Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Các vấn đề chung liên quan tới đầu tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI ( FDI FOREIGN DIRECT INVESTMENT )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.05 KB, 86 trang )

-1-

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI
( FDI : FOREIGN DIRECT INVESTMENT )
I. Đầu tư nước ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam
1. Khái niệm về đầu tư nước ngoài
Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do hoàn toàn
thống trị là việc xuất khẩu hàng hóa sang các nước kém phát
triển hơn. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, với sự hình thành các tổ
chức độc quyền, thì trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện
thêm hình thức xuất khẩu mới-xuất khẩu tư bản. Bằng việc xuất
khẩu tư bản, nhà tư bản tổ chức việc sản xuất ở nước ngoài,
hàng hóa sản xuất ra của các xí nghiệp nước ngoài sẽ thay thế
một phần cho việc xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu tư bản được
thực hiện dưới hình thức đầu tư quốc tế.
Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh tế trong đó các nhà đầu
tư nước ngoài ( tổ chức hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình
thức giá trị nào vào nước nhận đầu tư để thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt
được các hiệu quả xã hội.
Sự hợp tác đầu tư quốc tế giữa hai bên và nhiều bên là xu
hướng có tính chất quy luật trong điều kiện tăng cường quốc tế
hoá đời sống kinh tế hiện nay, tuy rằng trên thực tế, sự hợp tác
này không đơn giản mà trái lại luôn chứa đựng một sự cạnh
tranh gay gắt. Song dù sao trong hợp tác đầu tư, lợi ích của các
bên tham gia cũng khá gắn liền với nhau. Nhận thức rõ của xu
hướng này và sử dụng nó một cách khôn ngoan là một trong


những cách bảo đảm cho sự thành công của một con đường phát
triên trong giai đoạn hiện nay của mỗi nước.
2. Các loại hình đầu tư nước ngoài
Theo quan niệm của OECD thì các nguồn tài trợ cho nước
ngoài bao gồm:


-2-

2.1. Tài trợ phát triển chính thức (ODF): bao gồm viện
trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức ODF khác,
song phương cũng như đa phương.
2.2. Tín dụng xuất khẩu
2.3. Tài trợ tư nhân: bao gồm vay tư ngân hàng quốc tế
(WB), vay tín phiếu, đầu tư thị trực tiếp, các nguồn tài trợ tư
nhân khác, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ.
Như vậy, theo quan niệm của tổ chức này, đầu tư trực tiếp là
một trong những nguồn tài trợ tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu
tư thời gian qua chúng ta thấy rằng, chủ thể của FDI không thể
có duy nhất tư nhân mà còn có nhà nước và tổ chức phi chính
phủ khác (mặc dù số lượng ít hơn nhiều). Bởi vậy quan niệm
như trên chưa thật hoàn toàn đầy đủ.
Theo IMF (1993), đầu tư trực tiếp nước ngoài được định
nghĩa là loại “đầu tư phản ánh mục tiêu nhằm đạt được lợi ích
lâu dài của một tổ chức sở tại trong một nền kinh tế ( doanh
nghiệp nước ngoài hay công ty mẹ ) ở một doanh nghiệp đặt ở
một nền kinh tế khác ( doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài )”. Lợi ích lâu dài bao hàm quan hệ lâu dài
của các nhà đầu tư trực tiếp với doanh nghiệp ( nước ngoài ) và
một mức độ ảnh hưởng dáng kể của nhà đâu tư lên việc quản lý

