Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Mối quan hệ giữa các đồng tiền chủ chốt giai đoạn 2015 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 82 trang )

Từ lâu USD, EUR, JPY, GBP được thế giới công nhận là những đồng tiền mạnh và
được sử dụng trong hầu hết các giao dịch thương mại, đầu tư quốc tế và chiếm một tỷ
trọng lớn trong giỏ dự trữ ngoại tệ của các quốc gia. Cũng chính vì vậy mà biến động tỷ
giá giữa các đồng tiền này sẽ ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ thế giới và đến mọi đối
tượng có hoạt động liên quan đến chúng. Các doanh nghiệp thương mại xuất nhập khẩu
quan tâm biến động giữa các đồng tiền này để lựa chọn đồng tiền thanh toán; các nhà kinh
doanh ngoại hối theo dõi biến động tỷ giá để lựa chiến lược đầu tư, về phía chính phủ sẽ
là cơ cấu lại giỏ dự trữ ngoại hối theo sự thay đổi sức mạnh các đồng tiền này. Mặt khác,
diễn biến tỷ giá giữa các đồng tiền chủ chốt bộc lộ những vấn đề của nền từng quốc gia và
thể hiện sự thay đổi tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nền kinh tế hàng đầu thế giới.
Đặc biệt cuộc khủng tài chính thế giới bắt đầu từ Mỹ cuối năm 2007 đã làm tăng thêm
tính biến động tỷ giá giữa bốn đồng tiền này. Vậy, đâu là nguyên nhân của diễn biến này,
xu hướng biến động ra sao và nó có ảnh hưởng gì đến Việt Nam trong thời gian tới?
Nhằm làm rõ những vấn đề trên, nhóm I lớp Anh 5- TCQTb-K46 đã thực hiện
nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa các đồng tiền chủ chốt giai đoạn 2015 đến nay”.
Bài nghiên cứu gồm 4 phần:
Phần I: Giới thiệu về các đồng tiền chủ chốt trên thế giới
Phần II: Tỷ giá JPY/USD
Phần III: Tỷ giá GBP/USD
Phần IV: Tỷ giá EUR/USD
Nhóm xin chân thành cảm ơn T.S Mai Thu Hiền đã giúp đỡ chúng em hoàn thành
bài tiểu luận và rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài nghiên cứu thêm hoàn thiện.
Nhóm 1- A5-TCQTB-K46

BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
1


Kí hiệu
∆E
∏e


£
BOA
BOE
CNY
CPI
E
ECB
EMU
EU
EUR
FDI
FED
GBP
GDP
IMF
IRP
JPY
LIBOR
MA
MACD
MBS
MFI
NER
NHTW
ODA
ONS
PPI
PPP
R
RFI

SDR
TB
USD
Y
П

Ý nghĩa
Sự thay đổi tỷ giá
Lạm phát kỳ vọng
Đồng Bảng Anh
Ngân hàng trung ương Mỹ
Ngân hàng trung ương Anh
Đồng yên Trung Quốc
Chỉ số giá cả tiêu dùng
Tỷ giá
Ngân hàng trung ương châu Âu
Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu
Liên minh châu Âu
Đồng tiền chung châu Âu
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cục dữ dữ liên bang Mỹ
Đồng bảng Anh
Tổng sản phẩm quốc nội
Quỹ tiền tệ quốc tế
Học thuyết ngang giá lãi suất
Đồng Yên Nhật
Lãi suất liên ngân hàng Anh
Đường trung bình giản đơn
Đường trung bình hội tụ phân kỳ
Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp

Chỉ báo dòng tiền
Tỷ giá danh nghĩa
Ngân hàng trung ương
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
Cục thống kê quốc gia của Anh
Chỉ số giá cả sản xuất
Học thuyết ngang giá sức mua
Lãi suất
Chỉ báo sức mạnh mua tương đối
Quyền rút vốn đặc biệt
Cán cân thương mại
Đồng dolar Mỹ
Tổng sản phẩm công nghiệp
Lạm phát

DANH MỤC BẢNG BIỂU
2


Phần I. GIỚI THIỆU VỀ CÁC ĐỒNG TIỀN CHỦ CHỐT TRÊN THẾ GIỚI
Các đồng tiền được coi là chủ chốt là do chúng chiếm tỷ trọng lớn trong các giao
dịch quốc tế và sự biến động của chúng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường
tiền tệ thế giới. Hiện nay các đồng tiền chủ chốt trên thế giới được công nhận bao gồm
USD, EUR, JPY, GBP. Bằng chứng là, năm 1996 tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị
trường quốc tế, phần đầu tư bằng USD chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng
Yên Nhật chiếm 12%. Theo các tài liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế, phần vay bằng
Đôla Mỹ của các ngân hàng trên thị trường quốc tế chiếm 30% và bằng Yên Nhật 13%,
còn phần tiền gửi bằng ngoại tệ tương ứng là 43%, 34% và 8%. Tính đến thời điểm năm
2008, gần 50% giá trị xuất nhập khẩu của thế giới thanh toán qua đồng USD và USD
chiếm 40% khối lượng buôn bán ngoại tệ, các đồng tiền Châu Âu chiếm 35% và đồng

Yên Nhật là 10%1. SDR được định nghĩa theo các điều kiện của một rổ tiền tệ, bao gồm
các loại tiền tệ chính được sử dụng trong thương mại và tài chính quốc tế. Tỷ lệ mỗi loại
tiền tệ tạo ra một SDR được chọn theo tầm quan trọng tương đối của nó trong thương mại
và tài chính quốc tế. Việc xác định loại tiền tệ trong rổ SDR và tỷ lệ của nó do Ban lãnh
đạo của IMF thực hiện sau mỗi 5 năm.
Bảng 1: Tỷ lệ của các loại tiền tệ trong giai đoạn từ 2000 tới 20102

2001–2005
1
2

USD

EUR

JPY

GBP

45%

29%

15%

11%

GS, TS Võ Thanh Thu, Giáo trình Quan hệ tài chính quốc tế, NXB Thống Kê 2008, trang 385
IMF


