Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Quỹ đầu tư chứng khoán và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.11 KB, 27 trang )

Trước xu thế hội nhập kinh tế và phát triển toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay thì nhu cầu về vốn để đẩy mạnh kinh tế tránh tụt hậu là điều rất cần thiết đối với
mỗi quốc gia. Để huy động vốn một cách tối đa, ngoài sự góp mặt của ngân hàng còn
có sự tham gia của các tổ chức phi ngân hàng khác mà điển hình là Quỹ đầu tư.
Tính đến nay thì thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã hoạt động được hơn 10
năm. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy sự không ổn định của Thị trường chứng
khoán, giá cả chứng khoán và chỉ số chứng khoán luôn biến động. Và một trong những
nguyên nhân đó là hoạt động chưa hiệu quả các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các
Quỹ đầu tư. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán vẫn khá mới với công chúng nói
chung và một số nhà đầu tư nói riêng. Mặc dù, sự hiện diện của Quỹ đầu tư không
những chỉ cần thiết cho Thị trường chứng khoán mà còn rất cần thiết cho sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế. Có thể coi Quỹ đầu tư là cầu nối hữu hiệu giữa người tiết
kiệm và nhà đầu tư, phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực, đẩy nhanh tốc độ
cổ phần hoá. Quỹ đầu tư là phương tiện thuận lợi đơn giản và linh hoạt góp phần và
tham gia vào sự tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Bởi những lí do
đó em đã chọn đề tài “Quỹ đầu tư chứng khoán và hoạt động của các Quỹ đầu tư
chứng khoán tại Việt Nam”. Mục tiêu của đề án là làm rõ những vấn đề chung nhất
về Quỹ đầu tư chứng khoán và hiện trạng phát triển của các Quỹ đầu tư chứng khoán ở
Việt Nam trong những năm gần đây.
Kết cấu đề án gồm 3 phần:
Phần I: Những vấn đề cơ bản về Quỹ đầu tư chứng khoán
Phần II: Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam
Phần III: Giải pháp thúc đẩy sự hình thành và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các quỹ đầu tư chứng khoán.


I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm
Quỹ đầu tư chứng khoán là một định chế trung gian tài chính phi ngân hàng thu
hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ
hay các loại tài sản khác.


2. Phân loại quỹ đầu tư chứng khoán
2.1.

Căn cứ vào cách thức huy động vốn

• Quỹ đầu tư tư nhân: Do một số tổ chức và cá nhân góp vốn và thuê Công ty
quản lý Quỹ nhằm mục đích đầu tư vốn của mình một cách có lợi nhất và đảm bảo
quản lý chặt chẽ vốn đầu tư. Các quỹ này thường đầu tư vào chứng khoán của những
công ty chưa niêm yết. Khi những công ty này phát triển đến mức độ nhất định, họ bán
lại những chứng khoán nắm giữ để thu hồi vốn. Quỹ đầu tư tư nhân thường mang hình
thái của Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm.
• Quỹ đầu tư tập thể: Chứng chỉ góp vốn của Quỹ đầu tư tập thể được phép mua
bán rộng rãi trên thị trường. Do số lượng người góp vốn rất nhiều và phần lớn là các cá
nhân - những nhà đầu tư không chuyên nên hầu hết các nước đều có những quy định
hết sức chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của những người đầu tư.
2.2.


Căn cứ vào mục đích đầu tư
Quỹ đầu tư trái phiếu: Đây là loại quỹ đầu tư mà chứng khoán do nó nắm

giữ là các loại trái phiếu, bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Đầu tư
vào trái phiếu được coi là giải pháp đầu tư khá an toàn, vì nó luôn bao hàm khả năng
được hoàn trả từ phía những chủ thể phát hành trái phiếu. Đổi lại, mức lợi tức mà quỹ
thu được lại không cao nên không phải lúc nào cũng hấp dẫn được các nhà đầu tư. Tuy
nhiên, các quỹ này lại có một ưu điểm là chi phí quản lý thấp do sự ổn định của việc
đầu tư, và thường được ưu đãi về thuế hơn các lĩnh vực đầu tư khác.


Quỹ đầu tư mạo hiểm: Đây là loại quỹ đầu tư chuyên tìm kiếm và đầu tư


vào những lĩnh vực kinh doanh mới mẻ hoặc những công ty mới được thành lập. Việc

2


đầu tư có thể đem đến những rủi ro nhiều hơn cho quỹ, nhưng đổi lại, nếu thành công
thì mức độ lợi nhuận sẽ cao hơn bình thường. Nhìn chung, mặc dù gọi là đầu tư mạo
hiểm nhưng việc đầu tư này không phải là đánh bạc mà luôn có sự cân nhắc, tính toán
cụ thể dựa trên những thông tin có thể tin cậy. Trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, trình
độ của quản trị viên giữ một vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của quỹ.


Quỹ đầu tư ngành kinh doanh: Quỹ đầu tư ngành kinh doanh là loại quỹ

chuyên đầu tư vào chứng khoán của một hoặc một số ngành nhất định như dầu mỏ,
điện tử, công nghệ thông tin... Việc đầu tư theo ngành thể hiện mối quan tâm của nhà
đầu tư và sự hiểu biết của quản trị viên về một ngành nghề nhất định. Đôi khi, các quỹ
đầu tư theo ngành sẽ đầu tư vào những ngành có liên quan với nhau nhằm hạn chế rủi
ro, ví dụ như đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ và vận tải. Nếu dầu mỏ giảm giá thì đồng
nghĩa với việc ngành vận tải sẽ làm ăn phát đạt và ngược lại.


Quỹ đầu tư có mục tiêu đạo đức: Đây là loại quỹ đầu tư đặt mục tiêu đạo

đức không thấp hơn mục tiêu lợi nhuận. Quỹ tập trung đầu tư theo những tiêu chí đạo
đức mà quỹ đặt ra. Ví dụ: quỹ có thể chỉ đầu tư cho những doanh nghiệp sử dụng
nhiều người lao động là đối tượng chính sách, hoặc cho những doanh nghiệp trên địa
bàn kinh tế còn nhiều khó khăn v.v... Cần nhấn mạnh rằng đây không phải là một quỹ
từ thiện, đơn giản là các nhà đầu tư mong muốn kết hợp mục tiêu lợi nhuận với mục

tiêu xã hội trong hoạt động đầu tư mà thôi.


Quỹ đầu tư chủ động: Đây là loại quỹ đầu tư mà chiến lược đầu tư thường

xuyên thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình đầu tư trên thị trường chứng
khoán. Những quỹ đầu tư chủ động cần đến những nhà quản trị tài ba kể cả về sách
lược và chiến lược đầu tư. Hơn những thế, thông tin và phương pháp xử lý thông tin
cũng góp phần quan trọng vào thành công của quỹ.


Quỹ đầu tư thụ động: Ngược lại với quỹ đầu tư chủ động, quỹ đầu tư thụ

động coi trọng tính ổn định của danh mục chứng khoán do quỹ nắm giữ. Quỹ tuân thủ
những tiêu chí nhất định khi xây dựng danh mục này và thường không có sự thay đổi

3


lớn. Mặc dù có phương pháp tiếp cận ngược hẳn với quỹ đầu tư chủ động, nhưng thực
tiễn cho thấy ở Hoa Kỳ, sự thành công của hai dạng quỹ này là ngang nhau.
2.3.