doanh nghiệp.
FDI không giống với các hình thức di chuyển vốn khác ở
chỗ vai trò của nó không chỉ hạn chế trong việc làm tăng đầu tư
ở nước nhận vốn ( chủ nhà ), FDI xuất phát từ quyết định của
một doanh nghiệp ở một nước nào đó ( một công ty đa quốc
gia ) nhằm tham gia vào sản sản xuất quốc tế, di chuyển địa
điểm hoạt động của mình dến một nước chỉ nhà được chọn. Do
dó về cơ bàn FDI đem theo cả kiến thức đặc thù cho công ty
( dưới hình thức công nghiệp, kỹ năng quản lý, bí quyết tiếp thị,
v..v ) mà nước chủ nhà không thể thuê hoăc hoặc mua được trên
thị trường. Các chi nhánh của các công ty đa quốc gia, như là
một bộ phận quan trọng trong mạng lưới toàn cầu của công ty
mẹ, đã có sẵn các kênh bao tiêu hàng, có kinh nghiệm và chuyên
môn trong nhiều lĩnh vực phức tạp của việc phát triển sản phẩm
và tiếp thị quốc tế, đồng thời ở vào thế có lợi để tận dụng được
những khác biệt giữa các nước về chi phí sản xuất. Hơn nữa, các


-3-

công ty đa quốc gia có nhiều khả năng đối phó lại với những áp
lực bảo hộ ở nước xuất xứ hơn, sao cho có lợi cho việc nhập
khẩu từ các chi nhánh của họ. Dựa trên cơ sở này, người ta
thường nói rằng FDI cho phép các nhà quản lý và công nhân
trong đất nước tiếp nhận được những kiến thức và công nghệ
nhanh hơn. Nó cũng cho phép những người mới tham gia học
hỏi về thị trường xuất khẩu, kích thích cạnh tranh với các doanh
nghiệp trong nước, và đào tạo công nhân.
Về mặt ổn định, có sự khác biệt rõ ràng giữa FDI và các
hình thức cấp vốn khác như cho vay ngắn hạn của ngân hàng và

đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián tiếp chủ yếu bao gồm việc mua các
tài sản tài chính. Lợi suất từ việc mua các tài sản tài chính con
tuỳ thuộc vào nhiều biến số như tỷ giá, lãi suất và giá cổ phiếu,
là cái thường chịu những dao động ngắn hạn. Hơn nữa những tài
sản này có thể dễ dàng bán nhanh ( tức nhiên cũng có cái giá của
nó ). Ngược lại, FDI như nêu trên là luồng vốn dài hạn dựa trên
những cân nhắc lợi nhuận dài hạn, mà một khi đã đầu tư thì
không dễ dàng nhanh chóng rút lui. FDI về cơ bản thể hiện ở
quyền sở hữu và vận hành các cơ sở sản xuất. Do đó, khi so
sánh với đầu tư gián tiếp và những loại luồng đầu tư khác, FDI
là nguồn vốn tương đối ổn định.
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam
chủ trương khuyến khích mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm góp phần phát huy mọi tìm năng để thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội. Để thể chế hóa chủ
trương đó và cũng để tạo ra hệ thống khung pháp lý cho việc
quản lý, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định. “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào nước
ngoài vốn bằng tiền mặt hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành
hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”.
Với những quy định như đã nêu trong luật thì đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc tư nhân)
đưa vốn (bằng tiền hay bất cứ tài sản nào) vào nước tiếp nhận
đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
nhằm thu lợi nhuận và đạt được những hiệu quả xã hội. Do đó,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính là một loại hình di
chuyển vốn quốc tế mà trong đó mỗi người sở hữu đồng thời là