3


2006–2010

44%

34%

11%

11%

1. Đồng đô la Mỹ (USD)
Từ đô la không có ý nghĩa nào trong bất cứ ngôn ngữ la tinh nào, lúc đầu nó xuất
hiện ở Châu Âu, sau đó 06/1775 Đại hội quốc dân Mỹ quyết định lấy đồng Đôla bằng kim
loại hỗn hợp giữa bạc và vàng và cho đến thời kỳ nội chiến 1861-1865 đồng tiền đô la
giấy mới xuất hiện. Nhưng những đồng Đôla này được đảm bảo bằng vàng và tự do
chuyển đổi thành vàng 35USD/ 1 ounce. Đồng Đôla Mỹ trong lịch sử phát triển của mình
đều tăng giá, mãi đến 1934 lần đầu tiên nó bị mất giá và liên tục trong 60 năm qua đồng
đô la Mỹ bị mất giá đến 10 lần (1 đô la Mỹ năm 1993 chỉ bằng 10 xu Mỹ năm 1933).
Năm 1971 chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ chế độ đổi đô la lấy vàng và tỷ giá cố định của
đồng đô la bị bãi bỏ.
Những năm cuối thế kỷ 20 dưới thời tổng thống Mỹ Bill Clinton nền kinh tế Mỹ
mạnh hơn, đồng đô la Mỹ lên giá so với các loại tiền tệ khác. Nhưng sang đầu thế kỷ 21,
dưới thời tổng thống Bush, đặc biệt sau cuộc khủng bố tấn công vào nước Mỹ 11/9/2001,
thị trường tài chính Mỹ lâm vào khó khăn kinh tế tài chính. Sau gần 8 năm mở cuộc chiến
tranh tại Iraq, Mỹ đã bỏ gần 3000 tỷ USD cho cuộc chiến, thêm vào đó do chính sách cho
vay tiền để xây nhà và đầu cơ vào bất động sản dễ dãi trong 5 năm (2003-2008), đồng đô
la Mỹ bị mất giá bình quân 25% so với các đồng ngoại tệ mạnh cơ bản khác. Ngoài ra,

chính phủ Hoa Kỳ cố ý chủ trương duy trì đồng đô la yếu nhằm kích thích xuất khẩu,
giảm nhập siêu, thu hút khách du lịch đến Mỹ,... cũng là những nhân tố quan trọng làm
mất giá USD.
Biểu đồ 1: % thay đổi giá trị của GBP, EUR, JPY so với USD giai đoạn 2000 - 2010

4


(Nguồn : www.oanda.com)
Đồng Đôla Mỹ yếu thúc đẩy xu hướng đa dạng hóa sử dụng các đồng tiền ngoại tệ
mạnh khác và vàng làm dự trữ tiền tệ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, đồng USD yếu sẽ ảnh
hưởng rất nghiêm trọng đến khả năng phục hồi của nền kinh tế thế giới, ảnh hưởng không
chỉ

đến

các

nước

phát

triển



cả

các


nước

đang

phát

triển.

Đặc biệt nếu USD yếu, khả năng phục hồi kinh tế của châu Âu sẽ gặp rất nhiều
khó khăn. Vì vậy, ngân hàng trung ương các nước đều thống nhất là tìm cách phục hồi
dần giá trị của USD.
2. Đông Yên Nhật (JPY)
Đồng Yên được ngân hàng Nhật Bản phát hành năm 1895 có thể đổi lấy bạc trong
giai đoạn 1897-1917, có thể đổi lấy vàng trong giai đoạn 1929- 1933. Ngày nay đồng Yên
Nhật không thể trực tiếp quy đổi ra vàng nhưng đồng Yên ngày càng lên giá (lên giá gần
4 lần so với cách đây 20 năm). Cùng với sự phát triển của kinh tế Nhật, vị trí đồng Yên
ngày càng có vai trò lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới, đặc biệt các nước trong khu vực
Châu Á Thái Bình Dương.
Năm 1997-1998 nên kinh tế Nhật Bản bị suy thoái nặng nề, chỉ riêng 6 tháng đầu
năm 1998 đồng Yên Nhật bị mất giá 15% so với đồng đô la Mỹ. Sự mất giá của đồng Yên
Nhật đe dọa kinh tế đối ngoại của nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Ba năm gần đây 2006-2008, kinh tế Nhật Bản đã bước ra khỏi trì trệ kéo dài và
tăng trưởng ở mức 2-3% và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai sau Hoa Kỳ. Đồng Yên Nhật
5


lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ đã tác động nhất định đến hoạt động xuất nhập khẩu
của Nhật Bản.
3. Đồng Bảng Anh (GBP)
Cuối thế kỷ thứ 19 đầu thế kỷ 20 cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Anh,

đồng Bảng Anh là đồng tiền mạnh được đảm bảo bằng vàng và được tự do chuyển đổi.
Nhưng ngày nay sau nhiều năm liên tục nền kinh tế Anh bị suy thoái thì uy tín và vai trò
của đồng Bảng Anh trên thị trường tiền tệ thế giới bị giảm sút, đặc biệt từ khi đồng Bảng
Anh rút ra khỏi hệ thống tiền tệ Châu Âu (EMS). Từ năm 2000 đến 2008 đồng Bảng Anh
lên giá mạnh so với đồng đô la Mỹ , thời điểm cao nhất vào tháng 11/2007 tỷ giá
USD/GBP là 2.0907, và đến nay GBP mất giá so với USD.
4. Đồng Euro (EUR)
Thập niên 70 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, hệ thống bản vị lấy
vàng làm gốc bảo đảm giá trị tiền tệ bị xóa bỏ, 2 nước Đức và Pháp đề xuất thành lập ‘hệ
thống tiền tệ Châu Âu ‘ lập ra tiền tệ thanh toán chung của 9 nước thành viên EEC lúc
bấy giờ gọi là đồng ECU ( European Currency Unit). Đồng Ecu được hình thành năm
1979 từ nhiều đồng tiền tệ của các nước hội viên theo phương pháp rổ tiền tệ. Chức năng
nhiệm vụ của đồng Ecu lúc bấy giờ tương tự như đồng SDR, nó chỉ là một chỉ số cho biết
tỷ giá chuyển đổi giữa các đồng tiền của các quốc gia thuộc EMU (liên minh tiền tệ kinh
tế).

Năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh Madrid quyết định cho ra đời đồng Euro thay

thế đồng Ecu. Tháng 5/1998, tại Bruxell, Hội đồng Châu Âu đã công bố sự ra đời liên
minh kinh tế và tiền tệ Châu Âu (EMU) gồm 11 nước thành viên , thành lập Ngân hàng
trung ương Châu Âu chính thức chịu trách nhiệm vận hành một chính sách tiền tệ chung
của Liên minh từ ngày 1/1/2009. Từ ngày 1/1/1999, đồng Euro chính thức đi vào lưu hành
với đầy đủ tư cách của 1 đồng thực, chung và duy nhất cho 11 quốc gia thuộc EMU. Từ
tháng 1/2000, Hy Lạp là thành viên thứ 12 gia nhập EMU. Tuy nhiên các giao dịch bằng
đồng Euro chỉ giới hạn trong các giao dịch ngân hàng không dùng tiền mặt đối với tất cả
các nước thành viên.
Giai đoạn từ 1/1/1999 đến 1/1/2000 là giai đoạn chuyển đổi của đồng Euro trong
lưu thông không dùng tiền mặt, được tiến hành thông qua tỷ giá chuyển đổi song phương
cố định vĩnh viễn từ các đồng bản tệ thuộc 12 nước thành viên sang Euro. Từ ngày
6