Căn cứ vào đối tượng đầu tư của quỹ
• Quỹ đầu tư cổ phiếu (stock fund)

- Quỹ đầu tư tăng trưởng (growth fund) theo đuổi sự tăng trưởng vốn, thu nhập
cổ tức không phải là yếu tố chính yếu. Các Quỹ này đầu tư vào cổ phiếu thường của
các công ty có chiều hướng tăng trưởng cao.
- Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm (venture capital fund hay hedging fund) theo đuổi

sự tăng trưởng tối đa về vốn, thu nhập cổ tức không phải là yếu tố chính yếu. Các Quỹ
này đầu tư vào các cổ phiếu của công ty mới, công ty đang gặp khó khăn hay thuộc
các ngành tạm thời không được ưa chuộng. Các Quỹ này có thể sử dụng các kỹ thuật
đầu tư đòi hỏi mức rủi ro cao hơn trung bình.
- Quỹ đầu tư tăng trưởng và thu nhập (growth and income fund) theo đuổi sự
tăng trưởng vốn dài hạn và thu nhập hiện tại. Các Quỹ này đầu tư vào cổ phiếu thường
của các công ty có giá trị cổ phần tăng lên và có một tiền sử trả cố tức vững chắc.
Quỹ đầu tư vàng và kim loại quý (precious metals/ gold fund) theo đuổi sự tăng trưởng
vốn. Danh mục đầu tư của các Quỹ này gồm chủ yếu các chứng khoán kết hợp với
vàng và các kim loại quý khác.
- Quỹ đầu tư chọn vốn (capital selection fund) theo đuổi sự tăng trưởng vốn.
Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo quy mô vốn của công ty, có thể là công ty
vốn lớn, trung bình hoặc vốn nhỏ.
- Quỹ đầu tư chọn ngành (industry selection fund) theo đuổi sự tăng trưởng
vốn. Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo vị thế của ngành hoặc theo một số
tiêu chuẩn riêng của Quỹ. Hình thức đầu tư này đi ngược lại nguyên tắc đa dạng hoá
danh mục đầu tư, nó tạo những rủi ro không thể lường trước.
- Quỹ đầu tư chỉ số (index fund) theo đuổi mức thu nhập hiện tại cao. Danh
mục quản lý của các Quỹ này được quản lý theo một chỉ số chứng khoán nhất định.
Danh mục chứng khoán của Quỹ luôn giữ một tỷ lệ theo sự thay đổi của chỉ số đó.

4


Quỹ đầu tư quốc tế (international fund) theo đuổi tăng trưởng trong giá trị các khoản
đầu tư. Danh mục đầu tư gồm chủ yếu các cổ phiếu của các công ty nằm ngoài nước.
- Quỹ đầu tư toàn cầu (global equity fund) theo đuổi tăng trưởng trong giá trị
các khoản đầu tư. Các Quỹ này đầu tư vào các cổ phiếu được giao dịch trên toàn thế
giới, kể cả các cổ phiếu trong nước.
- Quỹ đầu tư thu nhập - vốn cổ phần (income-equity fund) theo đuổi mức thu

nhập cao bằng việc đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu và công ty có tiền sử trả cổ tức
tốt.
• Quỹ đầu tư trái phiếu và thu nhập (bond and income fund)
- Quỹ đầu tư trái phiếu chuyển đổi (convertible bond fund) theo đuổi mức thu
nhập hiện tại và sự tăng trưởng vốn trong tương lai. Các Quỹ này đầu tư vào các trái
phiếu kèm theo quyền được chuyển đổi sang cổ phiếu thường theo điều kiện cam kết.
- Quỹ đầu tư thu nhập - trái phiếu (income-bond fund) theo đuổi mức lợi nhuận
hiện tại cao. Các Quỹ này đầu tư vào một tập hợp các trái phiếu công ty và trái phiếu
chính phủ.
- Quỹ đầu tư thu nhập chính phủ (government income fund) theo đuổi lợi nhuận
hiện tại. Các Quỹ này đầu tư vào nhiều loại chứng khoán chính phủ bao gồm trái phiếu
kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu thế chấp...
- Quỹ đầu tư trái phiếu toàn cầu (global bond fund) theo đuổi một mức thu nhập
cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu gồm các chứng khoán nợ của các công
ty và các quốc gia trên thế giới, kể cả các chứng khoán nợ quốc gia.
- Quỹ đầu tư trái phiếu công ty (corporate bond fund) theo đuổi một mức thu
nhập cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu gồm các trái phiếu công ty và
một tỷ lệ trái phiếu kho bạc nhất định.
- Quỹ đầu tư trái phiếu lợi suất cao (high-yield bond fund) theo đuổi một lợi
suất cao nhưng chứa đựng một mức rủi ro cao hơn các Quỹ trái phiếu công ty. Danh
mục đầu tư của các Quỹ này gồm chủ yếu các trái phiếu của các công ty bị đánh giá
thấp.
- Quỹ đầu tư trái phiếu địa phương dài hạn (municipal bond fund-long-term)
theo đuổi thu nhập không bị đánh thuế bởi chính phủ. Các Quỹ này đầu tư vào các trái

5


phiếu do chính quyền địa phương phát hành nhằm cung cấp vốn cho các công trình địa
phương như trường học, bệnh viện, cầu đường...

• Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ (money market fund)
- Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ chịu thuế (taxable money market fund) theo đuổi
việc duy trì một giá trị tài sản thuần bền vững. Các Quỹ này đầu tư vào các chứng
khoán hảo hạng, ngắn hạn được bán trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc,
chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng lớn và thương phiếu. Kỳ hạn trung bình của danh
mục đầu tư các Quỹ này thường được giới hạn từ 3 tháng trở xuống.
- Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ miễn thuế (tax-exempt money market fund) theo
đuổi thu nhập không bị đánh thuế bởi chính phủ với mức rủi ro thấp nhất. Các Quỹ
này đầu tư vào các chứng khoán địa phương với kỳ hạn tương đối ngắn.
2.4.


Một số loại quỹ khác
Quỹ đầu tư danh mục linh hoạt (flexible portfolio fund): cho phép các

nhà quản lý tham gia hoặc phản ứng với các thay đổi điều kiện thị trường bằng việc
đầu tư và cổ phiếu, trái phiếu hay các công cụ của thị trường tiền tệ.


Quỹ đầu tư cân đối (balanced fund): nói chung theo các nguyên tắc của

các nhà đầu tư, thu nhập hiện tại và đạt tăng trưởng dài hạn. Danh mục đầu tư của các
Quỹ này là tập hợp các trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường…
3. Vai trò của Quỹ đầu tư chứng khoán
3.1.

Đối với nền kinh tế

Quỹ đầu tư huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế ngay cả đối với nguồn vốn
nhỏ lẻ và trực tiếp đầu tư chứ không phải cho vay. Quỹ còn hấp dẫn đầu tư nước ngoài

chảy vào nhờ vào việc phát hành các chứng chỉ quỹ có tính hấp dẫn cao với các nhà
đầu tư nước ngoài.
3.2.

Đối với thị trường chứng khoán

Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp và ổn định thị trường
thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh
nghiệp, phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị
trường chứng khoán, tạo sự đa dạng hàng hóa trên thị trường.