-4-


người trực tiếp quản lý điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Đối với hình thức đầu tư này, người bỏ vốn sẽ trực tiếp tham gia
quản lý điều hành quy trình thực hiện và có thể quyết định toàn
bộ mọi hoạt động nếu hình thức là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, hoặc tham gia quyết định nếu là doanh nghiệp liên
doanh. Nếu theo nghĩa hẹp, FDI là sự đầu tư của các công ty
nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ
toàn bộ hay từng phần của cơ sở đó, là hình thức đầu tư mà chủ
đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản
xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành
đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Nếu nguồn tài trợ ODF (chủ yếu là ODA) là nguồn tài trợ
chính thức có thể cho không, hoặc vay ưu đãi do các quốc gia,
các tổ chức quốc tế cung cấp, thì FDI là nguồn đầu tư chủ yếu
do các công ty đa quốc gia thực hiện. Việc tiếp nhận nguồn đầu
tư này không gây nên tình trạng nợ cho nước chủ nhà, trái lại
còn tạo điều kiện cho nước chủ nhà phát triển tiềm năng trong
nước. Bên cạnh đó, FDI không chỉ đưa vốn vào nước hưởng đầu
tư mà đi cùng với nó là kỹ thuật, là công nghệ và là bí quyết
kinh doanh, do đó nâng cao năng lực của nền kinh tế trong
nước, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Xét về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu
tư bản , một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa và đây
phải là hình thức xuất khẩu bổ xung và hỗ trợ cho nhau trong
chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty,
tập nđoàn kinh tế nước ngoài. Nhiều trường hợp, hoạt động
buôn bán hàng hóa tại nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường,
tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư nước ngoài tại nước
sở tại là điều kiện để xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu và

khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. Để đạt được những mục
tiêu này các nhà đầu tư sẽ phải lựa chọn một hình thức doanh
nghiệp phù hợp, thành lập và tiến hành kinh doanh. Như vậy,
với sự đầu tư trực tiếp nguồn vốn từ nước ngoài sẽ dẫn đến một
hậu quả tất yếu là sự hình thành của một loại hình doanh nghiệp
mới, đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3. Chính sách và việc tổ chức thu hút FDI của nước
ngoài


-5-

3.1 Việc tổ chức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài
Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài có thể
được coi là một quá trình xây dựng đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhằm tạo điều kiện không những cho vốn đầu tư nước ngoài, mà
cả vốn đầu tư trong nước được đưa vào thực hiện một cách
thuận lợi ( với tư cách là phần vốn góp của nước sở tại trong liên
doanh ). đứng trên giác độ của một quốc gia, việc thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài liên quan đến các vấn đề sau:
3.1.1 Xây dựng hệ quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài đối với phát triển kinh tế
Để xây đựng hệ thống quan điểm về vốn đầu tư trực tiếp
của nước ngoài, trước hết phải xác định rõ FDI có vai trò như
thế nào đối với sự phát triển kinh tế của nước đó.
Xuất phát từ lý luận về xuất khẩu tư bản của V.I.Lênin, từ
vai trò nguồn vốn nước nước ngoài của các nhà kinh tế học hiện
đại chúng ta thấy, FDI là nguồn vốn bổ sung rất quan trọng cho
các nước, nhất là các nước đang phát triển. Thiếu nguồn vốn

này, các nước khó có thể vượt khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói
nghèo để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Song vấn đề là
ở chỗ, thái độ của nước nhận đầu tư như thế nào và biện pháp xử
lý ra sao nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế tối đa những
tác động tiêu cực của loại hình đầu tư này.
Từ kinh nghịêm thành công của các nước đang phát triển
trong việc thu hút FDI, có thể nói rằng, nhìn chung các nước này
đều có thái độ và chính sách ưu đãi với các nhà đầu tư nước
ngoài. Họ nhìn hoạt động FDI không phải là hoạt động nhằm
bóc lột nguồn lực của nước mình, mà đó là những điều kiện
thuận lợi cho việc tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chính vì
vậy, các nước thường có những chính sách ưu đãi, nhất quán đối
với nhà đầu tư, tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động
FDI.
Là nhà đầu tư, họ quan tâm đến những lợi ích và những ưu
đãi mà họ có thể thu được từ dự án đầu tư thực hiện ở nước sở
tại, các vấn đề liên quan đến việc thành lập và triển khai dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài.