1/1/2002, đồng Euro được chính thức đưa vào lưu thông. Khoảng 60 tỷ đồng tiền giấy và
37 tỷ tiền xu đã được phát hành trên khắp 12 nước thuộc khu vực EMU. Công cuộc đổi
tiền đã được diễn ra liên tục trong 6 tháng và kết thúc vào 30/6/2002. Trong vòng 6 tháng,
tại 12 nước thuộc khu vực đồng tiền trong lưu thông tiền tệ : đồng bản tệ và đồng Euro.
Tuy nhiên các đồng bản tệ chỉ được coi là một biểu hiện khác của đồng Euro. Kể từ ngày
1/7/2002, các đồng bản tệ của 12 nước thành viên đã kết thúc lịch sử tồn tại của mình, rút
khỏi lưu thông và chính thức nhường chỗ hoàn toàn duy nhất cho đồng Euro lưu hành hợp
pháp. Đến nay đồng Euro đã chính thức tồn tại ở 16 quốc gia và sử dụng không chính
thức tại 3 quốc gia.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, dự trữ ngoại tệ của thế giới
ở đồng Euro liên tục gia tăng : năm 2001 là 13%, năm 2002 là 16,4%, năm 2003 là
18,7%, tháng 9/2007 là 26,4%3. Sự ra đời của đồng Euro làm thay đổi cục diện của các
đồng tiền mạnh trên thế giới, làm cho hoạt động tài chính và thương mại thế giới ít lệ
thuộc hơn vào đồng đô la Mỹ.

Phần II: TỶ GIÁ JPY/USD
2.1. Diễn biến tỷ giá JPY/USD giai đoạn 2005 đến nay và những nguyên nhân
Biểu đồ 2. 1: Tỷ giá JPY/USD từ năm 2005 đến nay

3

GS, TS Võ Thanh Thu, Giáo trình Quan hệ tài chính quốc tế, NXB Thống Kê 2008, trang 385

7


Căn cứ vào biểu đồ trên có thể phân diễn biến tỷ giá thành các giai đoạn như sau:
Năm 2005 - 6/2007: tỷ giá có xu hướng chính là tăng

Từ tháng 7/2007 - 3/2008: xu hướng chính là tỷ giá giảm mạnh
Tháng 7 – 8/2007: tỷ giá giảm mạnh
Tháng 9 – 10/2007: tỷ giá tăng nhẹ
Tháng 10/2007 - 3/2008: tỷ giá giảm mạnh
Tháng 4/2008 đến nay: tỷ giá giao động nhưng chủ đạo vẫn giảm dần
+ Tháng 3 đến tháng 8/2008: tỷ giá tăng mạnh
+ Tháng 9 đến tháng 12/2008: tỷ giá giảm mạnh
+ Năm 2009 – 2010: tỷ giá lên vào đầu năm và giảm dần đến cuối năm
• Giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 6/2007
Từ cuối năm 2004, đồng Đôla trở nên yếu hơn so với tất cả các ngoại tệ khác trong
rổ tiền tệ chính, trong đó có đồng Yên Nhật. Sang năm 2005, cùng với sự mạnh lên tương
đối của nền kinh tế Mỹ và chênh lệch lãi suất ngắn hạn với đồng EUR và JPY, đồng USD
đã tăng giá trở lại. Đầu tháng 1/2005, tỷ giá JPY/USD đạt mức thấp nhất là 101,67 nhưng
8


ngay sau đó đồng Yên lại giảm giá so với đồng Đôla. Tỷ giá JPY/USD liên tục tăng.
Ngày 21/7, đồng Nhân dân tệ CNY được định giá lại so với đồng USD. Từ năm 1997 đến
ngày 21/7/2005, đồng CNY luôn được neo cố định với USD tại mức tỷ giá 8,28
CNY/USD. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), CNY đã bị
giảm đi đến 40% giá trị thực tế của nó, điều này đã tạo môi trường kinh doanh không
công bằng, thiếu tính cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Mỹ. Trung Quốc trở thành
“miếng nam châm” hút một lượng lớn ngoại tệ trên thế giới. Trước tình hình này, Mỹ và
các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để buộc đồng nhân dân tệ
phải tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá xuống còn 8,11
CNY/USD. Trong khi đó, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Nhật trên thị
trường thế giới. Khi Trung Quốc định giá lại hoặc thả nổi giá trị của đồng Nhân dân tệ
(tức là cho phép đồng tiền này cao hơn và gần với giá trị thực tế hơn) xúât nhập khẩu của
Nhật sẽ cạnh tranh được tốt hơn trên thị trường Mỹ và đồng tiền Nhật sẽ tăng giá. Trung
Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản hiện nay, chiếm 20.1% tổng thương

mại của Nhật năm 2004 đạt 206.56 tỷ USD và là nước xuất khẩu lớn nhất vào thị trường
Nhật Bản. Những đại công ty của Nhật Bản cũng bành trướng rất nhanh vào thị trường
Trung Quốc. Năm 2004, Nhật Bản đã đầu tư 66,6 tỷ USD vào Trung Quốc; 50% tổng
xuất khẩu của Nhật Bản là cho thị trường Trung Quốc. Do vậy, việc điều chỉnh tỷ giá
CNY/USD làm tỷ giá JPY/USD cũng giảm tạm thời. Tuy nhiên ngay sau đó đã tăng trở
lại. Đến tháng 12, tỷ giá JPY/USD đạt mức cao nhất kể từ tháng 3/2003, ở mức 121,40,
và giảm đến 16% so với mức 101,67 hồi đầu tháng 1.
Đặc biệt, khi FED tăng lãi suất cơ bản lên 5% vào ngày 10/5/2006, thị trường đã có
những phản ứng trái chiều so với trước đây: USD mất giá, JPY cũng như các ngoại tệ
khác đều lên giá. Trong khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản thì Ngân hàng trung ương
Nhật Bản vẫn duy trì mức lãi suất thấp (0%). Trên lý thuyết, khi chênh lệch lãi suất giữa
Mỹ và Nhật càng gia tăng thì tỷ giá JPY/USD cũng tăng theo. Các nhà đầu tư sẽ vay ở thị
trường Nhật với lãi suất thấp để đầu tư vào Mỹ nhằm hưởng mức lợi suất cao hơn. Điều
này tạo nên trạng thái “carry trade” trên thị trường. Tuy nhiên vào thời điểm này, thay vì
tăng giá, đồng USD lại giảm giá do tác động của dự báo là chu kỳ tăng lãi suất cơ bản của
FED đã kéo dài 20 tháng (từ năm 2005) sắp kết thúc. Thêm vào đó, thâm hụt tài khoản
vãng lai của Mỹ đã ở mức kỷ lục là 224,9 tỷ USD vào Quý IV năm 2005. Trường hợp sự
thâm hụt này tiếp tục tăng lên cũng đồng nghĩa với việc đồng USD cần phải được chuyển
9


