm cơ sở cho kết luận về BCTC được đưa ra trong báo
cáo kiểm toán.
1.1.1.2..Phân loại bằng chứng kiểm toán
Có nhiều cách phân loại bằng chứng kiểm toán khác nhau:
• Phân loại bằng chứng kiểm toán dựa vào nguồn gốc thu thập
Căn cứ vào nguồn gốc của thông tin, BCKT được chia thành:
Một là, bằng chứng kiểm toán do kiểm toán viên tự khai thác, phát hiện bằng
cách kiểm kê thực tế, tính toán lại các biểu của đơn vị, quan sát hoạt động của hệ
thống kiểm soát nội bộ.
Hai là, bằng chứng kiểm toán do đơn vị được kiểm toán cung cấp
Ba là, bằng chứng kiểm toán do bên thứ ba độc lập cung cấp. Bên thứ ba ở đây


Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

có thể bao gồm: Ngân hàng, khách hàng của đơn vị được kiểm toán, chủ nợ, các
nhà cung cấp, công ty bảo hiểm, cổ đông, người nhận cầm cố…
• Phân loại bằng chứng theo tính thuyết phục:
Theo cách này bằng chứng được phân loại như sau:
Một là, bằng chứng có tính thuyết phục hoàn toàn: Đây là loại bằng chứng
do kiểm toán viên thu thập bằng cánh tự kiểm kê, đánh giá và quan sát. Bằng chứng
này thường được đánh giá là khách quan, chính xác và đầy đủ. Dựa vào ý kiến này
kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Hai là, bằng chứng thuyết phục từng phần như: bằng chứng thu được từ
phỏng vấn cần phải phân tích và kiểm tra lại, các loại bằng chứng thường được đảm
bảo bởi hệ thống kiểm soát nội bộ. Chúng chỉ thật sự có tính thuyết phục khi bộ
máy kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp là thực sự tồn tại và có hiệu lực. Dựa vào
loại bằng chứng này kiểm toán viên chỉ có thể đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần.
Ba là, bằng chứng không có giá trị thuyết phục: là bằng chứng không có giá
trị trong việc ra ý kiến, quyết định của kiểm toán viên về việc kiểm toán. Bằng
chứng có thể do phỏng vấn người quản lý, ban quản trị.
• Phân loại bằng chứng kiểm toán dựa vào loại hình bằng chứng
kiểm toán (theo dạng của bằng chứng kiểm toán)
Theo cách phân loại này thì bằng chứng kiểm toán bao gồm:
Một là, bằng chứng kiểm toán vật chất: là BCKT có liên quan đến kiểm tra,
kiểm kê tài sản hữu hình. Các loại BCKT vật chất như: Biên bản kiểm kê hàng tồn
kho, biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt, biên bản kiểm kê tài sản cố định hữu hình…
Hai là, bằng chứng kiểm toán tài liệu: là BCKT có được thông qua việc cung
cấp tài liệu thông tin của các bên có liên quan theo yêu cầu của kiểm toán viên. Một
số BCKT tài liệu như: tài liệu kế toán, sổ sách, chứng từ kế toán, ghi chép bổ sung

của kế toán, tính toán của kiểm toán viên…
Ba là, bằng chứng kiểm toán thông qua phỏng vấn: là BCKT có được thông
qua xác minh, điều tra bằng cách phỏng vấn những người có liên quan đến nội dung
kiểm toán, đến hệ thống kiểm soát nội bộ và báo cáo tài chính của đơn vị.
1.1.1.3.Vai trò và tính chất của bằng chứng kiểm toán

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

• Vai trò của bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán có một vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành của ý
kiến kết luận kiểm toán. Việc thu thập BCKT có thể dẫn đến việc đưa ra một số
quyết định của KTV, nó là yếu tố quyết định độ chính xác và rủi ro trong quyết định
của KTV. Chính vì thế sự thành công hay thất bại của cuộc kiểm toán phụ thuộc
vào việc KTV thu thập và đánh giá BCKT đã thu thập được.
Đối với tổ chức kiểm toán độc lập, cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ quan quản
lý, BCKT chính là cơ sở đánh giá chất lượng hoạt động của kiểm toán viên trong
quá trình thực hiện kiểm toán.
• Tính chất của bằng chứng kiểm toán
Bằng chứng kiểm toán cần có tính thuyết phục đối với những người đọc báo
cáo kiểm toán. Tính chất thuyết phục của BCKT được quyết định bởi hai tính chất
quan trọng của BCKT là tính hiệu lực (thích hợp) và tính đầy đủ.
Thứ nhất: Tính thích hợp(Hiệu lực)
Hiệu lực là khái niệm chỉ độ tin cậy hay chất lượng của bằng chứng kiểm
toán. Bằng chứng có hiệu lực hay có giá trị khi nó có độ tin cậy. Bằng chứng thể
hiên đúng mục tiêu kiểm toán và phản ánh đúng thực trạng các hoạt động tài
chính đang diển ra tại đơn vị. . Chỉ vậy mới có thể giúp kiểm toán viên chính sác
hơn trong việc đưa ra Báo cáo kiểm toán. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính

hiệu lực của bằng chứng bao gồm:
+ Hình dạng(hay loại hình) của bằng chứng:
Bằng chứng vật chất (ví dụ như: Biên bản kiểm kê, có được sau khi thực
hiện kiểm kê hay quan sát kiểm kê ) và sự hiểu biết cảu kiểm toán viên về ác lĩnh
vực cần kiểm toán được xem là đáng tin cậy hơn bằng chứng bằng lời (ví dụ như
phỏng vấn )
+ Hệ thống kiểm soát nội bộ:
Hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là có hiệu lực thì bằng chứng thu
thập được có độ tin cậy cao hơn bằng chứng thu được trong điều kiện hệ thống
này hoạt động kém hiệu quả. Khi đó trong môi trường kiểm soát nội bộ hoạt
động tốt, thì khả năng tồn tại sai phạm mà hệ thống kiểm soát nội bộ không phát