-6-

Trong việc lập dự án, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới việc phải
hoàn thành những gì trong bộ hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư,
các ngành, các cấp nào đã tham gia vào việc cấp giấy phép đầu
tư, liệu nhà đầu tư có nhận được các thông tin trợ giúp từ phía
chính phủ và các tổ chức môi giới hay không, thời gian trung
bình để có được một giấy phép đầu tư là bao lâu,…
Trong việc triển dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ quan tâm tới
những vấn đề như giải phóng mặt bằng có thuận lợi hay không,

việc đưa máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu vào nước sở tại để
sản xuất kinh doanh có thuận lợi và khó khăn gì, việc tuyển
dụng nhân công ở nước sở tại có sẵn có hay không (điều này có
liên quan tới chính sách đào tạo lao động của nước sở tại ), trong
một số trường hợp việc tuyển dụng nhân công nước ngoài có
gặp khó khăn gì không và những vấn khác liên quan đến những
khuyến khích đầu tư.
Đạo tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vật
đầu tư nước ngoài và đội ngũ cán bộ kinh doanh quốc tế để có
thể đáp ứng những yêu cầu của quá trình thu hút vốn nước ngoài
như: tham gia thảm định các dự án đầu tư nước ngoài, tham gia
hoạch định chính sách đầu tư trên phạm vi khu vật và quốc tế,
tham gia kinh doanh với nhà đầu tư nước ngoài.
3.1.2 Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn
Vấn đề có tính then chốt trong việc tổ chức nhằm thu hút
FDI là tạo lập một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng
tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt
động đầu tư. Buộc các nhà đầu tư, tự điều chỉnh các mục đích,
hình thức và phạm vi hoạt động cho thích hợp tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao
trong kinh doanh.
Người ta có thể phân loại môi trường đầu tư theo nhiều
tiêu thức khác nhau và mỗi tiêu thức phân loại đó lại hình thành
các môi trường, thành phần khác nhau. Chẳng hạn:
Căn cứ vào phạm vi không gian, có môi trường đầu tư nội
bộ doanh nghiệp, môi trường đầu tư trong nước và môi trường
đầu tư quốc tế.



-7-

Căn cứ vào lĩnh vực, có môi trường chính trị, môi trường
luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường văn hóa xã hội, cơ sở
hạ tầng…
Căn cứ và sức hấp dẫn, có môi trường đầu tư có tính cạnh
tranh cao (hấp dẫn nhiều), môi trường đầu tư có tính cạnh tranh
trung bình (hấp dẫn vừa), môi trường đầu tư có tính cạnh tranh
thấp (hấp dẫn ít) và môi trường không có tính cạnh tranh (không
hấp dẫn).
Khi xem xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và các
nhà quản lý phải thấy một số đặc điểm cơ bản trong quá trình
đánh giá và tạo dựng môi trường đầu tư.
Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà
luôn luôn biến đổi do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành. Tính
chất của môi trường đầu tư luôn luôn thay đổi là do mối tương
quan giữa môi trường đầu tư trong nước và các môi trường đầu
tư của các nước khác. Không có một môi trường đầu tư cố định.
Thứ hai, môi trường đầu tư là sự đang xen của các môi
trường thành phần và sự tác động qua lại giữa chúng. Điều này
đòi hỏi khi phân tích đánh gia môi trường phải xem xét đánh giá
một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt chẽ và với một mối
tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần.
Thứ ba, ngày nay xu thế hội nhập không ngừng gia tăng,
các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh ở trong nước mà còn
phải mở rộng hoạt động ở các thị trường nước ngoài. Do đó, khi
đánh giá môi trường đầu tư của một nước cụ thể, không thể so
sánh với môi trường đầu tư của các nước khác, đặc biệt là các
nước trong khu vực. Bởi vì, các nhà đầu tư nước ngoài có một
quyền rất lớn: đó là quyền tự do lựa chọn thị trường đầu tư ở

nước này hay nước khác, quyền không đầu tư nếu môi trường
không đáp ứng được các yêu cầu của họ, đặc biệt là trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư.
Nói đến môi trường đầu tư là nói đến hàng chục yếu tố
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án đầu tư, không kể vốn đầu tư là từ trong
nước hay từ ngoài nước. Đó là một môi trường đầu tư chung,
“một sân chơi bình đẳng” cho tất cả mọi người không kể quốc
tịch và trình độ phát triển.