6


Góp phần bình ổn giá cả trên thị trường thứ cấp, giúp cho sự phát triển của thi
trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư
khoa học.
Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hóa hoạt động đầu tư chứng khoán. Các quỹ tạo
một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về chứng khoán
yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư bằng việc thu hút tiền
vào quỹ đầu tư.
3.3.

Đối với người đầu tư và người nhận đầu tư

• Đối với người đầu tư:
Đa dạng hóa danh mục đầu tư và phân tán rủi ro: Bằng việc sử dụng tiền thu
được từ những nhà đầu tư để phân tán vào các danh mục chứng khoán, các Quỹ đầu tư
làm giảm rủi ro cho các khoản đầu tư và làm tăng thu nhập cho các khoản đầu tư đó.
Tiết kiệm chi phí đầu tư: vì những danh mục đầu tư lớn được quản ký chuyên

nghiệp, Quỹ đầu tư chịu chi phí giao dịch thấp hay được hưởng ưu đãi về phí giao dịch
hơn các nhà đầu tư cá nhân, kể cả những người mua bán thông qua các công ty môi
giới có mức phí hoa hồng thấp nhất.
Tăng cường tính chuyên nghiệp cho việc đầu tư: thay cho việc người đầu tư phải
đi thuê tư vấn để quản lý tài sản của mình thì họ chỉ cần đầu tư vào một quỹ với chi
phí giảm đi rất nhiều. Tiền tập hợp trong các quỹ đầu tư chứng khoán được đặt dưới sự
quản lý của các nhà đầu tư chuyên nghiệp là các công ty quản lý quỹ.
An toàn trước các hành vi không công bằng: người đầu tư có thể bị thiệt hại nếu
danh mục đầu tư của quỹ bị giảm giá do sự biến động của giá chứng khoán trên thị
trường, nhưng xác suất bị tổn thất do gian lận, bê bối hoặc phá sản liên quan đến công
ty quản lý quỹ là rất thấp. Khuôn khổ pháp lý và việc quản lý chặt chẽ của các cơ quan
có thẩm quyền đối với các Quỹ đầu tư chứng khoán đem lại những đảm bảo cơ bản.
Tính thanh khoản của chứng khoán đầu tư: các nhà đầu tư đầu tư vào Quỹ đầu tư
chứng khoán có thể bán các chứng chỉ quỹ hoặc các cổ phiếu mình đang nắm giữ vào
bất cứ lúc nào cho chính quỹ đầu tư hoặc trên thị trường thứ cấp để thu hồi vốn.
• Đối với người nhận đầu tư:

7


Chi phí cho nguồn vốn vay phát triển thấp hơn ngân hàng: Trước đây hệ thống
ngân hàng chiếm vai trò thống trị nền tài chính. Để vay được vốn, các doanh nghiệp
phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định và lãi suất cao. Quỹ đầu tư ra đời sẽ hạn
chế được những nhược điểm của cơ chế cho vay của ngân hàng.
Tiếp cận nguồn tài chính dài hạn: lợi ích này có được từ việc Quỹ phát hành giao
dịch các loại chứng khoán này trên thị trường đã thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư,
đặc biệt là các chủ thể có khả năng tài chính lớn như ngân hàng, các tổng công ty, các
công ty bảo hiểm…đầu tư vào quỹ.
Tận dụng được những kiến thức quản lý đầu tư, marketing, tài chính từ các Quỹ
đầu tư: ngoài cung cấp vốn cho doanh nghiệp, các công ty quản lý quỹ đầu tư còn có

dịch vụ cung cấp các thông tin tài chính, marketing và các mối quan hệ với các tổ chức
tài chính và doanh nghiệp khác.
4. Mô hình tổ chức hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán
4.1. Mô hình công ty
Quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân đầy đủ, được thành lập dưới hình thức công ty
đầu tư cổ phần, có điều lệ hoạt động, vốn huy động từ các nhà đầu tư bằng cách phát
hành cổ phiếu. Cổ phiếu của Quỹ có thể được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán
hoặc thị trường OTC.
Những người góp vốn vào Quỹ sẽ trở thành những cổ đông được quyền hưởng
cổ tức và biểu quyết bầu Hội đồng quản trị cũng như các vấn đề cơ bản của Quỹ như
các cổ đông trong một công ty cổ phần truyền thống.
Điểm đặc trưng của công ty đầu tư là Hội đồng quản trị đại diện cho các cổ đông
đứng ra thuê công ty quản lý Quỹ và Ngân hàng bảo quản. Hội đồng quản trị sẽ giám
sát hoạt động của 2 tổ chức này theo kiểu “tam quyền phân lập”: Hội đồng quản trị đề
ra chính sách và giám sát, Công ty quản lý Quỹ thực hiện đầu tư còn Ngân hàng bảo
quản nắm giữ tài sản.
Việc phân quyền như vậy nhằm đảm bảo việc tài sản không thuộc quyền định
đoạt hoàn toàn của bất kỳ ai. Công ty quản lý Quỹ, với vai trò của nhà đầu tư chuyên
nghiệp, sẽ tối ưu hoá hiệu quả đầu tư. Tuy là một công ty cổ phần nhưng công ty đầu

8


tư không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật công ty mà còn phải chịu sự điều chỉnh khá
phức tạp của các luật liên quan tới tín thác đầu tư chứng khoán.
4.2.

Mô hình tín thác

Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân. Với mô hình này, Quỹ đầu tư chỉ được

coi là một khối lượng tiền do các nhà đầu tư góp vốn để sử dụng dịch vụ quản lý đầu
tư chuyên nghiệp nhằm thu lợi nhuận. Quỹ không có Hội đồng quản trị, hoạt động trên
cơ sở Chứng thư tín thác (trust deed) được ký kết giữa công ty quản lý Quỹ và Ngân
hàng giám sát bảo quản. Chứng thư tín thác, được sự phê chuẩn của Bộ tài chính hoặc
cơ quan chức năng, quy định mọi vấn đề đối với hoạt động của Quỹ nhằm đảm bảo
quyền lợi cho các nhà đầu tư.
Công ty quản lý Quỹ khi thành lập phải chuẩn bị Bản cáo bạch phát hành để cung
cấp những thông tin cần thiết về Công ty quản lý Quỹ và các thông tin về việc phát
hành chứng chỉ Quỹ đầu tư, giá bán, phương tức định giá, số lượng phát hành, thuế và
các thủ tục hành chính ...
Người đầu tư vào Quỹ đầu tư theo mô hình tín thác không được gọi là một cổ
đông vì họ chỉ có quyền nhận lợi tức từ số vốn góp mà không có quyền bầu cử và các
quyền khác như mô hình công ty. Vì thế, người đầu tư lúc này được gọi là người thụ
hưởng (beneficiary) và chứng chỉ Quỹ đầu tư được gọi là chứng chỉ hưởng lợi.
Do không có Hội đồng quản trị, chức năng giám sát và đề ra chính sách sẽ được
san sẻ cho Công ty quản lý Quỹ và Ngân hàng giám sát bảo quản. Cụ thể là Công ty
quản lý Quỹ nắm quyền quản lý và đề ra chính sách còn Ngân hàng sẽ nắm quyền
giám sát và bảo quản tài sản.
4.3.