đổi nhiều hơn sang các đồng tiền khác để chi trả cho hàng nhập khẩu. Trong khi đó, báo
cáo của Cục Thương mại bán lẻ Mỹ cho thấy doanh số bản lẻ tháng 4 tăng trưởng thấp
hơn so với tháng 3 (0,5% so với 0,6%), và thấp hơn nhiều so với kỳ vọng của thị trường.
Doanh số bán lẻ chiếm gần một nửa tổng chi tiêu dùng tại Mỹ, trong đó, chi tiêu dùng
chiếm tới 2/3 nền kinh tế. Do đó, doanh số bán lẻ tăng thấp cũng đồng nghĩa với việc kinh
tế Mỹ cần một chính sách tiền tệ nới lỏng hơn để thúc đẩy tăng trưởng..Tính đến ngày
10/5, giá USD đã giảm 7,67% so với đồng euro, 9,12% so với đồng bảng Anh và 5,45%
so với đồng yên.
Biểu đồ 2. 2: Mối quan hệ giữa tỷ giá JPY/USD và chênh lệch lãi suất giữa 2 quốc gia


(Nguồn: Reuters Ecowin)
Từ đầu năm 2007, đồng đồng Yên Nhật liên tục giảm giá so với USD với những
đợt giảm vào tháng 2 và tháng 6. Tháng 6/2007, tỷ giá JPY/USD là 124.14, cao nhất trong
vòng 5 năm liên tiếp. JPY tiếp tục đà giảm giá trên thị trường do chịu áp lực bởi sắc xanh
của thị trường chứng khoán thế giới và sự gia tăng nhu cầu vay vốn ở các ngân hàng Nhật
để đầu tư vào những tài sản có tỷ suất sinh lợi cao (do chi phí vay vốn giảm). Vốn mang
danh là đồng tiền “carry trade” (được vay do có lãi suất thấp để đầu tư vào các tài sản có
tỷ suất sinh lợi cao hơn) nên khi các nhà đầu cơ dự đoán chính xác Ngân hàng Trung
ương Nhật Bản có ý định giữ nguyên lãi suất cơ bản đồng JPY (0,25%/năm), làn sóng vay
10


đồng JPY trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, từ đó gây ra áp lực khiến đồng tiền này giảm
giá liên tục trên thị trường.
• Giai đoạn từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2008
Trong 2 tháng 7 và 8 năm 2007, đồng Yên Nhật liên tục tăng với tốc độ nhanh so
với USD, cụ thể 2/7/2007 tỷ giá JPY/USD đạt: 123.3959 đến ngày 13/8/2007 tỷ giá rơi
xuống mức kỉ lục là 113.9991. Đây là mức giá cao nhất của đồng Yên so với USD kể từ
tháng 4/2007, tuy nhiên so với cùng kì năm 2006 Yên hiện vẫn đang giảm giá.
Nguyên nhân chính tác động đến tỷ giá JPY/USD trong thời gian này là do khủng
hoàng của nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư vào đồng Yên Nhật.
Cụ thể: Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, kinh tế Mỹ đang phục hồi kém khả
quan, chỉ tăng 2%, thấp hơn so với 2.8% dự đoán đầu năm 2007 và so với tốc độ tăng
3.3% năm 2006. Hơn nữa, nợ khó đòi của nhiều ngân hàng Mỹ trong việc cho vay cầm cố
để kinh doanh bất động sản đang có dấu hiệu tăng, thị trường bất động sản Mỹ ở mức trì
trệ. Theo Hiệp hội kinh doanh bất động sản Mỹ, lượng nhà mới bán ra ở Mỹ tháng 7 giảm
so với tháng trước và ở mức thấp hơn so với mức dự đoán của thị trường. Thị trường nhà
ở đã kéo theo thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng nghiêm trọng, biểu hiện bởi sự sụt
giảm của hàng loạt chỉ số chứng khoán chính của Mỹ. Tình trạng khủng hoảng này dẫn

tới nguy cơ suy thoái khả năng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài của các thị trường tín
dụng của Mỹ, vốn là yếu tố quan trọng giúp nước này bù đắp cho tình trạng thâm hụt cán
cân thương mại của mình. Lo ngại trước tác động của tình trạng khủng hoảng thị trường
cầm cố thế chấp của Mỹ lan rộng hơn, nhiều công ty Nhật, nhiều nhà đầu tư tăng cường
chuyển vốn từ USD sang JPY. Thêm vào đó, sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán
châu Á đã thúc đẩy các nhà đầu tư cắt giảm việc tận dụng vay đồng Yên với lãi suất thấp,
tăng cường bán ra đồng Đôla Mỹ và các đồng tiền có lợi tức cao hơn đồng Yên Nhật.
Diễn biến này cũng hỗ trợ cho sự tăng giá của đồng JPY.
Hai tháng sau đó 9/2007 và 10/2007 tỷ giá JPY/USD chuyển hướng tăng nhẹ từ
113.3401 lên 116.918, khiến đồng Yên Nhật giảm giá trở lại so với USD.
Nguyên nhân chính được cho rằng sau sự can thiệp của FED và ECB giúp thị
trường chứng khoán Mỹ phục hồi phần nào và làm lắng dịu các lo ngại về thị trường tài
chính toàn cầu. Các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư trở lại vào đồng đôla Mỹ.
11


Biểu đồ 2. 3: tăng trưởng GDP của Mỹ và Nhật Bản từ tháng 7/2007 đến tháng 3/2008

(Nguồn: www.tradingeconomics.com)
Sau khi tỷ giá JPY/USD tăng đến đỉnh điểm vào tháng 10/2007 thì tỷ giá những
tháng sau đó bắt đầu tụt giảm mạnh trong những tháng cuối năm 2007 đến tận tháng 3
năm 2008. Cụ thể như sau: tháng 11/2007 tỷ giá đạt 108.1783, sau đó tiếp tục giảm còn
106.9977 vào tháng 1/2008, đến tháng 3/2008 tỷ giá đã rơi xuống mức thấp đáng kể chỉ ở
mức 99.2064. Sở dĩ đồng Yên Nhật tăng giá trở lại và đạt ở mức cao nhất so với năm
2007 do sự can thiệp của ECB và FED đến nền kinh tế Mỹ vẫn bị hạn chế bởi các yếu tố
khác nên chưa thể đem lại sự phục hồi hoàn toàn cho kinh tế Mỹ. Cụ thể, lãi suất USD lúc
12


này đang ở mức quá cao và khó có thể điều chỉnh tăng thêm nhiều nữa để giúp đồng USD