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

hiện sẽ thấp.
+ Nguồn gốc của việc thu thập Bằng chứng:
Bằng chứng có nguồn gốc càng độc lập với đối tượng kiểm toán thì càng có
hiệu lực. Việc đánh độ tin cậy của nguông gốc có thể dựa vào các nguyên tắc sau:
- Bằng chứng có nguồn gốc từ bên ngoài đơn vị đáng tin cậy hơn nguồn
gốc bằng chứng từ bên trong;
- Bằng chứng có nguồn gốc từ bên trong đơn vị có độ tin cậy cao hơn khi hệ
thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán hoạt động có hiệu quả.
- Bằng chứng do KTV tự thu thập có độ tin cậy hơn bằng chứng do đơn vị
cung cấp.
+ Sự kết hợp của các bằng chứng:
Bằng chứng kiểm toán có sức thuyết phục cao hơn khi có được thông tin từ
nhiều nguồn và nhiều loại khác nhau càng xác nhận. Trường hợp này KTV có thể

có được độ tin cậy cao hơn đối với bằng chứng kiểm toán so với trường hợp thông
tin có được từ những bằng chứng riêng rẽ.
Thứ hai: Tính đầy đủ
Tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là nói tới số lượng và chủng loại thu
thập bằng chứng kiểm toán. Không có bất cứ chuẩn mưc nào quy định cụ thể bao
nhiêu bằng chứng là đủ mà chuẩn mực số lượng của bằng chứng kiểm toán để đủ
đưa ra ý kiến phụ thuộc vào sự phán xét chủ quan của KTV. Sự phán xét đó tuỳ
thuộc vào tình huống cụ thể (như quy mô mẫu, mức độ rủi do kiểm toán lớn…)
mà kiểm toán viên cân nhắc tới số lượng quy mô của bằng chứng sao cho thích
hợp với một chi phí hợp lý.
Những yếu tố ảnh hưởng đến tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán gồm có:
+ Tính hiệu lực của bằng chứng:
Bằng chứng có độ tin cậy càng thấp thì thu thập càng nhiều. Một số ít bằng
chứng có độ tịn cậy thấp chưa đủ để có thể nhân định một cách chính xác về đối
tượng kiểm toán cụ thể.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

+ Tính trọng yếu với bằng chứng kiểm toán:
Trọng yếu là khái niệm tầm cỡ và bản chất của các sai phạm của các thông
tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào
các thông tin này để xét đoán thì không thể chính xác hoặc sẽ rút ra sai lầm.
Đối tượng cụ thể được kiểm toán càng nhiều yếu tố trọng yếu thì số lượng bằng
chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều
+ Mức độ rủi ro bằng chứng kiểm toán:
Những đối tượng cụ thể (khoản mục, bộ phận…) được đánh giá là khả năng
rủi ro lớn thì lượng bằng chứng kiểm toán viên phải thu thập càng nhiều và ngược

lại.
+ Chi phí kiểm toán: Kiểm toán viên khi thu thập BCKT cần phải cân nhắc
giữa BCKT thu được và chi phí bỏ ra để có được BCKT đó. Chi phí thu thập BCKT
được tính vào chi phí kiểm toán vì vậy nếu không cân nhắc kỹ lưỡng thì rất có thể
chi phí kiểm toán sẽ bị tăng lên ngoài dự toán làm giảm tính cạnh tranh của công ty
kiểm toán.
1.1.1.4. Quyết định về bằng chứng kiểm toán
Thu được bằng chứng có giá trị và đầy đủ là điều quan trọng nếu công ty
kiểm toán muốn giảm thiểu tối đa trách nhiệm pháp lý và giữ vững tiếng tiếng tốt
trong công đồng nghề nghiệp. Giữ chi phí ở mức hợp lý giúp cho công ty đủ sức
cạnh tranh và do đó giữ khách hàng, nếu công ty đã có uy tín vì thực hiện công việc
có chất lượng. Báo cáo tài chính bao gồm tất cả các thông tin tổng hợp liên quan
đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong một niên độ tài chính được kiểm
toán. Với đối tượng kiểm toán rộng như vậy, chí phí của cuộc kiểm tra và đánh giá
tất cả các bằng chứng là rất cao nhưng hiệu quả mà công ty kiểm toán đạt được lại
không cao. Cụ thể kiểm toán viên không thể kiểm tra tất cả các phiếu chi đã thanh
toán, các đơn đặt hàng, các hóa đơn bán hàng thẻ lương thời gian…Do đó vấn đề
đặt ra phải xác định số lượng bằng chứng thích hợp cần thu thập để có thể đánh giá
một cách toàn diện về đối tượng cần kiểm toán.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Các quyết định về bằng chứng kiểm toán đã được đưa ra nhằm giải quyết
cho kiểm toán viên trong việc xác định số lượng bằng chứng thích hợp phải tập hợp
để thoả mãn các yếu tố cấu thành các báo cáo tài chính của khách hàng và toàn bộ
các báo cáo phải được trình bày một cách trung thực. Quyết định của kiểm toán
viên về thu thập bằng chứng có thể chia thành bốn loại sau:

• Quyết định về thể thức kiểm toán cần áp dụng
Thể thức kiểm toán là hướng dẫn chi tiết về quá trình thu thập một bằng
chứng kiểm toán cá biệt phải thu thập ở một thời điểm nào đó trong cuộc một kiểm
toán. Ví dụ: hướng dẫn về chi tiết quá trình thu thập biên bản kiểm kê vật tư tiền tại
két, hay hướng dẩn chi tiết về thu thập bảng so sánh giữa các chi phiếu thanh toán
với các khoản chi tiền mặt, các bút toán nhật ký hay chi tiết trong chứng từ vận
chuyển.
Khi thiết kế các thể thức kiểm toán, thường phải sắp xếp chúng theo thứ tự
trong nhưng phương thức cụ thể để giúp cho việc sử dụng chúng như hướng dẩn
trong suốt cuộc kiểm toán. Ví dụ:thể thức kiểm toán đối với quá trình thẩm tra các
khoản chi tiền mặt: Lấy số tiền nhật ký chi tiền mặt so sánh tên người được chi tiền,
số tiền và ngày ghi trên chi phiếu đã thanh toán với sổ nhật ký chi tiền mặt.
• Quyết định về quy mô mẫu cần chọn đối với một thể thức nhất định
Sau khi chọn được thể thức kỉêm toán, kiểm toán viên xác định quy mô mẫu.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530: Lấy mẫu kiểm toán: là áp dụng các
thủ tục kiểm toán trên số phần tử ít hơn 100% tổng số phần tử của một số dư tài
khoản hay một loại nghiệp vụ, sao cho mọi phần tử đều có hội để chọn. Lấy mẫu sẽ
giúp cho kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán về đặc trưng
của các phần tử được chọn, nhằm hình thành hay củng cố kết luận về tổng thể. Như
vậy quy mô mẫu có thể là một vài phần tử hay tất cả các phần tử trong tổng thể.
Trong thể thức kiểm toán trên, giả sử ta có 6000 phiếu chi tiền mặt trong phạm vi
kiểm toán quý 2 năm 2002 được ghi vào sổ và nhật ký chi tiền mặt. kiểm toán viên
có thể chọn ra một quy mô mẫu gồm 400 chi phiếu để so sánh với nhật ký chi tiền.
Việc quyết định chọn bao nhiêu khoản mục phải được kiểm toán viên thực hiện cho