-8-

3.2 Chính sách đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư nước ngoài là một bộ phận trong các
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Chính
sách phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia được chia
thành chính sách đối nội và chính sách đối ngoại. Theo lĩnh vực
áp dụng, chính sách đối ngoại của một quốc gia được chia thành
chính sách ngoại giao (lĩnh vực chính trị) và chính sách kinh tế
đối ngoại (lĩnh vực kinh tế). Theo nội dung, chính sách kinh tế
đối ngoại lại được chia thành chính sách ngoại thương, chính
sách đầu tư nước ngoài, chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý
ngoại hối… Trong mỗi chính sách bộ phận trên lại có hàng loạt
các chính sách khác. Chẳng hạn, chính sách đầu tư bao gồm
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và chính sách đầu tư ra
nước ngoài.
Chính sách đầu tư nước ngoài bao gồm một hệ thống các
chính sách, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp
dụng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư quốc tế của một quốc

gia (bao gồm đầu tư ra nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài)
trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã định
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó.
Chính sách đầu tư nước ngoài nhằm điều chỉnh và giải
quyết các vấn đề của đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Nhiệm
vụ của nó là phải giúp cho nhà nước đưa ra những quyết sách
thích hợp để ứng xử với tình hình đầu tư nước ngoài, phải trả lời
được là nên khuyến khích đầu tư ra nước ngoài hay thu hút đầu
tư vào trong nước? Tỷ lệ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián
tiếpở khoảng nào là tối ưu? Sử dụng các công cụ nào để khuyến
khích đầu tư nước ngoài? Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào
khu vực nào và ngành kinh tế nào?
Theo tính chất, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được
phân thành chính sách đầu tư tự do và chính sách hạn chế đầu
tư.
Theo nội dung, chính sách đầu tư nước ngoài có thể được
chia thành:
- Chính sách tài chính và các khuyến khích tài chính;
- Chính sách ngành và lĩnh vực đầu tư (chính sách cơ
cấu);


-9-

-

Chính sách thị trường;
Chính sách lao động;
Chính sách đất đai;
Chính sách công nghệ…

3.2.1 Chính sách tài chính và các khuyến khích tài

chính
Chính sách này bao gồm các chính sách thuế và các
khuyến khích khác như tỷ lệ thuế mà các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài phải nộp cho ngân sách nhà nước, thời gian
miễn thuế kể từ khi doanh nghiệp kinh doanh có lợi nhuận. Sau
kỳ chịu thuế này, các doanh nghiệp có thể được giảm thuế trong
một thời gian nào đó.
Luật thuế xuất nhập khẩu cũng là một công cụ để khuyến
khích hay hạn chế đầu tư nước ngoài. Nếu một hàng hoá được
khuyến khích đầu tư sản xuất bởi các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài trong một nước thì có thể được miễn giảm thuế
xuất (nhập) khẩu.
Hoàn trả thuế lợi tức. Một khi lợi nhuận được sử dụng để
tái đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hoàn trả một phần hay
toàn bộ thuế lợi tức đã nộp.
Thuế chuyển lợi nhuận về nước. Thông thường, vốn trả nợ
cho nước ngoài không phải chịu thuế, song khoản vay mượn này
phải được kê khai trong hồ sơ dự án đầu tư xin giấy phép đầu tư.
Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài cần được xem xét về mức độ
đánh thuế của nó.
Thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân được đánh
vào những người có thu nhập cao làm việc trong các dự án đầu
tư nước ngoài.
Quy định hình thức và tỷ lệ góp vốn. Nhà đầu tư trong và
nước ngoài có thể góp vốn dưới các hình thức khác nhau như:
bằng tiền mặt, máy móc, nguyên vật liệu, quyền sở hữu công
nghiệp hay giá trị quyền sở hữu đất.
Sự chuyển vốn ra nước ngoài. Thông thường sau khi chịu

thuế, nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển về nước những khoản
lợi nhuận; giá trị chuyển nhượng công nghệ và dịch vụ; vốn đầu
tư thu hồi; gốc và lãi từ các khoản nợ thu được.
3.2.2 Chính sách về cơ cấu đầu tư