tăng giá trở lại . Trong khi đó, chính phủ Mỹ lại khó có thể tăng cao lãi suất trái phiếu dài
hạn, vì như vậy sẽ gây ra rủi ro lớn cho thị trường bất động sản. Thứ hai, đồng USD sẽ
tiếp tục bị mất giá do cán cân thương mại Mỹ ngày càng bị thâm hụt nặng nề và chưa có
tín hiệu phục hồi. Thứ ba, các ngân hàng trung ương châu Á giảm mua vào lượng USD để
dự trữ. Trên thực tế các ngân hàng này đã chuyển sang mua EUR thay thế, nhằm đa dạng
hóa nguồn dự trữ ngoại tệ của mình. Với các nguyên nhân trên, nhu cầu đồng USD trên
thị trường tài chính quốc tế tiếp tục giảm sút mạnh trong dài hạn, đồng thời giá trị của
đồng USD so với các đồng tiền mạnh khác cũng giảm theo. Vì vậy, sự tăng trưởng đầu tư
trở lại vào đồng Yên Nhật của các công ty tài chính và nhà đầu tư trên thế giới là tất yếu.
• Giai đoạn nửa sau năm 2008 đến nay
Sau một giai đoạn tỷ giá USD/JPY liên tục trượt dốc, chạm mức thấp nhất trong
hơn một thập kỷ 99.21 JPY/USD, tỷ giá giữa Yên Nhật và Đô la Mỹ trải qua một giai
đoạn tăng từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 8 năm 2008.
Bảng 2. 1: Một số chỉ tiêu kinh tế của Mỹ công bố trong quý 2 năm 2008
Chỉ tiêu kinh tế

Thực tế

Dự báo

Kỳ trước

Tỷ lệ thất nghiệp

4.8%

5.0%

4.9%


-58.2

-59.5

-57.9

PPI

1.1%

0.6%

0.3%

GDP

0.9%

0.9%

0.6%

Cán cân thương mại (tỷ
USD)

(Nguồn: cmsfx.com)
Xem xét một số chỉ tiêu kinh tế được công bố trong khoảng thời gian tỷ giá
JPY/USD tăng có thể thấy sự lạc quan vào nền kinh tế Mỹ là một yếu tố góp phần làm
đồng Đô la lên giá. Ngoài ra trong thời kỳ này, nền kinh tế các nước khác bắt đầu xấu đi
trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các nước châu Âu gặp phải khó

khăn như lạm phát, giá dầu cao, sản xuất công nghiệp giảm, thị trường nhà đất châu Âu
cũng đáng báo động, tình trạng thất nghiệp gia tăng… Điều này khiến cho đồng Đô la trở

13


nên hấp dẫn hơn, có uy tín cao hơn đối với các nhà đầu tư, dẫn đến cầu về USD tăng làm
tỷ giá tăng. Ngày 15/08/2008, tỷ giá JPY/USD đạt mức 110.56.
Cùng với đó, giá dầu và vàng trong giai đoạn này có xu hướng giảm. Diễn biến
xấu của thị trường tài chính Mỹ ngày càng gia tăng trong quý III/2008, đồng thời sự suy
giảm kinh tế ngày càng lan rộng tại nhiều nước, hiện tượng tích trữ dầu nhằm mục đích
đầu cơ diễn ra rộng rãi trong khoảng thời gian trước giờ đã phản tác dụng, đẩy giá dầu tụt
dốc. Đối với vàng, cầu cũng giảm do tăng trưởng các nước chậm dần lại, đơn cử như nhu
cầu từ Ấn Độ, một trong những quốc gia có nhu cầu lớn về vàng không còn được như
trước.
Biểu đồ 2. 4: Giá vàng và dầu qua các năm

(Nguồn: theoildrum.com)
Nhìn chung giai đoạn tăng của tỷ giá USD/JPY là theo xu hướng chung xuất phát
từ cầu về Đô la tăng.
Tuy nhiên trong quý cuối năm 2008, áp lực lạm phát đối với các nền kinh tế đã
suy giảm, chính sách nới lỏng tiền tệ để đối phó với suy thoái kinh tế là xu hướng chủ đạo
14


tại hầu hết các nước trên thế giới. Ngày 29/10/2008, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) ra
quyết định giảm lãi suất cho vay USD xuống còn 1%. Điều này làm USD trở nên hấp dẫn
hơn với các nhà đầu tư so với các đồng tiền trừ đồng Yên Nhật.
Biểu đồ 2. 5: Lãi suất của Mỹ và Nhật Bản nửa cuối năm 2008


(Nguồn: )
Ngày 1/11/2008, Nhật Bản hạ lãi suất đồng Yên xuống 0.3%, vẫn giữ nguyên vị trí
nước phát triển có lãi suất thấp nhất thế giới. Như vậy, so với USD, JPY vẫn có mức hấp
dẫn hơn trong việc đầu tư tư nhân. Lãi suất USD tiếp tục giảm trong suốt giai đoạn cuối
năm 2008. Đến ngày 16/12/2008, lãi suất được FED công bố là 0 – 0.25%, tiếp đó trong
tháng 12/2008, Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng công bố lãi suất với đồng Yên Nhật
là 0.2%. Có thể thấy Nhật Bản luôn duy trì mức lãi suất thấp hơn Mỹ, và trong giai đoạn
này, mức lãi suất thấp này làm tỷ giá JPY/USD giảm nhanh. Tháng 12/2008, tỷ giá xuống
mức thấp nhất 89.45.
15


Có thể thấy trong giai đoạn còn lại - 2009 và nửa đầu 2010, xu hướng chung là tỷ
giá đi xuống. Diễn biến tỷ giá trong thời điểm năm 2009 và nửa đầu năm 2010 có nhiều
điểm tương đồng:
Bảng 2. 2: Một số chỉ tiêu kinh tế theo quý của Mỹ và Nhật Bản năm 2009 và nửa đầu
2010
Quý
Chỉ tiêu

QI/200

QII/200

QIII/20

QIV/20 QI/201

QII/201


9

9

09

09

0

0

-0.7

1.6

5

3.7

1.6

8.6

9.5

9.8

10.0


9.7

9.5

-0.4

-1.4

-1.3

2.7

2.3

1.1

-28

-27.1

-35.2

-37.1

-40

-49.8

2.34


-0.09

0.85

1.22

0.37

4.8

5.3

5.3

5.2

5

5.3

-0.3

-1.8

-2.2

-1.7

-1.1


-0.7

-5.4

487

517.6

542.5

949.9

686.4

Mỹ
Tỷ lệ tăng GDP (%) -4.9
Tỷ lệ thất nghiệp
(%)
Lạm phát (%)
Cán

cân

thương

mại (tỷ USD)
Nhật Bản

Tỷ lệ tăng GDP (%) -4.37
Tỷ lệ thất nghiệp

(%)
Lạm phát (%)
Cán

cân

mại (tỷ JPY)

thương

(Nguồn: tổng hợp từ và )
Nhìn vào bảng, có thể thấy trong quý đầu của năm 2009 và 2010, nền kinh tế Mỹ
có những tín hiệu tốt. Đối với năm 2009, việc ông Barack Obama nhậm chức tổng thống
Mỹ vào giữa tháng 1, lập tức thông qua các gói kích cầu và giải pháp cho kinh tế Mỹ đã
có tác động nhất định tới kết quả kinh tế và khiến đồng USD lên giá trong bối cảnh kinh
tế Châu Âu đang khó khăn, khiến cho tỷ giá JPY/USD tăng. Còn đối với năm 2010, thông
tin hỗ trợ cho đà tăng của đồng USD là trong quý 4/2009, tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
của nước này đã tăng 5.0% và trở thành quý tăng trưởng mạnh nhất trong vòng 6 năm
16