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải


từng thể thực kiểm toán. Quy mô mẫu chon theo thể thực này thay đổi giữa các
cuộc kiểm toán
• Quyết định về khoản mục cá biệt cần chọn từ tổng thể
Xác định xong quy mô mẫu chọn cho từng thể thức kiểm toán, kiểm toán
viên cần phải xác định các khoản mục cá biệt cá biệt để kiểm tra. Theo thí dụ trên
thì khi chọn 400 mẫu trong số 6000 mẫu của tổng thể các phiếu chi tiền mặt quý
2/2002, có một số phương pháp khác nhau có thể được sử dụng để lựa chọn các
phiếu chi cá biệt để kiểm tra. Kiểm toán viên có thể: (a) chọn 400 phiếu chi có giá
trị lớn nhất, (b) chọn 400 phiếu chi đầu tiên, (c) chọn phiếu thu một cách ngẫu
nhiên, (4) chọn theo phán đoán của kiểm toán viên hay kết hợp các cánh nói trên.
• Quyết định về xác định thời gian hoàn thành các thể thức
Việc xác định thời gian của thể thức kiểm toán có thể ngay từ kỳ kế toán mà
báo cáo tài chính phản ánh chưa kết thúc; hoặc có thể rất lâu sau khi kỳ kế toán đó
kết thúc.
1.1.2.Các kỹ thuật thu thập bằng chứng
Trong quá trinh thu thập BCKT, KTV áp dụng các phương pháp kỹ thuật để
thu thập các BCKT đầy đủ và thích hợp và tiến hành đánh giá chúng.
Kỹ thuật thu thập BCKT được hiểu là các thủ tục, biện pháp tác nghiệp mà KTV
tiến hành nhằm thu được BCKT đầy đủ và có hiệu lực
Các phương pháp kỹ thuật thường được vận dụng trong kiểm toán BCTC
gồm: kiểm kê, quan sát, điều tra, lấy xác nhận, xác minh tài liệu, tính toán và phân
tích

1.1.2.1. Kiểm tra vật chất ( kiểm kê )
Kiểm kê là quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các loại tài sản của
doanh nghiệp. Kiểm tra vật chất do vậy thường được áp dụng với tài sản có giá trị vật
chất cụ thể như hàng tồn kho, tài sản cố định, tiền mặt, giấy tờ thanh toán có giá trị.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết



HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Mức độ áp dụng: đối với các tài sản dễ xảy ra mất mát hoặc thiếu thì việc kiểm kê
phải được thực hiện toàn diện. Còn đối với những loại tài sản khác thì tủy thuộc vào
tầm quan trọng, mức độ trọng yếu của từng loại mà tiến hành kiểm tra cho phù hợp.
Những yếu tố tác động đến BCKT thu được: độ tin cậy của BC vật chất phụ
thuộc vào kỹ năng và hiểu biết của KTV thực hiện kiểm kê. Nếu KTV thiếu sự am
hiểu về đánh giá chủng loại các tài sản cần thiết hoặc kiểm kê không cẩn thận thì
BC thu được có thể bị sai lệch.
Ưu điểm của kỹ thuật kiểm kê là cung cấp BCKT có độ tin cậy cao nhất, vì
kiểm kê là quá trình xác minh sự hiện hữu của tài sản, mang tính khách quan. Hơn
nữa cách thực hiện kỹ thuật này đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của
kiểm toán.
Hạn chế của kỹ thuật kiểm kê là:
Thứ nhất: đối với những tài sản như đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị…
kỹ thuật kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản mà không cho biết quyền sở
hữu của đơn vị được kiểm toán đối với tài sản đó; hoặc tài sản đó có thể hiện hữu
nhưng lại là tài sản thuê ngoài hay đã đem thế chấp…
Thứ hai: đối với các loại hàng hóa, nguyên vật liệu tồn kho, kiểm tra vật chất
chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản về mặt số lượng, còn chất lượng, tình trạng kỹ
thuật, tính sở hữu, Kỹ thuật đánh giá chúng đúng hay sai thì chưa thể hiện.
Do đó kiểm tra vật chất đối với vật tư phải đi kèm với các BCKT khác để
chứng minh quyền sở hữu và giá trị của tài sản đó.
1.1.2.2.Lấy xác nhận
Là quá trình thu thập thông tin do bên thứ ba độc lập cung cấp để xác minh
tính chính xác của thông tin mà kiểm toán viên nghi vấn.
Thư xác nhận (sau khi đã có ký, duyệt cuả đại diện đơn vị được kiểm toán) có thể
được kiểm toán viên gửi trực tiếp đến người thứ ba để nhờ xác nhận thông tin theo
yêu cầu và sau đó được gửi trở lại theo địa chỉ của kiểm toán viên. Thông thường,

đơn vị được kiểm toán có thể gửi thư nhờ xác nhận đến người thứ ba theo yêu cầu

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

của kiểm toán viên, nhưng thư trả lời vẫn phải gửi trực tiếp về địa chỉ của kiểm
toán viên và kiểm toán viên phải kiểm soát được toàn bộ việc gửi và nhận các xác
nhận.
Ưu điểm của kỹ thuật xác nhận là bằng chứng thu được có độ tin cậy cao nếu
kiểm toán viên thực hiện đúng quy trình và đảm bảo các yêu cầu :


Thông tin cần phải được xác nhận theo yêu cầu của kiểm toán viên



Sự xác nhận phải được thực hịên bằng văn bản



Sự độc lập của người xác nhận thông tin



Kiểm toán viên phải kiểm soát được toàn bộ quá trình thu thập thư
xác nhận.

Tuy nhiên kỹ thuật này có hạn chế là chi phí thực thi khá lớn và do đó phạm

vi áp dụng tương đối giới hạn, nhất là khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn,
quan hệ rộng, đa quốc gia ... Hơn nữa kiểm toán viên cũng cần quan tâm đến khả
năng các xác nhận của bên thứ ba đã qua sự dàn xếp trước của đối tượng được kiểm
toán.
Kỹ thuật lấy xác nhận có thể được thực hiện theo hai hình thức, hình thức
gửi thư xác nhận phủ định và thư xác nhận dạng khẳng định.