Ưu nhược điểm của mô hình công ty và mô hình tín thác

• Mô hình công ty: Đây là loại hình có cơ cấu hoàn thiện, được ưa chuộng nhất
trong công tác quản lí hiện nay. Trong mô hình này có sự góp mặt của tất cả các đại
diện cho từng quyền lợi tham gia công tác quản lý nên họ có thể cân nhắc, đánh giá
giữa giá trị đầu tư với mức độ rủi ro, đưa ra các quyết định mang tính năng động cao
nên quỹ thường đem lại mức lợi nhuận khả quan hơn mô hình tín thác. Quỹ trong mô
hình này là một pháp nhân nên việc huy động vốn từ các thành phần kinh tế là thuận

9



lợi hơn nhiều so với mô hình tín thác, quỹ sẽ có lợi thế nhờ quy mô và dễ dàng đa
dạng hóa danh mục đầu tư của mình. Tuy nhiên do cơ cấu tổ chức cồng kềnh nên sẽ
khó đưa ra những quyết định đầu tư một cách nhanh chóng và mặt khác sẽ tạo nên
những gánh nặng về chi phí quản lý.
• Mô hình tín thác: trái lại với mô hình công ty, mô hình tín thác có cơ cấu tổ
chức đơn giản, gọn nhẹ nên dễ bắt kịp với các cơ hội kinh doanh do việc bàn bạc để đi
đến quyết định đầu tư là nhanh chóng, đồng thời nhu vậy sẽ giảm bớt được đáng kể chi
phí quản lý. Trong mô hình này, vì các nhà đầu tư không thể trực tiếp can thiệp vào
hoạt động kinh doanh của các công ty quản lý quỹ nên công ty sẽ chủ động hơn, có thể
đầu tư vào các dự án dài hạn có tiềm năng cao. Nhược điểm của mô hình này là do các
chứng chỉ quỹ có tính thanh khoản không cao nên do việc thiết lập quỹ dựa trên hợp
đồng giữa nhà đầu tư với công ty quản lý quỹ. Thêm vào đó quỹ thường có xu hướng
đặt mục tiêu an toàn lên cao để đảm bảo uy tín làm cho lợi nhuận thường không cao,
giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
5. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán
5.1.

Nguyên tắc huy động vốn

Việc huy động vốn của Quỹ đầu tư thông qua việc phát hành chứng khoán. Tuy
nhiên các quỹ chỉ được phát hành một số loại chứng khoán nhất định để tạo thuận lợi
cho việc quản lý quỹ cũng như hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư… Do vậy nguyên
tắc chung là quỹ chỉ phát hành cổ phiếu và chứng chỉ hưởng lợi. Ngoài ra quỹ không
được phép phát hành trái phiếu hay đi vay vốn để đầu tư. Quỹ chỉ được phép vay vốn
ngắn hạn để trang trải các chi phí tạm thời khi quỹ chưa có khả năng thu hồi vốn.
5.2. Nguyên tắc bảo quản tài sản và giám sát hoạt động của quỹ
Tài sản của quỹ phải được kiểm soát bởi một tổ chức bảo quản tài sản. Tổ chức
chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi đối với tài sản của các nhà đầu tư. Trên thế giới

hiện nay thì các tổ chức bảo quản tài sản thường là ngân hàng.
Nguyên tắc chung của hầu hết các nước là tổ chức bảo quản tài sản trong quá
trình giám sát không có quyền quyết định hoàn toàn mà phải cùng bàn bạc, biểu quyết
với các chủ thể khác không như công ty quản lý quỹ.

10


5.3.

Nguyên tắc định giá phát hành và mua lại chứng chỉ của quỹ

Khi các nhà đầu tư rút vốn của họ từ một quỹ, việc xác định giá phải dựa trên
nguyên tắc công bằng giữa các nhà đầu tư hiện tại với các nhà đầu tư mua hoặc bán
chứng chỉ. Điều này được thể hiện trong cách thức xác định giá trị tài sản của quỹ khi
mua bán chứng chỉ.
5.4.

Nguyên tắc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư

Việc cung cấp thông tin vừa có ý nghĩa là tạo cơ hội cho quỹ thu hút vốn đầu tư
vừa để góp phần bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Việc cung cấp thông tin phải tuân thủ
các quy định của cơ quan quản lý Nhà nước nhằm tạo sự thống nhất dễ hiểu cho các
nhà đầu tư.
5.5.

Nguyên tắc hạn chế một số giao dịch liên quan đến tài sản của quỹ

Hầu hết các nước đều ngăn cấm giao dịch giữa các chủ thể có liên quan với quỹ.
Giao dịch giữa các chủ thể có liên quan là giao dịch liên quan tới tài sản của quỹ giữa

một bên là quỹ đầu tư một bên là chủ thể khác như công ty quản lý quỹ, ngân hàng bảo
quản giám sát, người bảo lãnh phát hành, nhà tư vấn… mà việc giao dịch này có khả
năng ảnh hưởng đến lợi ích của người đầu tư hiện tại tại quỹ.
6. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả kinh doanh của Quỹ đầu tư chứng khoán
Tiêu chuẩn quan trọng nhất để dánh giá kết quả kinh doanh của một quỹ là liệu
quỹ đó có đáp ứng được mục đích đầu tư của mình hay không. Để theo dõi hoạt động
của quỹ và xem liệu quỹ có đem lại lợi nhuận hay không, nhà đầu tư có thể đánh giá
dựa trên: theo dõi những biến động trong giá cổ phiếu hay giá trị tài sản thuần NAV,
lợi suất hay tổng lợi nhuận thu về. Ngoài ra các nhà đầu tư cũng rất quan tâm đến một
số chỉ tiêu khác như: tỉ lệ chi phí, tỉ lệ thu nhập, tỉ lệ doanh thu…
Lợi suất: được tính bằng lợi nhuận phân chia mỗi cổ phần chia cho giá trên mỗi
cổ phần. Chúng ta có thể so sánh lợi suất của một quỹ tương hỗ với lợi suất hiện hành
của các loại đầu tư khác để quyết định loại đầu tư nào mang lại nhiều lợi nhuận hơn.
Tổng lợi nhuận: Đối với Quỹ cổ phiếu, có 3 bộ phận cấu thành nên tổng lợi
nhuận là: cổ tức từ khoản thu nhập đầu tư ròng, phân phối các khoản thu nhập ròng

11


được thừa nhận và tăng hoặc giảm trong giá trị tài sản ròng. Tổng thu nhập của quỹ là
chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt động của một quỹ tốt hay không.
Tỉ lệ thu nhập: bằng giá trị thu nhập đầu tư ròng chia cho giá trị tài sản ròng
trung bình.
Tỉ lệ doanh thu: bằng số lượng tài sản được bán hay mua chia cho giá trị tài sản
ròng của quỹ trong năm.
Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới chất lượng hoạt động quản lý quỹ. Nhà
quản lý đầu tư tốt có thể tiến hành hoạt động đầu tư ổn định và chống chọi lại với
những bất ổn của thị trường, tối thiểu hóa rủi ro thua lỗ. Một quỹ hoạt động tốt, quản
lý tốt luôn thu hút được nhiều nhà đầu tư và tài sản của nó cũng tăng lên hàng năm.
II. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT

NAM
1. Khái quát chung
1.1.