- 10 -

Những ngành, lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài
được đầu tư tự do, những ngành đòi hỏi một số điều kiện nhất
định và những ngành, lĩnh vực được khuyến khích…
3.2.3 Chính sách đất đai
Chính sách này xác định quyền của nhà đầu tư nước ngoài
trong quan hệ sở hữu đất đai, thời hạn và giá cả thuê đất.
3.2.4 Chính sách lao động
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có được phép
tự do tuyển dụng lao động hay không và phải tôn trọng các
nguyên tắc nào trong mối quan hệ chủ thợ. Thông thường, các
nhà đầu tư phải ưu tiên tuyển dụng các lao động tại nước sở tại,
đặc biệt là các lao động ở địa phương đặt trụ sở. Việc tuyển
dụng lao động có thể thông qua văn phòng tuyển dụng, tư vấn
đầu tư hay các tổ chức dịch vụ. Chỉ khi nào những cơ quan trên
không cung cấp được cho doanh nghiệp những lao động phù
hợp về số lượng và chất luợng thì doanh nghiệp mới trực tiếp
đứng ra tuyển dụng.
Khi có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp danh cần giải
trình sự cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài có kèm theo
chứng chỉ nghề nghiệp của người lao động nước ngoài gửi Sở
Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố nơi đặt trụ

sở của doanh nghiệp để xem xét việc cấp giấy phép lao động
theo quy định của pháp luật về lao động.
II. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế của các
nước
Để phát triển kinh tế đòi hỏi phải có vốn. Thực tế cho thấy
hầu như tất cả các nước đều thiếu vốn đầu tư. Để khắc phục tình
tràng thiếu vốn, các nước sử dụng biện pháp thu hút vốn đầu tư
từ bên ngoài, nhất là đầu tư trực tiếp. Do đó đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI) là một vấn đề được nhiều nước phát triển và
đang phát triển rất quan tâm.
1. Bản chất và đặc điểm của FDI
1.1 Bản chất FDI
Trong hợp tác đầu tư quốc tế thường có nhiều nguồn vốn
khác nhau. Nhìn chung, vốn nước ngoài đầu tư vào trong nước
bằng hai con đường: đường công cộng (official) và đương tư


- 11 -

nhân hoặc thương mại (commercial). Hình thức chủ yếu của
đường công cộng là viện trợ, bao gồm viện trợ không hoàn lại
và cho vay dài hạn với lãi suất thấp từ các tổ chức quốc tế hoặc
chính phủ của các nước tiên tiến. Viện trợ không hoàn lại không
trở thành nợ nước ngoài, nhưng quy mô nhỏ và thường chỉ giới
hạn trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục và cứu trợ.
Các hình thức chủ yếu trong đầu tư quốc tế là đầu tư trực
tiếp, đầu tư qua thị trường chứng khoán, vay của các định chế
kinh tế và các ngân hàng nước ngoài (vay thương mại) và nguồn
vốn viện trợ phát chính thức (ODA).
Do vậy thương mại với lãi suất cao nên dễ trở thành gánh

nặng về nợ nước ngoài trong tương lai. Đầu tư qua thị trường
chứng khoán không trở thành nợ nhưng lại thay đổi đột ngột
trong hành động (như: bán chứng khoán, rút tiền về nước) của
nhà đầu tư nước ngoài làm ảnh hưởng mạnh đến thị trường vốn,
gây biến động tỷ gia và các mặt khác của nền kinh tế vĩ mô. FDI
cũng là hình thức đầu tư không trở thành nợ. Đây là vốn có tính
chất lâu dài ở bản xứ nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn.
Ngoài ra, FDI không chỉ đầu tư vốn mà còn đầu tư công nghệ và
tri thức khách hàng nên dễ thúc đẩy sự phát triển các ngành
công nghiệp hiện đại và phát triển kinh tế.
1.2 Đặc điểm chủ yếu của FDI
Hiện nay FDI có những đặc điểm sau đây:
1.2.1 FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư
nước ngoài.
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự
chuyển biến về chất lượng trong nền kinh tế thế giới, gắn liền
với quá trình sản xuất trực tiếp, tham gia vào sự phân công lao
động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự hoạt động
của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp quốc tế
1.2.2 FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát
triển
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước
công nghiệp phát triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên
nhân chủ yếu.