Theo hình thức thứ nhất, kiểm toán viên yêu cầu người xác nhận gửi
thư

phản hồi nếu có sai khác giữa thực tế với thông tin kiểm toán viên nhờ xác nhận.


Theo hình thức thứ hai, kiểm toán viên yêu cầu người xác nhận gửi
thư

phản hồi cho tất cả các thư xác nhận dù thực tế có trùng khớp với thông tin mà kiểm
toán viên quan tâm.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Bảng số 1.1. Các loại thông tin thường cần phải xác nhận
Thông tin

Nơi xác nhận


Tài sản
Tiền gửi ngân hàng

Ngân hàng

Khoản phải thu

Con nợ

Phiếu nợ phải thu

Người lập phiếu

Hàng tồn kho sở hữu ngoài sổ kỹ gửi

Người ký gửi

Hàng tồn kho gửi trong Công ty lưu kho

Công ty lưu kho

Giá trị bằng tiền của bảo hiểm nhân thọ

Công ty bảo hiểm

Công nợ

Chủ nợ

Khoản phải trả


Người cho vay

Phiếu nợ phải trả

Khách hàng

Trả trước của khách hàng

Người nhận cầm cố

Cầm cố phải trả

Người giữ trái phiếu

Trái phiếu phải trả

Người giữ sổ đăng ký và đại lý

Vốn chủ sở hữu

chuyển nhượng

Cổ phần đang lưu hành

Công ty bảo hiểm

Các loại thông tin khác

Luật sư của Công ty, ngân hàng


Loại bảo hiểm

Người giữ trái khoán

Nợ ngoài ý muốn

Chủ nợ

Hợp đồng trái khoán
Vật ký quỹ cho chủ nợ
(Nguồn: Bảng 6-2, arens và Loebbecke, NXB Thống kê, 1995, trang 133)
Bằng chứng kiểm toán thu được từ kỹ thuật xác nhận gọi là kiểu mẫu xác
nhận.
1.1.2.3. Xác minh tài liệu
Là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu các chứng từ sổ sách có liên quan
sẵn có trong đơn vị. Phương pháp này được áp dụng đối với: Hoá đơn bán hàng,
phiếu nhập kho, xuất kho, Hoá đơn vật tải, sổ kế toán …
Phương pháp này thường được tiến hành theo hai cách :

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải



Thứ nhất, từ một kết luận có trước, kiểm toán viên thu thập tài liệu
làm


cơ sở cho kết luận mà cần khẳng định. Ví dụ: kiểm toán viên kiểm tra các tài liệu,
hồ sơ pháp lý về quyền sở hữu tài sản.


Thứ hai, kiểm tra các tài liệu của một nghiệp vụ từ khi phát sinh đến
khi

vào sổ sách. Quá trình này có thể tiến hành theo hai hướng :


Từ chứng từ gốc lên sổ sách: khi muốn chứng minh rằng
nghiệp

vụ phát sinh đã được ghi sổ đầy đủ.


Từ sổ sách kiểm tra ngược về chứng từ gốc: khi muốn thu thập

bằng chứng về tính có thật của mọi nghiệp vụ được ghi sổ.
Kỹ thuật kiểm tra tài liệu tương đối thuận tiện do tài liệu thường là có sẵn,
chi phí để thu thập bằng chứng cũng ít hơn các kỹ thuật khác. Tuy nhiên, kiểm tra
tài liệu cũng có những hạn chế nhất định. Độ tin cậy của tài liệu minh chứng phụ
thuộc vào nguồn gốc của bằng chứng (hay sự độc lập của tài liệu so với đơn vị được
kiểm toán); các tài liệu cung cấp có thể đã bị sửa chữa, giả mạo làm mất tính khách
quan nên cần có sự kiểm tra, xác minh bằng các phương pháp kỹ thuật khác.
1.1.2.4.Quan sát
Là phương pháp được sử dụng để đánh giá một thực trạng hay hoạt động của
đơn vị được kiểm toán.
Kỹ thuật này rất hữu ích trong nhiều phần hành của cuộc kiểm toán; bằng
chứng thu được đáng tin cậy. Tuy nhiên, bản thân bằng chứng thu được từ kỹ thuật

quan sát chưa thể hiện tính đầy đủ nên cần đi kèm với kỹ thuật khác. Kỹ thuật này
chỉ cung cấp bằng chứng về phương pháp thực thi công việc ở thời điểm quan sát,
không chắc chắn có được thực hiện ở các thời điểm khác hay không. Bằng chứng
thu được từ kỹ thuật này gọi là kiểu mẫu quan sát.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

1.1.2.5. Phỏng vấn
Là quá trình kiểm toán viên thu thập thông tin bằng văn bản hay bằng lời nói
qua việc thẩm vấn những người hiểu biết về vấn đề kiểm toán viên quan tâm.


Quá trình thu thập bằng chứng qua phỏng vấn thường bao gồm ba giai

đoạn: Giai đoạn thứ nhất: lập kế hoạch phỏng vấn. Kiểm toán viên phải xác định
được mục đích, đối tượng và nội dung cần phỏng vấn (có thể cụ thể hóa ra thành
những trọng điểm cần phỏng vấn), thời gian, địa điểm phỏng vấn …


Giai đoạn thứ hai: thực hiện phỏng vấn. Kiểm toán viên giới thiệu lí
do

cuộc phỏng vấn, trao đổi về những trọng điểm đã xác định. Khi phỏng vấn kiểm
toán viên có thể dùng hai loại câu hỏi cơ bản là câu hỏi ‘đóng’ hoặc câu hỏi ‘mở’.
Câu hỏi “mở” giúp kiểm toán viên thu được câu trả lời chi tiết và đầy đủ;
được sử dụng khi kiểm toán viên muốn thu thập thêm thông tin. Loại câu hỏi này
thường có các cụm từ ‘thế nào’, ‘cái gì?’, ‘tại sao?’.