qua, vượt mức dự báo 4.7% được đưa ra trước đó. Thêm vào đó, thông tin về chỉ số PMI
Chicago và niềm tin tiêu dùng cũng là tác nhân cổ vũ cho sự tăng giá của đồng USD.
Chicago Purchasing Manager từ mức 58.7 trong tháng 12 đã tăng lên 61.5 điểm trong
tháng 1 còn niềm tin tiêu dùng cũng tăng 2 điểm từ mức 72.8 lên 74.4 trong kỳ báo cáo.
Trên thị trường chứng khoán, sự thất vọng đối với cổ phiếu khối công nghệ, năng lượng
và nguyên liệu cũng khiến thị trường rời bỏ xu hướng kinh doanh rủi ro để trở về với
USD. Trong khi đó, kinh tế Nhật Bản tuy có những bước cải thiện nhất định nhưng chưa
ấn tượng do hiện tượng giảm phát vẫn còn trong thời gian này và tăng trưởng GDP chưa
cao.

Tuy nhiên, đà tăng này không kéo dài do các yếu tố khiến tỷ giá tăng chỉ trong
ngắn hạn. Xu hướng giảm được quyết định bởi việc đồng Yên tiếp tục tăng giá. Hiện nay
JPY đã lên mức cao nhất trong vòng 15 năm trở lại đây và tăng hơn 40% kể từ đầu cuộc
khủng hoảng đến nay. Sự mạnh lên này không bắt nguồn từ sức mạnh của kinh tế nội địa
Nhật. Thay vào đó, sự mạnh lên của đồng Yên là sản phẩm của tiền đầu tư từ lĩnh vực tư
nhân và nhà đầu tư quốc tế.
Biểu đồ 2. 6:Chênh lệch lãi suất LIBOR 3 tháng bằng USD và JPY qua các năm

(Nguồn: Thomson Reuters)

17


Nhìn vào biểu đồ chênh lệch lãi suất của đồng USD và JPY có thể thấy trong
khoảng thời gian 2 năm trở lại đây, khoảng cách lãi suất giữa hai đồng tiền này dần được
thu hẹp. Điều này làm cho hoạt động “carry trade” khó đem lại được lợi nhuận cho nhà
đầu tư. Như vậy, nguyên nhân quan trọng khiến cho đồng Yên Nhật lên giá trong giai
đoạn này cũng tương tự như giai đoạn trước, các nhà đầu tư trước đây vay JPY với lãi
suất thấp để mua tài sản, kinh doanh bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) hưởng lãi suất cao
hơn. Khi chênh lệch lãi suất không còn đáng kể, cơ hội kiếm lợi trở nên khó khăn khiến
cho các nhà đầu tư đồng loạt bán tài sản, mua JPY để hoàn trả khoản vay. Điều này dẫn
đến cầu về Yên Nhật càng tăng cao và làm đồng Yên Nhật tăng giá.
Sự can thiệp từ Trung Quốc cũng là một nguyên nhân khiến JPY tăng giá. Theo số
liệu từ Bộ Tài chính Nhật Bản, Trung Quốc đã tăng cường mua trái phiếu chính phủ Nhật
lên 6,2 tỷ USD trong 3 tháng đầu năm 2010, cao gấp đôi con số kỷ lục vào năm 2005.
Nửa đầu năm 2010, Trung Quốc liên tiếp tăng cường mua trái phiếu chính phủ Nhật.
Trong tháng 6, Trung Quốc tiếp tục mua 456,4 tỷ Yên (5,3 tỷ USD) trái phiếu chính phủ
Nhật. Tháng 5/2010, lượng trái phiếu Nhật mà Trung Quốc mua đạt 735,2 tỷ yên. Việc
mua trái phiếu của Trung Quốc càng làm nhu cầu về Yên Nhật trở nên nóng hơn.
Hơn nữa, đà tăng của Yên Nhật trong giai đoạn này được duy trì một phần do các

nhà chức trách Nhật Bản không có chính sách can thiệp vào tỷ giá. Bộ trưởng Tài chính
Nhật tuyên bố sự tăng giá của đồng Yên sẽ chịu sự chi phối của thị trường đồng thời
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng không có động thái từ gì sau lần cuối cùng dùng
chính sách bán Yên Nhật trên thị trường mở vào năm 2003.
Ngày 14/09/2010, đồng JPY tăng lên mức cao 15 năm sau, tức là tỷ giá JPY/USD
còn 83.022 chiến thắng của Thủ tướng Naoto Kan, tiếp tục đà giảm của tỷ giá JPY/USD.
• Nhận xét chung:
Cũng như các tỷ giá khác, tỷ giá JPY/USD cũng chịu tác động không nhỏ của
những diễn biến kinh tế, chính trị trong giai đoạn trước và sau khủng hoảng. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho đồng Đô la Mỹ trở nên yếu hơn so với tất cả các
ngoại tệ mạnh khác, trong đó có đồng Yên Nhật. Trước khủng hoảng, tỷ giá JPY/USD giữ
ở mức khá cao. Sau khủng hoảng, tỷ giá giảm nhanh chóng. Các biến số kinh tế như tăng
trưởng GDP, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát… của hai nước và của các nền kinh tế khác
cũng có ảnh hưởng đến sự lên hoặc xuống giá của Đôla Mỹ và Yên Nhật. Tuy nhiên, có
18


thể nói yếu tố tác động mạnh nhất đến diễn biến tỷ giá là sự tăng giảm lãi suất theo các
chính sách tiền tệ của Mỹ và Nhật Bản trong từng giai đoạn. Thời kỳ tiền khủng hoảng,
với việc Ngân hàng trung ương Nhật Bản liên tục duy trì mức lãi suất thấp, còn FED lại
tăng lãi suất nhiều lần làm cho chênh lệch lãi suất giữa 2 nước ở mức khá xa. Điều này đã
tạo ra trạng thái “carry trade” trên thị trường, khiến tỷ giá JPY/USD luôn giữ ở mức cao.
Ở giai đoạn sau, khi FED đã cắt giảm dần lãi suất để vực dậy nền kinh tế sau khủng
hoảng, khoảng cách lãi suất đã dần được thu hẹp khiến cho các nhà đầu tư rút dần vốn ở
nước ngoài về. Đồng thời tình trạng thặng dư thương mại càng làm cho đồng Yên không
ngừng mạnh lên.
2.2. Dự báo JPY/USD
2.2.1. Dự báo bằng học thuyết ngang giá sức mua (PPP)
Từ năm 2009-2010, Nhật Bản phải đối mặt với tỷ lệ giảm phát kéo dài. Theo báo
cáo của IMF, tỷ lệ lạm phát của Nhật Bản đến cuối năm 2010 được dự đoán là -1,4%.