Sự cần thiết của việc hình thành các Quỹ đầu tư chứng khoán

Để thực hiện việc đầu tư - kinh doanh chứng khoán trên thị trường tài chính, đòi
hỏi công chúng và các nhà đầu tư không chỉ có kiến thức về chứng khoán và thị trường
chứng khoán mà còn phải thường xuyên quan tâm, theo dõi, bám sát thực trạng, phân
tích xu hướng phát triển của thị trường vốn. Các nhà đầu tư phải tiến hành khảo sát
thực tiễn, thu thập thông tin, tài liệu để tiến hành phân tích từng chứng khoán cụ thể,
lập và quản lý danh mục đầu tư… nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
Với lĩnh vực nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt này, chỉ những chuyên gia và các
nhà đầu tư chuyên nghiệp mới có thể thực hiện được. Vì vậy, mâu thuẫn giữa nhu cầu
đầu tư với khả năng hạn chế về tri thức, thông tin và công nghệ đã được giải quyết bởi
quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội trong hoạt động đầu tư - kinh doanh
chứng khoán. Từ nhu cầu thực tiễn đã dẫn đến sự hình thành từng bước những mối
quan hệ kinh tế tất yếu trên cơ sở của sự phân công và phối hợp những quan hệ về sở
hữu vốn, quản trị và điều hành việc sử dụng vốn đầu tư một cách có tổ chức... Cùng
với nó, những người chủ sở hữu vốn đầu tư thành lập những tổ chức tài chính dưới mô
hình như: “quỹ đầu tư”, “công ty đầu tư”, “công ty quản lý quỹ đầu tư”...

12


Quỹ đầu tư chứng khoán ra đời xuất phát từ nhu cầu nội tại của thị trường tài
chính và khi thị trường chứng khoán đã phát triển ở mức độ nhất định.
1.2.

Mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán


Sự hình thành của các Quỹ đầu tư chứng khoán ở một nền kinh tế thị trường là
tất yếu khách quan. Tuy nhiên việc lựa chọn mô hình Quỹ đầu tư chứng khoán phù
hợp với điều kiện kinh tế, hệ thống pháp luật của từng nước lại có ý nghĩa quan trọng
và mang tính quyết định đến quá trình hình thành và phát triển của các Quỹ đầu tư.
Việc xây dựng mô hình và Quỹ đầu tư chứng khoán dựa trên những quan điểm
và nguyên tắc sau:
- Nhà nước tạo khung pháp luật và cơ sở pháp lí cho sự ra đời và hoạt động của
Quỹ đầu tư nhằm tạo điều kiện và khuyến khích hoạt động của Quỹ đầu tư đúng với
yêu cầu của Đảng và Nhà nước.
- Có một cơ quan quản lí Nhà nước thống nhất, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của
Quỹ đầu tư nhằm tạo điều kiện cho quỹ hoạt động thông suốt, hiệu quả, an toàn.
- Xây dựng quỹ đầu tư công bằng, hiệu quả và an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu
tư, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trong nước, từng bước phát triển theo
quy mô thị trường chứng khoán trong nước và sự hòa nhập với Thị trường chứng
khoán trong khu vực và trên thế giới.
Đối với thị trường mới nổi thì dạng kí thác hình thành trước, khi Quỹ đầu tư phát
triển đến một trình độ nhất định thì họ mới áp dụng mô hình Quỹ đầu tư công ty. Đối
với các nước có trình độ phát triển cao thì việc áp dụng cả hai mô hình là hoàn toàn
hợp lí. Nó góp phần tạo ra cơ chế hình thành và phát triển các Quỹ đầu tư một cách
linh hoạt, tạo ra sự cạnh tranh giữa các định chế đầu tư nhằm cung cấp cho khách hàng
các sản phẩm đầu tư đa dạng, đồng thời thích ứng với sự biến đổi đa dạng của thị
trường tài chính trong khuynh hướng tự do hóa và toàn cầu hóa. Còn ở thị trường mới
nổi, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, các Quỹ đầu tư hầu hết hình thành dưới
dạng mô hình tín thác và chỉ chuyển sang kết hợp phát triển đồng thời mô hình công ty
khi thị trường đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Vì vậy Quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường Việt Nam được thành lập theo
mô hình tín thác. Khi áp dụng mô hình Quỹ đầu tư tín thác sẽ có những lợi thế sau:

13



- Đẩy nhanh việc hình thành các Quỹ đầu tư tại Việt Nam. Người đầu tư có thể
ủy thác số vốn đầu tư của mình vào quỹ nơi có các chuyên gia chứng khoán vào bất cứ
thời điểm nào, tận dụng tối đa tính chuyên nghiệp của các chủ thể ủy thác mà không
cần giám sát hay thực hiện bất kì hành động nào trong việc đầu tư.
- Việc huy động vốn dưới mô hình tín thác dễ hơn so với mô hình công ty. Chỉ
sau khi công ty quản lý quỹ nhận được giấy phép phát hành chứng chỉ là công ty có
thể phát hành đợt 1.
- Quỹ đầu tư chứng khoán dưới mô hình tín thác sẽ dễ dàng bảo vệ các nhà đầu
tư bởi vì hoạt động của công ty quản lý quỹ và tổ chức bảo quản tài sản được tách biệt.
Chính vì vậy công ty quản lý quỹ có toàn quyền quyết định về vốn đầu tư.
- Mô hình tín thác hạn chế cạnh tranh không cần thiết, góp phần ổn định thị
trường vốn còn sơ khai ở Việt Nam. Theo mô hình tín thác, mỗi công ty quản lý quỹ
có thể lập ra nhiều quỹ nhưng mỗi quỹ lại theo đuổi một mục tiêu, đường lối riêng.
Ngoài ra nếu áp dụng mô hình công ty thì chúng ta sẽ gặp phải một số bất lợi.
Việc áp dụng mô hình công ty sẽ chỉ khuyến khích việc thành lập các công ty đầu tư
có quy mô nhỏ và huy động được khối lượng vốn nhỏ hơn nhiều so với mô hình Quỹ
đầu tư tín thác. Chính vì vậy mục tiêu của Chính phủ sẽ khó mà thực hiện ngay từ đầu.
Không những thế sẽ rất khó khăn trong việc giám sát quản lý hoạt động kinh doanh
của các công ty này vì các công ty có thể đưa ra nhiều loại hình quỹ khác nhau rất linh
hoạt phù hợp với nhu cầu thị trường gây nhầm lẫn cho các nhà đầu tư vốn có sự hiểu
biết hạn chế về lĩnh vực đầu tư mới này.
Chính vì những lí do trên, các chuyên gia cho rằng ở Việt Nam, giai đoạn đầu
hoạt động của Thị trường chứng khoán nên thành lập Quỹ đầu tư tín thác.
1.3.