Câu hỏi ‘đóng’ giới hạn câu trả lời của người được phỏng vấn; được sử dụng
khi kiểm toán viên muốn xác nhận một vấn đề đã nghe hay đã biết. Loại câu hỏi này
thường có các cụm từ ‘có hay không’, ‘tôi (không) biết rằng…’
Giai đoạn thứ ba: kết thúc phỏng vấn. Kiểm toán viên cần đưa ra kết luận trên cơ sở
thông tin đã thu thập được. Tuy nhiên, kiểm toán viên cũng cần lưu ý đến tình
khách quan và sự hiểu biết của người được phỏng vấn để có kết luận xác đáng về
bằng chứng thu thập được.
Ưu điểm của kỹ thuật này là giúp kiểm toán viên thu thập được những bằng
chứng chưa có được giúp thu thập những thông tin phản hồi để củng cố luận cứ của
kiểm toán viên. Tuy nhiên, nhược điểm của kỹ thuật này là độ tin cậy của bằng
chứng không cao do đối tượng được phỏng vấn chủ yếu là người trong đơn vị được
kiểm toán nên thiếu tính khách quan; chất lượng của bằng chứng cũng phụ thuộc
vào trình độ và sự hiểu biết của người được hỏi.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

1.1.2.6. Tính toán
Là quá trình kiểm toán viên kiểm tra chính xác về mặt số học của việc tính
toán và ghi sổ.
Kỹ thuật này chỉ quan tâm đến tính chính xác thuần tuý về mặt số học,
không chú ý đến sự phù hợp của phương pháp tính được sử dụng. Do đó kỹ thuật
này thường được sử dụng cùng với các kỹ thuật khác như kiểm tra tài liệu, kiểm tra
vật chất, phân tích … trong quá trình thu thập bằng chứng.
Ưu điểm của kỹ thuật này là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao, xét về
mặt số học. Tuy nhiên, nhược điểm của kỹ thuật này là các phép tính và phân bổ đôi
khi khá phức tạp, tốn thời gian đặc biệt khi đơn vị được kiểm toán có qui mô lớn,
loại hình kinh doanh đa dạng, luồng tiền ra vào rất lớn… trong trường hợp đó, để

thực hiện kỹ thuật này kiểm toán viên cần được trang bị máy tính cá nhân nhiều số,
máy tính xách tay ...
1.1.2.7.Phân tích
Kỹ thuật phân tích là quá trình so sánh, đối chiếu đánh giá các mối quan hệ để
xác định tính hợp lý của các số dư trên tài khoản, số dư trên các khoản mục.
Việc thu thập bằng chứng từ kết quả phân tích thường đa dạng thông thường
KTV chia làm ba loại:
Kiểm tra tính hợp lý: Bao gồm những so sánh cơ bản như so sánh giữa số liệu
thực tế so với số kế hạch, số dự toán, nhằm mục đích để KTV phát hiện những
chênh lệch lớn hoặc những biến động lớn trong hoạt động kinh doanh của đơn
vị. Việc so sánh này cũng bao gồm cả so sánh chỉ tiêu đơn vị với chỉ tiêu ngành,
giữa ước tính với số liệu thực tế của đơn vị.
Phân tích xu hướng: Đây là những bằng chứng thu thập được từ sự phân tích
trong sự thay đổi của thời gian đối với số dư tài khoản, số phát sinh các khoản
mục để tìm kiếm sự thay đổi bất thường
Phân tích tỷ suất: Đây là những bằng chứng thu được từ số dư tài khoản, số phát
sinh các khoản mục hoặc những loại nghiệp vụ trên cơ sở việc tính toán các tỷ
suất, các tỷ lệ.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Phương pháp này chi phí kiểm toán thấp và giúp KTV định hướng được công
việc cần kiểm toán. Tuy nhiên, kỹ thuật này chỉ được áp dụng khi các chỉ tiêu
đồng nhất về chuẩn mực và phụ thuộc nhiều vào trình độ của KTV.
1.2.Đặc điểm khoản mục tiền có ảnh hưởng đến việc vận dụng các kỹ thuật thu
thập bằng chứng kiểm toán đối với khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài
chính

1.2.1.Khái niệm, phân loại, đặc điểm khoản mục tiền
1.2.1.1 Khái niệm và phân loại khoản mục tiền
Dưới góc độ kế toán, tiền là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ số tiền hiện có
của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo, gồm: Tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp,
tiền gửi ngân hàng (không kỳ hạn), vàng, bạc, kim khí quý, đá quý và tiền đang
chuyển. Cụ thể:
Tiền mặt tại quỹ: bao gồm giấy bạc ngân hàng Việt Nam, ngân phiếu, ngoại tệ,
vàng bạc,…hiện đang quản lý tại doanh nghiệp.
Số liệu được trình bày trên BCTC của khoản mục này là số dư của TK Tiền
mặt vào thời điểm khóa sổ sau khi đã được đối chiếu với số thực tế và tiến hành
điều chỉnh cần thiết.
Tiền gửi ngân hàng: gồm tiền Việt Nam, ngoại tệ. vàng, bạc, kim khí quí, đá
quý,.. được gửi tại ngân hàng.
Số dư của TK Tiền gửi ngân hàng trình bày trên BCĐKT phải được đối chiếu
và điều chỉnh theo số phụ ngân hàng vào thời điểm khóa sổ.
Tiền đang chuyển: là các khoản tiền mà DN đã nộp vào ngân hàng, kho bạc
nhà nước hoặc đã gửi vào bưu điện để chuyển cho ngân hàng hay đã làm thủ tục
chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để trả cho các đơn vị khác nhưng
vào thời điểm khóa sổ DN chưa nhận được giấy báo có hay bảng sao kê của ngân
hàng hoặc giấy báo của kho bạc.
Trong lĩnh vực ngân hàng, khoản mục tiền tồn tại dưới nhiều dạng hơn so với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác, bao gồm: tiền mặt bằng đồng Việt

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Nam; Tiền mặt ngoại tê; Kim loại quý, đá quý tại quỹ và tiền gửi thanh toán tại
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.