- 12 -

Thứ nhất, môi trường đầu tư của các nước phát triển có độ
tương hợp cao. Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả

môi trường công nghệ và môi trường pháp lý.
Thứ hai, xu hướng khu vực hóa đã thúc đẩy các nước này
thâm nhập thị trường của nhau.
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích được xu
hướng tăng lên của FDI ở các nước công nghiệp mới (NICs),
các nước ASEAN và Trung Quốc, Ấn Độ. Quá trình tự do hoa
kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các nước này cũng như
khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng trống
mới cho đầu tư. Mặc khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng
cũng cố khu vực lân cận của mình.
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế của
các nước đang phát triển trong những năm gần đây đã góp phần
đáng kể vào sự thay đổi dòng chảy FDI. Năm 1990, tổng số vốn
đầu tư của các nước đang phát triển nhận được là 19%, năm
1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần
đây tỷ lệ này vẫn có xu hướng tăng lên.
1.2.3 Cơ cấu và phương thức ngày càng đa dạng hơn
về cơ cấu FDI, đặc biệt FDI vào các nước công nghiệp phát
triển có những thay đổi như sau:
- Vai trò và tỷ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm
lượng khoa học cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hằng năm là
tập trung vào các ngành then chốt như điện tử, chế tạo máy tính,
chất dẻo và chế tạo máy. Trong khi đó, nhiều ngành công nghiệp
truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối
hoặc không đầu tư.
- Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm
xuống trong khi FDI vào các ngành dịch vụ tăng lên. Điều này
có liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của các
nước OECD tăng lên và hàm lượng dịch vụ trong công nghiệp
chế tạo cao. Một số lĩnh vực ưu tiên là các dịch vụ thương mại,

bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giá trị. Tỷ lệ các nguồn FDI
và dịch vụ tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDI vào dịch
vụ tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% (so với 32% năm 1950), vào Nhật
Bản là 52% (so với 20% năm 1965)…


- 13 -

1.2.4 Sự gắn chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại,

chuyển giao công nghệ
FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau.
Thông thường một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài
được nhằm vào mục đích tiềm năng xuất khẩu của một nước.
Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn và địa điểm
đầu tư cũng dựa trên cở sở tăng khả năng của sản phẩm trên thị
trường quốc tế.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyể
giao công nghệ. Xu hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công
nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. đấy chính là hình thức
có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi
quốc tế. Nhiều đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các
yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý
đến điều này. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ giúp nâng cao
năng lực cộng nghệ bản địa. Kinh nghiệm của các nước cho thấy
rằng, sự tách rời công nghệ với thương mại quốc tế, trước hết là
xuất khẩu đã làm cho năng lực công nghệ quốc gia không được
cải thiện, ngược lại có nguy cơ tụt hậu do thiếu sức cạnh tranh.
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác
cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn và

công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn
nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Lý do là
trước đây các nguồn viện trợ và cho vay thường nhằm vào mục
đích quân sự và chính trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc đẩy
phát triển sự phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho
rất thấp. Ở các nước chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và
cho vay chiếm 90% các nguồn vốn từ bên ngoài bên ngoài.
Viện trợ và cho vay trong nhiều trường hợp dẫn đến sự phụ
thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát
triển tự thân và tham gia có hiệu quả và phân công lao động
quốc tế. Vì vậy, các nguồn vốn này đã được các chính phủ, các
tổ chức quốc tế đặt trong các mối quan hệ với các nguồn vốn tư
nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
2. Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế đất nước
2.1 Một số quan điểm về FDI của các nhà kinh tế học