Những thuận lợi và khó khăn trong việc thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán
ở Việt Nam




Những khó khăn:

Thách thức lớn nhất đối với các Quỹ đầu tư là tính minh bạch. Công khai thông
tin là một trong những nguyên tắc cơ bản quan trọng trong đầu tư. Việc công bố đầy
đủ và kịp thời, trung thực các thông tin giúp nhà đầu tư có được nguồn dữ liệu tin cậy

14


phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của công ty để đưa ra quyết
định đầu tư đúng đắn, hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Một vấn đề khác gây trở ngại cho các Quỹ đầu tư khi đầu tư vào các công ty tư
nhân là các công ty này có quy mô nhỏ. Thị trường chứng khoán hiện tại quy mô còn
nhỏ, hàng hóa chứng khoán chưa nhiều. Khối lượng hàng hóa giao dịch trên các phiên
giao dịch còn thấp chưa phong phú. Thị trường còn mất cân đối giữa cung và cầu. Với
tình trạng như vậy, nếu Quỹ đầu tư ra đời thì hoạt động sẽ gặp nhiều khó khăn bởi lẽ
một trong những mục đích chủ yếu của Quỹ đầu tư là đa dạng hóa đầu tư.
Môi trường pháp lí của Việt Nam là chưa rõ ràng, đặc biệt đối với Quỹ đầu tư
nước ngoài dẫn đến quá trình đầu tư vào doanh nghiệp gặp khó khăn. Thủ tục xin phép
đầu tư vào chứng khoán còn phức tạp và mất nhiều thời gian. Do số công ty cổ phần
và cổ phần hóa chưa nhiều nên phạm vi đầu tư bị hạn chế.
Hiện nay chúng ta đang thiếu đội ngũ các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp. Sự
hiểu biết của công chúng về Quỹ đầu tư chứng khoán còn rất hạn chế, một khi công
chúng chưa hiểu rõ được cơ chế hoạt động và lợi ích của quỹ thì việc thu hút, lôi cuốn
họ vào tham gia là rất khó khăn.
Ngoài ra còn có những khó khăn khác đối với các Quỹ đầu tư như rủi ro tỉ giá,
các hạn chế trong việc đầu tư vào các công ty niêm yết đối với các nhà đầu tư nước
ngoài. Ngay cả khi các công ty đầu tư hoạt động tốt ở trong nước thì phần lớn thu nhập

của họ có thể bị triệt tiêu bởi sự mất giá của đồng Việt Nam.


Những thuận lợi:

Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định, thu nhập của dân cư ngày càng tăng,
đang được đánh giá cao. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, đợi sống của dân cư
ngày một được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người có xu hướng tăng lên.
Thị trường Việt Nam vẫn còn là một thị trường đầy tiềm năng với sự ổn định
chính trị và tăng trưởng GDP đêu đặn mặc dù gặp khủng hoảng trong khu vực và trên
thế giới. Bên cạnh đó Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách trong việc ủng hộ
Quỹ đầu tư chứng khoán. Chính phủ còn có nhiều chính sách để thu hút vốn đầu tư từ
tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chính sách nhằm tự do hóa khả năng làm ăn
và đầu tư đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Điều đó tạo điều kiện cho

15


các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia góp vốn vào nhiều lĩnh vực ngành nghề
của nền kinh tế chứ không bị hạn chế như trước đây.
Với việc thực hiện Luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy sự ra
đời của nhiều công ty cổ phần mới. Chính phủ thường xuyên phát hành trái phiếu để
huy động vốn cho việc phát triển kinh tế xã hội. Các ngân hàng thương mại đã và đang
phát hành trái phiếu huy động cho hoạt động kinh doanh cũng là những yếu tố góp
phần làm phong phú thêm hàng hóa cho Thị trường chứng khoán Việt Nam.
Với những điều kiện trên cho thấy hàng hóa chứng khoán của Việt Nam trong
những năm tới đây sẽ đa dạng về chủng loại và tăng nhiều về số lượng góp phần thúc
đẩy Quỹ đầu tư chứng khoán phát triển.
1.4.


Đánh giá chung về hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

Năm 1991 với sự xuất hiện của Quỹ Vietnam Fund, sau đó là Vietnam
Investment, Beta Vietnam, Vietnam Frontier, Templeton Vietnam Opportunities...
Tính đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997-1998, ở Việt Nam có
tổng cộng 7 quỹ quản lý đầu tư với tổng số vốn ước khoảng 400 triệu USD. Sau khi bị
tác động nặng nề từ khủng hoảng tài chính châu Á, tổng số vốn đầu tư gián tiếp rút
khỏi Việt Nam lên tới 250 triệu USD. Trong thời điểm này, Việt Nam không thu hút
được thêm một quỹ đầu tư nào mới. Đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được coi như là tắc
nghẽn, không đem lại đóng góp quan trọng trong chiến lược huy động vốn cho phát
triển kinh tế ở Việt Nam.
Kể từ cuối năm 2001 - thời điểm Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực và
sau Quyết định 36/2003/QĐ-TTg, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài bắt đầu đổ
vào Việt Nam với khối lượng lớn. Từ cuối năm 2001 đến cuối năm 2005, đã có thêm
13 quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư lên tới
gần 1 tỷ USD. Trong đó có các quỹ tên tuổi như Dragon Capital, Vina Capital,
Mekong Capital, Indochina Capital, Prudential, Vietnam Growth Fund…Từ năm
2001-2005, các quỹ đầu tư chủ yếu ở Việt Nam có số vốn nhỏ hơn rất nhiều. Các nhà
đầu tư này thường tập trung đầu tư vào thị trường chứng khoán và bất động sản. Trong
khi đó, các nhà đầu tư nước ngoài rất ít đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.

16


17


(Nguồn: cmet.edu.vn)
Trong ba năm 2008-2010, một số quỹ mới đã được thành lập ở Việt Nam như
Quỹ HLG Vietnam Fund (HLVF), Quỹ đầu tư HS-VAM Vietnam Index Linked Fund

(VILF), Quỹ Hong Leong Vietnam Strategic Fund (HLSF)… Ngoài ra, các nhà đầu tư
lớn trên thế giới như Merrill Lynch, Morgan Stanles, Goldman Sachs, JP Morgan
Chase… cũng đang quan tâm đến việc đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Trong giai đoạn này,
mặc dù FPI vào Việt Nam có xu hướng giảm do tác động của khủng hoảng tài chính
toàn cầu, nhưng các nhà đầu tư nứơc ngoài vẫn dự đoán được tiềm năng phát triển của
thị trường chứng khoán Việt Nam, do vậy vẫn tiếp tục quan tâm đầu tư vào Việt Nam.
2. Hoạt động của các Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam

18


2.1.

VietNam Fund

Vietnam Fund là quỹ đầu tư đầu tiên bước chân vào thị trường Việt Nam với
tổng vốn đầu tư là 57,6 triệu USD. Vietnam Fund là quỹ dạng đóng, được tổ chức theo
mô hình công ty. Từ khi bắt đầu hoạt động đến năm 2001, quỹ đã thực hiện tất cả 11
khoản đầu tư trong đó có một khoản đầu tư đã được thu hồi vốn. Trong 11 dự án đã
đầu tư đó thì có 6 vào các công ty trong nước. Trọng tâm đầu tư của quỹ là các dự án
đầu tư trên 1 triệu USD vào các công ty trong nước và liên doanh, ưu tiên các công ty
trong khu vực xuất khẩu có kim ngạch 4-10 triệu USD. Lượng vốn đầu tư của quỹ
được phân chia theo tỷ lệ 32% NAV (tương ứng 18,4 triệu USD) vào cổ phần của các
công ty Việt Nam và 46,8% NAV (26,9 triệu USD) vào cổ phần của các công ty nước
ngoài, còn lại là phần tài sản chưa đầu tư.
2.2.