1.2.1.2.Đặc điểm khoản mục tiền
Tiền là khoản mục được trình bày đầu tiên trên BCĐKT và là một khoản
mục lớn và rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nhanh cũng như
khả năng thanh toán các khoản nợ tới hạn, nợ dài hạn.Do thường được sử dụng để
phân tích khả năng thanh toán của một DN, nên đây là khoản có thể bị cố tình làm
sai lệch
Tiền liên quan đến các nghiệp vụ mua bán, thanh toán và các hoạt động tài
chính của doanh nghiệp còn là khoản mục bị ảnh hưởng và ảnh hưởng đến nhiều
khoản mục quan trọng như thu nhập, chi phí, công nợ và hầu hết các tài khoản khác
của DN.
Có thể thấy mối quan hệ của tiền với các chu trình kế toán như sau
Sơ đồ 1.1 Vai trò của tiền trong các chu trình kế toán
TIỀN

BÁN
HÀNG

THU
TIỀN

HUY ĐỘNG VÀ HOÀN TRẢ

TIỀN
LƯƠNG
&
NHÂN
VIÊN

MUA


THANH
TOÁN

HÀNG TỒN KHO

( Nguồn: Sơ đồ 1.1 giáo trình “ Kiểm toán tài chính”,NXB ĐH Kinh tế quốc
dân,2011, trang 18)
Do số phát sinh của các tài khoản Tiền thường lớn, thường xuyên hơn số
phát sinh của nhiều tài khoản khác, vì thế các sai phạm trong nghiệp vụ liên quan
đến tiền có nhiều khả năng xảy ra và khó bị phát hiện nếu không có một hệ thống

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

kiểm soát nôi bộ hữu hiệu.
1.2.2. Mục tiêu kiểm toán đối với khoản mục tiền
Mục tiêu kiểm toán cụ thể chủ yếu bao gồm:
* Mục tiêu hợp lý chung: Tất cả tiền của doanh nghiệp đều phải có biểu hiện
hợp lý.
* Mục tiêu chung của kiểm toán khoản mục tiền trong kiểm toán báo cáo tài
chính:
- Mục tiêu hiện hữu: Số dư các tài khoản tiền ghi trên BCTC là tất cả các
khoản tiền có trong quỹ, có trong ngân hàng, đang chuyển là thực sự tồn tại
- Mục tiêu trọn ven (đầy đủ): số tiền tồn tại trên thực tế đều đã được ghi đầy
đủ vào sổ sách kế toán.
- Mục tiêu quyền và nghĩa vụ: Các khoản mục tiền hiện có của doanh nghiệp
có thực sự thuộc về quyền sở hữu, quyền sử dụng của doanh nghiệp hay không.
-


Mục tiêu đánh giá: Việc định giá các số dư vốn bằng tiền, các khoản thu

chi,các khoản ngoại tệ vàng bạc, kim khí đá qúy được thực hiện đúng theo nguyên
tắc.
- Mục tiêu chính xác cơ học: Các công việc tính toán, cộng sổ, chuyển sổ các
khoản mục tiền cần phải chính xác và có sự thống nhất giữa các sổ kế toán với báo
cáo tài chính.
- Mục tiêu phân loại và trình bày: Khoản mục tiền trên BCTC của doanh
nghiệp phải được lập và trình bày trung thực hợp lý theo đúng chuẩn mực.
* Mục tiêu đặc thù của kiểm toán khoản mục tiền trong kiểm toán báo
cáo tài chính:
Do tiền là một loại tài sản lưu động của doanh nghiệp được trình bày truớc
tiên trên bảng cân đối kế toán. Khoản mục tiền thường đóng vai trò quan trọng
trong quá trình phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu số dư tiền quá
thấp chứng tỏ khả năng thanh toán tức thời gặp nhiều khó khăn, nếu số dư tiền quá
lớn chứng tỏ một điều không tốt vì sử dụng tiền không hiệu quả. Các nghiệp vụ về
tiền thường phát sinh thường xuyên với số lượng lớn và có quy mô khác nhau. Mặc

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

dù tiền có nhiều ưu điểm trong thanh toán và trong bảo quản sử dụng nhưng chính
điều này cũng dẫn tới khả năng sai phạm tiềm tàng rất cao. Ngoài ra tiền còn liên
quan đến nhiều chu trình nghiệp vụ khác nhau và điều này dẫn tới những ảnh hưởng
của những sai phạm từ các khoản mục có liên quan trong chu trình tới khoản mục
tiền và ngược lại. Từ các đặc điểm nêu trên của khoản mục tiền ta thấy rằng nó là
một khoản mục quan trọng nhưng lại dễ bị trình bày sai lệch, khả năng mất mát gian

lận lớn.
* Đối với tiền mặt, khả năng sai phạm thường có các trường hợp sau:
-

Tiền được ghi chép không có thực trong két

-

Các khả năng chi khống, chi tiền quá giá trị thực bằng cách làm chứng từ

khống, sửa chữa chứng từ khai tăng chi, giảm thu để biển thủ tiền.
- Khả năng hợp tác giữa thủ quỹ và cá nhân làm công tác thanh toán hoặc
trực tiếp với khách hàng để biển thủ tiền.
Khả năng mất mát tiền do điều kiện bảo quản, quản lý không tốt

-

- Đối với ngoại tê, khả năng có thể ghi sai tỷ giá khi quy đổi với mục đích
trục lợi khi tỷ giá thay đổi hoặc hạch toán sai do áp dụng sai nguyên tắc hạch toán
ngoại tệ. Ngoài ra các trường hợp sai với đồng Việt Nam cũng có thể xảy ra với
ngoại tệ.
* Đối với tiền gửi ngân hàng, khả năng xảy ra sai phạm thường thấp
hơn so với tiền mặt do cơ chế kiểm soát, đối chiếu đối với tiền gửi ngân hàng
thường được đánh giá là khá chặt chẽ. Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra các sai phạm sau
đây:
- Quên không tính toán khách hàng
- Tính tiền khách hàng với giá thấp hơn do công ty quy định
- Thanh toán một hóa đơn nhiều lần
- Thanh toán tiền lãi cho một phần tiền cao hơn hiện hành
- Khả năng hợp tác giữa nhân viên ngân hàng và nhân viên thực hiện giao

dich thường xuyên với ngân hàng
- Chênh lệch giữa số liệu theo ngân hàng và theo tính toán của kế toán tại đơn vị.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

* Đối với tiền đang chuyển, do tính chất và đặc điểm của nó mà sai
phạm đối với tiền đang chuyển có mức độ thấp, tuy nhiên khả năng sai phạm tiềm
tàng của tiền đang chuyển cũng rất lớn:
-

Tiền bị chuyển sai địa chỉ

-

Ghi sai số tiền chuyển vào ngân hàng, chuyển thanh toán

-

Nộp vào tài khoản muộn và dùng tiền vào mục đích khác

Ví dụ: Xuất phát từ những đặc điểm và ảnh hưởng trên, trong quy trình kiểm toán
khoản mục tiền, Công ty kiểm toán ASCO thường xác định các mục tiêu đặc thù
của khoản mục tiền như sau:
-