Song trước dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản, các chuyên gia kinh tế và chính
phủ Nhật Bản nhận định tình trạng giảm phát sẽ được cải thiện hơn đến năm 2011 và đạt
mức khoảng -0.5%4.
Về tỷ lệ lạm phát ở Mỹ, Cục dữ trữ liên bang Mỹ Fed cũng công bố vào tháng
7/2010 rằng rủi ro lạm phát ở Mỹ sẽ thấp: dự báo lạm phát liên quan đến tiêu dùng sẽ chỉ
dao động 1% cho đến 1,1%5 trong thời gian tới.
Tại thời điểm ban đầu, t=0: 1 JPY = E0 USD
Tại thời điểm t:

1 JPY = E1 USD

Ta có sự thay đổi tỷ giá :

∆E = (E1 - E0)/ E0

Gọi:

П1 : lạm phát tại Nhật
П2: lạm phát tại Mỹ

Theo PPP thì ta có:
4

5

/>Những dự báo về kinh tế Mỹ, 18/7/2010, từ: />
19


1.(1+ П1) JPY = E0. (1+ П2) USD

Như vậy
E1 = E0. (1+ П2)/ (1+ П1)
→ ∆E = (E1 - E0)/ E0 = (П2 - П1)/(1+ П1)
Để đơn giản cho việc tính toán lấy lạm phát ở Mỹ là 1%. Như vậy tính tại thời
điểm cuối năm 2010, tỷ giá sẽ thay đổi là
∆E = [0,01 – (- 0,014)] / [1 + (- 0,014)] = 2,43 %. Đây là mức thay đổi so với thời
điểm đầu năm 2010.
Ở ngày 4/1/2010, tỷ giá là USD/JPY= 92.41296. Với mức tăng 2,43% thì tỷ giá vào
ngày 31/12/2010 sẽ là USD/JPY = 90.221
Sang năm 2011, tính tương tự với lạm phát ở Nhật Bản là -0,5% và ở Mỹ vẫn là
1%, thì ta sẽ có tỷ giá thay đổi là:
∆E = [0,01 – (-0,005)] / [1 + (- 0,005)] = 1,51%
Đây là mức tăng so với thời điểm cuối năm 2010.
→ Tỷ giá ngày 31/12/2011 sẽ là USD/JPY = 88.879
Như vậy so với thời điểm hiện tại, ngày 24/9/2010, tỷ giá đang được giao dịch là
USD/JPY = 84.1964 thì tỷ giá cuối năm 2010 sẽ tăng :
90.221 – 84.1964)/84.1964 =7.16%,
Tỷ giá cuối năm 2011 sẽ tăng : (88.879 – 84.1964)/84.1964 = 5.56%.
2.2.2. Dự báo bằng học thuyết ngang giá lãi suất (IRP)
Theo báo cáo của FED, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả năm 2010
của kinh tế Mỹ sẽ ở mức 3 - 3,5%, thấp hơn so với ngưỡng 3,2 - 3,7% cũng do cơ quan
này đưa ra hồi tháng 4. FED cũng dự báo tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ hiện đang ở mức 9,5%,
trong trường hợp khả quan nhất sẽ giảm xuống còn 9,2% vào cuối năm nay. Chính
6

/>s=USDJPY=X+Interactive#chart1:symbol=usdjpy=x;range=5y;indicator=volume;charttype=line;crosshair=on;ohlcv
alues=0;logscale=on;source=undefined

20



nguyên nhân này mà FED sẽ có thể tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục
0,25% - 0 % để thúc đẩy tăng trưởng sau khi nền kinh tế Mỹ.
Trong cuộc họp diễn ra 14/10/2009, ngân hàng trung ương Nhật Bản đưa ra chính
sách tiền tệ cụ thể về việc duy trì mức lãi suất cơ bản ở mức 0,1% từ năm 2008 đến nay7.
Tại thời điểm ban đầu, t=0: 1 JPY = E0 USD
Tại thời điểm t:

1 JPY = E1 USD

Ta có sự thay đổi tỷ giá :

∆E = (E1 - E0)/ E0

Gọi :

R1: lãi suất tại Nhật Bản
R2: lãi suất tại Mỹ

Theo học thuyết ngang giá lãi suất, tại thời điểm t
1. (1 + R1) JPY = E0 (1 + R2) USA
→ E1 = E0 (1 + R2)/ (1 + R1)
→ ∆E = (E1 - E0)/ E0 = (R2 - R1) /(1 + R1)
Trường hợp lãi suất FED duy trì là 0,25% và Nhật là 0.1%, thì sự biến động tỷ giá
là:
∆E = (0,0025 – 0,001) / (1+0,001) = 0,15%
Trường hợp FED giữ lãi suất là 0%, Nhật là 0.1% thì sự biến động tỷ giá là:
∆E = (0 - 0,001)/ (1+0,001) = -0,1%
Với tỷ giá đầu năm ngày 4/1/2010 là USD/JPY= 92.4129 thì tỷ giá vào cuối năm
(31/12/2010) sẽ có 2 trường hợp:

+ Với lãi suất 0,25% thì tỷ giá giảm về USD/JPY = 92.274
+ Với lãi suất 0% thì tỷ giá giảm về USD/JPY = 92.505
So sánh hai tỷ giá này với thời điểm hiện tại là ngày 24/9/2010, USD/JPY =
84.1964 thì tỷ giá sẽ tăng lần lượt là 9,59% và 9,87%.
7

/>
21


2.2.3. Dự báo bằng phương pháp phân tích kỹ thuật
Đây là đồ thị của tỷ giá JPY/USD theo ngày, giai đoạn từ đầu năm 2010 đến nay.
Nhìn vào đồ thị, cùng với việc vẽ đường xu hướng thì từ giai đoạn tháng 5/2010 đến
14/9/2010, tỷ giá JPY/USD có xu hướng giảm rõ rệt. Đồ thị tỷ giá nằm hoàn toàn trong
kênh xu hướng giảm giá.
Đặc biệt, trong phiên kết thúc phiên 14/9, tỷ giá JPY/USD giảm sâu về mức 83,08,
đây là mức thấp nhất trong hơn 15 năm qua, chạm mức đáy từ tháng 5/1995 (79,75
YEN/1 USD)

Break out

Tuy nhiên vào ngay phiên hôm sau 15/9, Nhật Bản đã can thiệp vào thị trường tiền
tệ lần đầu tiên trong 6 năm qua, bán yên ra mua đô la Mỹ vào để ngăn việc tăng giá của
đồng yên. Điều này đã giúp tỷ giá JPY/USD tăng điểm mạnh trở lại trong phiên với một
cây nến candlestick thân rất dài, với sự thắng thế hoàn toàn của bên mua.
Hai phiên tăng điểm tiếp sau, diễn biến tỷ giá đã hình thành nên điểm breakout.
Đây là điểm phá vỡ xu hướng giảm của tỷ giá.