Beta VietNam Fund

Beta Vietnam Fund được thành lập vào tháng 9 năm 1993 với tổng tài sản là 71

triệu USD. Quỹ dạng đóng được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Dublin.
Quỹ xác định trọng tâm đầu tư là vào các dự án đầu tư giá trị 1-5 triệu USD vào cổ
phiếu thiểu số của các công ty nước ngoài quản lý, tránh đầu tư vào các công ty đang
hình thành và các công ty trong nước.
Trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, Beta Vietnam Fund đã gặp không ít trở
ngại. Đó là quỹ thiếu cách thức để thu hồi vốn đầu tư, thiếu tính minh bạchvà quỹ có
quá ít chuyên gia giỏi trong nước. Hiện nay, quỹ không tăng cường đầu tư vào
các công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài nữa. Giải pháp đầu tư mà quỹ đang
tiến hành trong thời gian này là chớp thời cơ để thích ứng với những cơ hội của thị
trường do những thay đổi tích cực của môi trường kinh doanh đem lại.
2.3.

Vietnam Frontier Fund

Vietnam Frontier Fund Cayman được thành lập vào tháng 7 năm 1994 với tổng
tài sản ban đầu là 53,2 triệu USD, với trọng tâm đầu tư là vào các dự án giá trị 1-5
triệu USD vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty liên doanh
có người nước ngoài quản lý, ưu tiên các công ty có nguồn thu ngoại tệ mạnh. Ngoài

19


ra, quỹ cũng đầu tư vào các dự án môi trường và dự án đòi hỏi có thời gian dài để thu
hồi vốn.
Khoảng 50% tài sản của quỹ đầu tư vào 9 công ty Việt Nam, 14% vào các quỹ
cho vay trên thị trường mới nổi. Lĩnh vực đầu tư lớn nhất là xây dựng với 4 dự án
chiếm gần 20% tổng giá trị tài sản ròng, tiếp đến là bất động sản, y tế, giao thông…
Năm 2004, Quỹ đóng cửa vì hoạt động không hiệu quả.
2.4.


Vietnam Enterprise Invesments Ltd

VEIL được thành lập cách đây 16 năm, quy mô vốn ban đầu chỉ ở mức khiêm
tốn 35 triệu USD. Giai đoạn 1991 - 1997, VEIL là 1 trong 7 quỹ đầu tư nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký gần 400 triệu USD. Trong cuộc
khủng khoảng kinh tế châu Á năm 1997 - 1998, VEIL là một trong số ít quỹ còn trụ lại
được cho đến nay.
Động cơ thoái vốn của VEIL được giải thích bằng việc cân đối lại danh mục.
Thực tế, 2 năm gần đây, ba từ "tái cơ cấu" đã trở thành lý do thông dụng của nhiều quỹ
đầu tư. Và đó là hành động duy nhất mà các quỹ có thể làm: phần lớn đều giải ngân
khi hai chỉ số chứng khoán bùng nổ và hiện đã cạn tiền. Sự tăng - giảm của thị trường
là bình thường, nhưng chu kỳ đi xuống của thị trường đã kéo dài hơn 4 năm khiến hầu
hết các quỹ thua lỗ, chứng chỉ quỹ bị chiết khấu từ 15 - 45%. Hệ quả là 2 năm qua,
ngay cả VEIL cũng đối diện áp lực, nhưng may mắn vượt qua vào mùa hè năm ngoái.
2.5.

Mekong Enterprise Fund

MEF ra đời từ tháng 4-2002 với quy mô vốn 18,5 triệu USD và do Công ty
Mekong Capital quản lý. Đối tượng đầu tư của MEF là những công ty gia đình vừa và
nhỏ, có kết quả kinh doanh tốt, đặc biệt năng động trong kinh doanh và có khuynh
hướng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán. MEF chỉ thường cung cấp dịch vụ hỗ
trợ sau đầu tư để giúp các công ty quy mô lớn cải thiện hoạt động quản lý doanh
nghiệp và phát triển vượt bậc trong tương lai.
MEF đã đầu tư gần hết lượng vốn huy động, vì vậy Mekong Capital mở thêm
quỹ mới vào năm 2006 với quy mô vốn khoảng 40 triệu USD và cùng chiến lược đầu

20



tư như MEF. Ngày nay, MEF tập trung hoạt động đầu tư ở lĩnh vực chứng khoán và
doanh nghiệp.
2.6.

Vietnam Opportunities Fund

VOF của Vinacapital bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ tháng 9-2003, đến tháng
9-2006 có quy mô tổng vốn huy động 171 triệu USD, hiện nay là 771 triệu USD, tập
trung đầu tư vào những ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh như dịch vụ tài chính, hàng
tiêu dùng, bán lẻ, bất động sản, du lịch, cơ sở hạ tầng và ngành công nghệ.
Tính đến cuối tháng 8/2011, tổng lượng tiền mặt của VOF có 88 triệu USD
(tương ứng 11,6% NAV của quỹ). Cơ cấu danh mục của VOF hiện bao gồm cổ phiếu
niêm yết chiếm 37,8%; Bất động sản chiếm 33,3%; cổ phiếu OTC chiếm 9,1%; Private
Equity chiếm 7%, trái phiếu 1,3%. Khoản đầu tư lớn nhất của quỹ là 50% cổ phần của
Khách sạn Hanoi Metropole, chiếm 7,7%NAV, tương ứng hơn 58 triệu USD.
2.7.

VietFund

VietFund là Quỹ đầu tư đầu tiên của Việt Nam, liên doanh giữa ngân hàng Sài
Gòn Thương Tín (Sacombank) và Dragon Capital (Anh). Đây là công ty liên doanh
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam. VietFund được thành lập dưới
dạng mở với quy mô vốn của quỹ là 100 tỷ VND. Khoảng 60% vốn của quỹ tập trung
đầu tư cho các ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, phát triển phần mềm,
du lịch, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và chế biến thuỷ sản; 40% còn lại đầu tư cho
các hoạt động khác.
Mục tiêu đầu tư của quỹ chủ yếu vào các cổ phiếu của các Doanh nghiệp hàng
đầu hoạt động trong các ngành cơ bản của nền kinh tế Việt Nam, tập trung vào quá
trình cổ phần hóa các Tổng Công ty lớn của Nhà nước trong giai đoạn 2007 – 2010 và
khối Doanh nghiệp tư nhân.

III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1. Về phía Nhà nước
1.1.

Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô

21


Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật
thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ đầu tư chứng
khoán nói riêng. Để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, kiểm soát
lạm phát trong xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay thì Việt Nam cần:
- Thực hành tiết kiệm để tạo và nuôi dưỡng nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Chính sách tiết kiệm phải đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư và chính sách
khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Đầu tư phát triển phải là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các quyết sách kinh tế
quốc gia. Đầu tư phải có trọng điểm, có ưu tiên theo hướng chuyển dịch cơ cấu theo
hướng kết hợp phát triển theo chiều rộng với việc hoàn thiện, cải tiến thiết bị công
nghệ theo chiều sâu.
1.2.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý

Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính và
doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Các bộ luật của Việt Nam và
các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo và chưa có sự bổ
sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới. Do vậy, yêu cầu đang được đặt ra
là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo nên một hệ thống pháp

luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như nhằm
giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra.
1.3.

Khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát triển của Quỹ
đầu tư

Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ đầu
tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị trường
chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và trong điều
kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động. Dovậy, sự trợ giúp của
nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên phong trong việc thành lập công ty quản
lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu
tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các
thành phần kinh tế và các tổ chức khác.
1.4.