Mục tiêu hiện hữu: Số dư tài khoản vào ngày lập báo cáo là có thực


-

Mục tiêu đầy đủ: Tất cả các nghiêph vụ liên quan tới tiền đều được ghi

chép, tất cả các lọai tiền đều được ghi chép và phản ánh
-

Mục tiêu định giá:Tiền phải được tính giá đúng đắn theo các nguyên tắc

được quy định trong hạch toán tiền
-

Chính xác số học: Số dư tài khoản tiền mặt phải được tính toán, ghi sổ và

chuyển sổ chính xác
- Quyền và nghĩa vụ: Tiền của doanh nghiệp phải phản ánh đúng là tài sản
của doanh nghiệp
1.2.3.Kiểm soát nội bộ đối với khoản mục tiền
1.2.3.1. Nguyên tắc hạch toán tiền
Do đặc điểm của tiền, để quản lý tốt đối với tiền trên nhiều khía cạnh khác
nhau, kế toán đối với tiền có những đặc điểm đặc biệt. Trước hết điều này được thể
hiện ở các nguyên tắc hạch toán được áp dụng đối với tiền đó là:
Nguyên tắc tiền tệ thống nhất: Tất cả các nghiệp vụ phát sinh đều được ghi
chép theo một đồng tiền thống nhất được quy định là tiền Việt Nam đồng.
Nguyên tắc cập nhật thường xuyên: các nghiệp vụ liên quan tới tiền đều phải
cập nhật, ghi chép thường xuyên. Trong hạch toán tiền, nguyên tắc này được xem
như là một mắt xích quan trọng ngăn chặn khả năng dung tiền của doanh nghiệp sử
dụng sai mục đích, phát hiện sớm các sai phạm đối với tiền.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết



HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Với khả năng sai phạm tiềm tàng đối với khoản mục tiền cao, cùng với
nguyên tắc trong quản lý và hạch toán tiền thì kiểm soát nội bộ đối với tiền chỉ hiệu
quả trong trường hợp kiểm soát nội bộ phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
- Thu đủ: Tất cả các khoản tiền thu được đều phải nộp vào két tiền mặt hoặc
vào tào khoản tiền gửi ngân hàng đúng thời gian quy định.
- Chi đúng: Tất cả các khoản chi tiền đều phải thực hiện đúng với mục đích,
được phê chuẩn và phải được ghi chép đúng đắn.
- Duy trì số dư tiền hợp lý trên cơ sở từng loại tiền để đảm bảo khả năng chi
trả nhưng nhu cầu kinh doanh cũng như là khoản nợ đén hạn thanh toán.
Xuất phát từ yêu cầu đối với kiểm soát nghiệp vụ tiền, các thủ tục kiểm soát
tiền phải được xây dựng tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc phân công phân nhiệm: sự phân công công việc trong các nghiệp
vụ liên quan đối với tiền phải có sự phân tách đáng kể trong mối quan hệ đối với
các chu trình có liên quan đến tiền cụ thể.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: nguyên tắc này yêu cầu phải có sự cách ly một
số chứa năng đặc thù liên quan tới tiền trong doanh nghiệp. Sự cách ly các chức
năng ghi chép,phê chuẩn, và chức năng quản lý trực tiếp đối với tiền là rất quan
trọng. Một sự cách ly các chức năng này không hợp lý đều có thể làm gia tăng khả
năng sai phạm tiềm tàng mà các thủ tục kiểm soát được thiết kế khó có thể phát hiện
ra.
Tuy nhiên một sự cách ly tuyệt đối chưa hẳn đã tốt và cũng không đảm bảo
được 100% là ngăn chặn được sai phạm có thể phát sinh liên quan tới tiền. Trong
một số trường hợp,một số người có thể đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau
nhưng các chức năng ấy phải có một sự độc lập đáng kể, hoặc là sự kiêm nhiệm ấy
được đảm bảo không có khả năng sai phạm tiềm tàng nào.
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn: Nguyên tắc này hướng tới yêu cầu trước

khi các nghiệp vụ tiền được thực hiện vần thiết phải có sự phê chuẩn đúng mức. Sự
ủy quyền và phê chuẩn tốt sẽ tạo ra điều kiện tốt phục vụ cho việc kiểm soát đối với
các nghiệp vụ nói chung và các nghiệp vụ về tiền nói riêng.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Do tính chất trọng yếu của nghiệp vụ thì các nghiệp vụ về tiền luôn phải
được qua tâm một cách đặc biệt. Một sự phê chuẩn thể hiện việc thực hiện kiểm
soát đối với tiền thường để lại dấu vết trực tiếp trên các chứng từ, tài liệu có liên
quan tới thu, chi tiền. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho kiểm toán viên khi làm
việc đối với khoản mục tiền khi kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp ấy.
1.2.3.2. Kiểm soát nội bộ đối với tiền
Kiểm soát nội bộ đối với tiền được thực hiện rất đa dạng trong mỗi loại
doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên ở tất cả các doanh nghiệp thì khi thực hiện thiết
lập hệ thống kiểm soát đối với tiền đều hướng tới những điểm cơ bản sau:
-

Phân tách các chức năng phê chuẩn nghiệp vụ thu, chi tiền với ghi chép

sổ sách về tiền, và chức năng quản lý tiền
-

Tập trung được các đầu mối thu tiền . Đây là cơ sở cho việc kiểm soát

được toàn bộ số thu về của doanh nghiệp
-


Ghi chép kịp thời, đầy đủ các nghiệp vụ thu chi tiền

-

Tăng cường các giao dịch bằng tiền gửi ngân hàng

-

Đối chiếu số liệu giữa bộ phận quản lý tiền với kế toán
Kiểm soát nội bộ đối với tiền được thiết kế riêng đối với từng hoạt động

cụ thể, như sau:
• Kiểm soát nội bộ với hoạt động thu tiền
Trong trường hợp thu tiền từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ thì
việc áp dụng chính sách thu tiền tập trung và phân công cho một nhân viên đảm
nhận rất phổ biến để ngăn ngừa khả năng sai phạm là vô cùng cần thiết. Cùng với
việc bố trí như trên thì một thủ tục kiểm soát với các nghiệp vụ thu tiền chính là
việc đánh số trước với các chứng từ thu tiền như phiếu thu, biên lai nhận tiền,…
cũng được xem là thủ tục kiểm soát có hiệu quả..
Đối với những nghiệp vụ bán lẻ hàng hóa dịch vụ thu tiền có thể áp dụng
hệ thống máy tính tiền tự động để khách hàng có thể nhìn thấy kiểm tra trong quá
trình mua hàng, phiếu tính tiền được in ra cùng với thông tin về hàng hóa sản phẩm
mà khách hàng mua đồng thời khuyến khích khách hàng nhận hóa đơn.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Trong trường hợp thu nợ của khách hàng thì áp dụng thủ tục kiểm soát là

cung cấp các phiếu thu hoặc biên lai thu tiền. Đơn vị phải quản lý chặt chẽ đối với
các giấy tờ giới thiệu trong trường hợp thu tiền tại người mua hoặc đối chiếu công
nợ với khách hàng. Trong trường hợp thanh toán qua ngân hàng hay khách hàng
chuyển tiền thanh toán thì kiểm soát đối với giấy báo có và định kỳ đối với công nợ
là thủ tục hữu hiệu để ngăn chặn khả năng sai phạm trong những nghiệp vụ này
Các mục tiêu và thủ tục thực hiện quá trình KSNB chủ yếu đối với nghiệp
vụ thu tiền
Bảng 1.2. Mục tiêu KSNB đối với nghiệp vụ thu tiền
Mục tiêu KSNB nghiệp vụ
thu tiền