22



Với việc tăng điểm trong 3 phiên vừa qua, xu hướng giảm gần như đã chấm dứt hoàn
toàn, đáy 83,08 đã được thiết lập.
Đồ thị tỷ giá đã vượt lên trên 2 đường trung bình MA12, MA25 và tiến sát vào dải
băng trên của Bollinger band. Chỉ báo Parabolic SAR cũng đã đổi chiều. Như vậy các chỉ
báo xu hướng đều đã cho thấy sự kết thúc chu kỳ giảm của tỷ giá, quay trở lại xu hướng
tăng ngắn hạn.
Các chỉ báo kĩ thuật cũng đã có những chuyển biến rõ rệt, hai đường tín hiệu RSI
và MFI có xu hướng tăng mạnh trở lại. Chỉ báo sức mạnh mua Bull cũng đã đổi chiều.
Song ở chỉ báo MACD, vùng cỏ vẫn đang nằm ở dưới, có xu hướng ngắn lại và quay lên
trên. Đây là một tín hiệu khá tốt, báo hiệu xu hướng tăng sắp tới của tỷ giá.
2.3. Ảnh hưởng của diễn biến tỷ giá JPY/USD tới Việt Nam
2.3.1.Bối cảnh quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản

23


Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973. Kể từ
đó, quan hệ giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng trên hầu hết các lĩnh vực và đặc biệt
là lĩnh vực kinh tế. Hai nước đã dành cho nhau quy chế tối huệ quốc từ năm 1999 và Nhật
Bản đã trở thành một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam8.
Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, ngày 25/12/2008, Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam – Nhật Bản được ký kết, theo đó, hai nước xây dựng lộ trình giảm thuế suất bình
quân đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước. Cụ thể, các mặt hàng như nông
lâm thủy sản, khoáng của Việt Nam xuất sang Nhật sẽ được hưởng ưu đãi thuế và thuế
suất bình quân đánh vào hàng của Nhật Bản nhập khẩu vào Việt Nam sẽ giảm dần. Theo
số liệu từ Tổng cục thống kê, sơ bộ 7 tháng đầu năm 2010, Nhật Bản là thị trường xuất
khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,15 tỷ USD. Việt
Nam cũng nhập khẩu từ Nhật Bản 4,87 tỷ USD.
Về đầu tư, Nhật Bản hiện đứng thứ 3 trong số các quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào

Việt Nam. Hai nước cũng đã ký kết Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư tháng
11/2003. Kể từ năm 1992 đến nay đã là năm thứ 18 liên tiếp Chính phủ Nhật Bản cho
Việt Nam vay vốn ODA. Nhật cũng là quốc gia luôn ở vị trí dẫn đầu trong số các nhà tài
trợ song phương cho Việt Nam thời gian qua, với tổng số vốn ODA cam kết cho đến cuối
quý 1/2010 đã lên tới hơn 1.394 tỷ JPY.
Với vị trí quan trọng của Nhật Bản trong hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư đến
Việt Nam, những biến động về tỷ giá JPY/VND sẽ có ảnh hưởng lớn đến một số lĩnh vực
kinh tế của Việt Nam. Theo cơ chế tỷ giá chéo hiện hành, NHNN kiểm soát tỷ giá
USD/VND, tỷ giá của các loại ngoại tệ khác quy đổi gián tiếp theo tỷ giá USD với ngoại
tệ đó theo tỷ giá quốc tế. Như vậy, biến động của tỷ giá USD/JPY sẽ có ảnh hưởng lớn
đến biến động của tỷ giá JPY/USD. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ, theo dự báo
của Standard Chartered, sẽ ở mức 19.900 đồng đối một USD vào cuối năm nay. Đến cuối
quý 1/2011, một USD có thể đổi được 20.000 đồng và con số này sẽ là 20.800 đồng vào
cuối năm 20119. Đồng thời, theo dự báo đồng Yên có thể vẫn ở mức cao so với đồng Đôla

8
9

/> />
24


Mỹ, ở mức 90 JPY đổi 1 USD vào cuối năm 2011 10. Như vậy, cùng với xu hướng giảm
giá của VND so với USD, tỷ giá JPY/VND có thể sẽ tiếp tục tăng.
2.3.2.Ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu
Có thể nói JPY tăng giá là một tín hiệu tốt cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Nhật Bản hiện là đối tác thương mại lớn của Việt Nam và đang ở vị thế xuất siêu đối với
Việt Nam. Do vậy, khi đồng JPY lên giá sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt
Nam tại thị trường Nhật Bản, đẩy mạnh giá trị và khối lượng xuất khẩu vào một trong
những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam góp phần làm tăng kim ngạch xuất

khẩu của Việt Nam, đồng thời giúp làm giảm giá trị nhập siêu từ thị trường này. Việt
Nam xuất chủ yếu sang Nhật là hàng dệt may, máy tính và linh kiện điện tử… nhưng chủ
yếu vẫn là sản phẩm gia công, giá trị gia tăng thực tế không cao. Đồng thời lại nhập khẩu
từ Nhật hàng máy móc thiết bị, sản phẩm công nghệ... với hàm lượng kĩ thuật cao. Thực
tế, năm 2009, tốc độ giảm xuất khẩu nhiều hơn tốc độ giảm nhập khẩu; 6 tháng đầu năm
2010, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đã đạt 3,5 tỷ USD, tăng 31% - cao gần gấp
đôi tốc độ tăng chung, và bằng tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong khi đó, nhập siêu từ
Nhật Bản 6 tháng đầu năm là 500 triệu USD. Theo dự báo nhập siêu cả năm sẽ thấp hơn
mức 1,1 tỷ USD nhập siêu cuả năm trước.
Như vậy, cần tận dụng cơ hội tăng giá của JPY để tăng xuất khẩu vào Nhật, đồng
thời giảm dần nhập siêu, tiến tới lấy lại vị thế xuất siêu đối với thị trường lớn này. Tuy
nhiên cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có nhiều bất cập, 70 -80% đầu vào của
mặt hàng xuất khẩu là nhập khẩu, trong khi xuất khẩu lại lệ thuộc vào biến động trên thị
trường quốc tế về điều kiện thương mại cũng như biến động giá cả. Như vậy, đối với hoạt
động xuất nhập khẩu nói chung và sang Nhật nói riêng, việc duy trì đồng VND yếu để cải
thiện cán cân thương mại có thể chưa thực sự mang lại hiệu quả.
2.3.3.Ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư
JPY tăng giá không hoàn toàn là một dấu hiệu tích cực đối với nền kinh tế Việt
Nam. Nó đang tạo gánh nặng đối với các khoản vay ODA và thương mại bằng JPY. Hiện
nay, Nhật Bản là nước đứng đầu trong các nước và vùng lãnh thổ có lượng vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam. Như vậy, nợ thực của Việt Nam tính theo tỷ
10

/>
25


×