Thu hút đầu tư gián tiếp

22


Chúng ta nên có chế độ ưu tiên đối với lĩnh vực đầu tư gián tiếp cũng được ưu
đãi như đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một hình thức đầu tư phổ biến
trên thế giới và quan trọng không kém so với hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việt Nam đã rất thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng xem
ra việc thu hút đầu tư nước ngoài gián tiếp vẫn còn bị bỏ ngỏ. Các nhà quản lý hình
như chưa có chính sách thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp này, một
phần vì sợ các nhà đầutư nướcngoài có quyền rút vốn ồ ạt gây khủng hoảng cho nền
tài chính quốc gia tương tự như cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra vào năm 1997.

Chính vì vậy, Việt Nam phải quan tâm hơn nữa tới kênh thu hút vốn này.
1.5.

Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam

Thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ và gắn
bó hữu cơ với nhau. Đối với các Quỹ đầu tư, ngân hàng đóng vai trò là chủ thể giám
sát, bảo quản tài sản của quỹ. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải cơ cấu lại tổ chức, hoàn
thiện và từng bước chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ. Ngân hàng nhà nước nên có
chế độ giám sát đảm bảo độ an toàn của các ngân hàng thương mại, xây dựng các môi
trường pháp lý chặt chẽ, xây dựng các tiêu chuẩn hạch toán, báo cáo tài chính kế toán,
kiểm toán rõ ràng và trung thực. Bên cạnh đó, ngân hàng không ngừng nâng cao các
phương thức thanh toán tạo điều kiện cho mọi hoạt động trên thị trường chứng khoán
nói chung cũng như hoạt động của các Quỹ đầu tư nói riêng.
1.6.

Thực hiện chính sách ưu đãi thuế

Việc thực hiện ưu đãi về thuế đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của quỹ là
việc hỗ trợ hết sức quan trọng và cần thiết của nhà nước. Các quy định về thuế đối với
Quỹ đầu tư đảm bảo rằng, việc nhà đầu tư thực hiện đầu tư qua Quỹ đầu tư và việc nhà
đầu tư đầu tư trực tiếp không qua quỹ là tương đương nhau trên góc độ thuế. Rõ ràng
nếu thu nhập đầu vào và lợi nhuận của quỹ bị đánh thuế thì sẽ không khuyến khích nhà
đầu tư đầu tư qua quỹ. Mô hình về thuế với Quỹ đầu tư như trên nhằm khuyến khích
sự phát triển của loại hình đầu tư ưu việt này. Kết quả là nhà đầu tư thấy rằng việc họ
đầu tư trực tiếp hay thông qua quỹ đều đem lại một mức thuế như nhau. Điều này sẽ
tận dụng được hết mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong công chúng.

23



1.7.

Tạo lập thị trường hàng hóa cho thị trường chứng khoán bằng các biện
pháp tăng cung kích cầu

- Trước hết cần tiến hành giáo dục, tuyên truyền rộng rãi để thu hút sự quan
tâm và nâng cao kiến thức của công chúng về chứng khoán, thị trường chứng khoán và
đầu tư chứng khoán.
- Có chính sách cho vay đầu tư chứng khoán một cách hợp lý để người lao động
có thu nhập thấp cũng có quyền sở hữu cổ phiếu của doanh nghiệp cổ phần hoá. Thực
chất là người lao động được mua chịu một số cổ phiếu trả chậm với lãi suất ưu đãi
- Thúc đẩy sự ra đời của các trung gian tài chính với chức năng tạo lập thị
trường, muốn vậy nhà nước cần phải nâng mức vốn điều lệ của các ngân hàng thương
mại quốc doanh để tăng cường sức mạnh tài chính cho các ngân hàng tạo cơ sở thành
lập các công ty chứng khoán con tại các ngân hàng thương mại.
- Đa dạng hoá người đầu tư: công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, ngân hàng, cá nhân,
các hội đoàn thể trong và ngoài nước… Đồng thời đa dạng hoá người phát hành như
chính phủ, địa phương, ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp…
- Tạo cầu nối giữa cung và cầu chứng khoán.
1.8.

Nhà nước đặt định hướng phát triển chung cho các Quỹ đầu tư

Việc các Quỹ cùng tập trung vào một ngành có thể gây ra mất ổn định cân bằng
trên thị trường khi danh mục đầu tư thiên về một số ngành có tỉ suất sinh lời cao, ảnh
hưởng tới lợi ích xã hội. Do đó nhiệm vụ của Nhà nước khi cho phép thành lập là phải
quản lý để tạo tính cân đối giữa các quỹ có mục tiêu đầu tư khác nhau.
2. Về phía các Quỹ đầu tư
2.1.


Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư
chuyên nghiệp

Một yếu tố có tính chất quyết định đến sự thành công của một Quỹ đầu tư đó là
trình độ năng lực của nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp.
- Cử một số nhân viên theo học các khoá đào tạo cơ bản về đầu tư, phân tích
chứng khoán, về khung pháp lý cho hoạt động đầu tư và các kiến thức nghiệp vụ tài
chính tín dụng.

24


- Tuyển nhân viên có kiến thức về đầu tư hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ, tiếp tục bồi dưỡng và bổ sung nâng cao trình độ kiến thức.
- Cử nhân viên ra nước ngoài khảo sát, học tập, nghiên cứu.
Một nhà quản lý chuyên nghiệp thực thụ của Quỹ đầu tư chứng khoán phải
có một kiến thức sâu rộng và đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tạo cơ sở niềm tin
cho công chúng. Điều đó đòi hỏi phải có kế hoạch, chương trình đào tạo có hệ thống
để xây dựng đội ngũ các nhà quảnlý chuyên nghiệp cho quỹ.
2.2.

Chú trọng việc nghiên cứu đồng thời phổ biến rộng rãi Quỹ đầu tư ra công
chúng

Một mặt cần tiếp tục nghiên cứu về mặt lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của các
nước trong việc phát triển hệ thống tín thác đầu tư. Mặt khác, cần phổ biến rộng rãi
những kiến thức cơ bản và thông tin về Quỹ đầu tư cho công chúng qua sách báo và
các phương tiện thông tin đại chúng. Đối tượng thu hút các nhà đầu tư tham gia vào
Quỹ đầu tư chủ yếu là công chúng. Vì thế sự thành công của quỹ phụ thuộc rất lớn vào

sự hiểu biết và tham gia của công chúng. Hiện nay, bên cạnh các lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ cho những người đi sâu vào thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán nhà nước
đã có rất nhiều hình thức để phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng
khoán cho công chúng như tổ chức các bài giảng, các lớp học ngắn ngày cho những ai
quan tâm đến lĩnh vực này hay trang chuyên đề giải đáp trên các tạp chí chứng khoán.
2.3.

Chiến lược đầu tư thích hợp

Tại Việt Nam, quy mô vốn của một dự án chỉ vào khoảng 10 triệu USD, do đó
các Quỹ đầu tư cần xác định chiến lược đầu tư phù hợp, tập trung tìm kiếm các dự án
thích hợp với mục tiêu đầu tư của mình. Các quỹ nên hạ thấp yêu cầu về tỷ suất lợi
nhuận của các dự án cho phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện tại. Có như
vậy, các Quỹ đầu tư mới không bị trói buộc vào thị trường đầu tư của chính mình. Tuy
có một đội ngũ quản trị viên xuất sắc song chủ yếu là người nước ngoài vì vậy các quỹ
nên tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam hơn
nữa nhằm có một chiến lược tương thích với môi trường đầu tư Việt Nam.

25


×