Công việc KSNB chủ yếu nghiệp vụ thu tiền

Các khoản thu tiền đã ghi sổ
thực tế đã nhận

Phân cách nhiệm vụ giữa thủ quỹ và kế toán
tiền mặt.
Đối chiếu độc lập với tài khoản ở ngân hàng.

Phiếu thu tiền được đối
chiếu và kí duyệt
Tiền mặt thu được đã ghi
đầy đủ vào sổ quỹ và các
nhật kí thu tiền
Các khoản thu và ghi sổ
đúng về số tiền
Các khoản tiền thu được
phân loại đúng


Đối chiếu chứng từ gốc và kí duyệt phiếu thu tiền.
Sử dụng giấy báo nhận tiền hoặc bảng kê tiền mặt
đánh số trước kèm quy định cụ thể về chế độ báo cáo
nhận tiền kịp thời.
Trực tiếp xác nhận séc thu tiền.
Theo dõi chi tiết các khoản thu theo đối tượng hoặc
theo loại nghiệp vụ.
Đối chiếu đều đặn với ngân hàng về các khoản thu.
Xem xét các quan hệ đối ứng cụ thể về thu tiền.
Đối chiếu nội bộ việc phân loại, nhất là các định khoản
đặc biệt.

Các khoản thu tiền ghi đúng
thời gian

Quy định về việc cập nhật các khoản thu vào sổ quỹ và
vào sổ.

Các khoản thu tiền ghi đúng
vào sổ quỹ, sổ cái và tổng
hợp đúng

Đối chiếu nội bộ về chuyển sổ, cộng sổ.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

1.2.3.2.Kiểm soát nội bộ với hoạt động chi tiền

Hoạt động chi tiền được phân chia với thu tiền chỉ mang tính chất tương
đối khi xem xét thủ tục kiểm soát đối với nghiệp vụ này. Về cơ bản những thủ tục
kiểm soát đối với chi tiền đem lại hiệu quả trong việc ngăn chặn khả năng sai phạm,
bao gồm:
-

Vận dụng triệt để nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn trong chi tiền. Khi

phê chuẩn thực hiện chi tiền cần dựa trên cơ sở là các văn bản cụ thể về xét duyệt
chi tiêu và kiểm soát chi này phải để lại dấu vết trực tiếp.
-

Sử dụng chứng từ là phiếu chi phải có đánh số trước. Trong quá trình

phát hành, nếu có sai thì phải lưu giữ chứng từ sai làm căn cứ đối chiếu.
-

Hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Thanh toán qua

ngân hàng sẽ giúp ích lớn cho việc ngăn chặn khả năng sai phạm trong thanh toán.
-

Thực hiện đối chiếu định kì với ngân hàng với nhà cung cấp. Đây là thủ

tục kiểm soát tốt nhất để phát hiện ra các chênh lệch giữa những ghi chép của bản
than doanh nghiệp với những ghi chép độc lập của bên kia.
Các mục tiêu và thủ tục thực hiện quá trình KSNB chủ yếu nghiệp vụ
chi tiền
Bảng 1.3. Mục tiêu KSNB đối với nghiệp vụ chi tiền
Mục tiêu KSNB nghiệp

vụ chi tiền
Các khoản chi tiền có căn
cứ hợp lý
Các khoản tiền chi được
ghi sổ và phê chuẩn đúng
đắn

Công việc KSNB chủ yếu nghiệp vụ chi tiền
Tách biệt trách nhiệm giữa người ghi sổ và người kí
phiếu chi.
Kiểm tra các chứng từ gốc trước khi lập phiếu chi.
Phê chuẩn các khoản chi trên chứng từ vào thời điểm
lập phiếu chi và các chứng từ liên quan.
Phiếu chi và các chứng từ thanh toán (séc, uỷ nhiệm

Các nghiệp vụ chi tiền
đều được ghi sổ

chi) được đánh số trước và theo dõi.
Hàng tháng lập bảng đối chiếu các khoản chi với ngân
hàng.

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


HD: TS. Bùi Thị Minh Hải

Mục tiêu KSNB nghiệp
vụ chi tiền
Các nghiệp vụ chi tiền

được đánh giá đúng
Các nghiệp vụ chi tiền
được phân loại đúng
Các nghiệp vụ chi tiền
được vào sổ đúng lúc

Công việc KSNB chủ yếu nghiệp vụ chi tiền
Kiểm tra nội bộ các quá trình tính toán các số tiền.
Đối chiếu hàng tháng với ngân hàng.
Có sơ đồ tài khoản đầy đủ.
Kiểm tra nội bộ quá trình phân loại.
Thủ tục quy định ghi sổ ngay sau khi phiếu
chi và các chứng từ liên quan được thực hiện .
Kiểm tra nội bộ

Các nghiệp vụ chi tiền
được hạch toán đúng đắn
vào các sổ hạch toán chi

Kiểm tra nội bộ.

tiết tương ứng, tổng hợp
đúng
1.2.4. Áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng vào kiểm toán khoản mục
tiền trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Các kỹ thuật mà Công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam thường áp dụng
trong kiểm toán khoản mục tiền: kiểm kê, gửi thư xác nhận, xác minh tài liệu, quan
sát, phỏng vấn, tính toán lại và phân tích.
1.2.4.1. Kiểm kê
KTV tiến hành chứng kiếm việc kiểm kê quỹ tiền mặt tại chỗ từ đó đối chiếu

giữa kết quả kiểm kê quỹ tiền mặt với số dư tài khoản sổ cái tại thời điểm kiểm kê
và phát hiện ra các chênh lệch

Sinh viên: Lê Thị Thuyết


×