- 14 -

Đầu thế kỷ XX các nhà kinh tế đã bàn nhiều về xuất khẩu
tư bản. V.I.Lênin cho rằng:xuất khẩu tư bản là một đặc điểm
kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại (tức chủ nghĩa tư bản độc
quyền). Theo ông, trong giai đoạn cạnh tranh tự do đặt diểm của
chủ nghĩa tư bản là xuất khẩu hàng hóa, còn trong giai đoạn hiện
đại là xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản có ảnh hưởng đến
nguồn vốn đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản, nhưng lại giúp
các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận cao ở nước ngoài.
Ngoài ra, xuất khẩu tư bản còa vai trò bảo vệ chế độ chính trị ở
các nước nhập khẩu tư bản và ít nhiều có tác dụng thúc đẩy phát
triển kinh tế, kỹ thuật. Song về hậu quả nhân dân oqr các nước

nhập khẩu tư bản bị bốc lột nhiều hơn, sự lệ thuộc về kinh tế và
kỹ thuật tăng lên, dẫndeens sự phụ thuộc về chính trị là khó
tránh khỏi.
Từ phân tích trên, V.L.Lê nin rút ra kết luận “ các nước
xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được
một số” khoản lợi” nào có, và tính chất của những khoản lợi
này làm sáng tỏ đặc trưng của thời đại tư bản tài chính và độc
quyền”.
Vào giữa thế kỹ XX, việc xuất khẩu tư bản, nhất là FDI,
phát triển nhanh chóng. Các nhà kinh tế học cho rằng, dể phát
triển kinh tế các nước đang phát triển phải có biện pháp thu hút
được FDI. Điẻn hình là hai nhà kinh tế học P.Samue lson và R.
Nukse. Trong lý thyết “ cái vàng luẩn quẩn”và cút huých” từ
bên ngoài, Samuelson cho rằng, đa số các nước đang phát triển
đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp chỉ đủ sống ở mức tố thiếu, do
đó khả năng tích luỹ vốn hạng chế
Mặt khác, theo Samuelon, ở các nước đang phát triển,
nguồn nhân lực hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp; tài nguyên
thiên nhiên khan hiếm; kỹ thuật lạc hậu và gặp trở ngại trong
việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày
càng khó khăn và càng tăng” cái vòng luẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: để phát triển kinh tế phải có”cú
huých từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn”. Đó là
phải có đầu tư của nước ngoài vào các nước đang phát triển.
Theo ông, “nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với việc đi
tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều


- 15 -


hơn vào các nhuồn bên ngoài? Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã
từng nói với chúng ta rằng, một nước giàu, sau khi đã hút hết
những dự án đầu tư có lợi nhuậnước cao của mình, cũng có thể
làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư
những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?”
Sơ đồ 1: vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển
Tiết kiệm và đầu
tư thấp

Thu nhập bình
quân thấp

Tốc độ tích
luỹ vốn thấp
Năng suất lao
động thấp

Theo ông R.Nurkse, mở cửa cho FDIcó ý nghĩa đối với
các nước đang phát triển có thể vươn đến những thị trường mới,
cũng như khuyến khích việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những
phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp các nước đang phát
triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ, về điều kiện
thanh toán nợ và những điều hay tác động đến vay nợ quốc tế.
Mặc dù FDI là để phục vụ cho việc củng cố hệ thống này, các
nước có thu nhập thấpđược chuyên môn hóa sản xuất nguyên
liệu và thực phẩm xuất khẩu, được chuyên môn hoá dựa trên
nguyên tắt bất di bất dịch của lợi thế trong thương mại quốc tế,
dù rằng FDI trước hết phục vụ cho lợi ích của các công nghiẹp
xuất khẩu, chứ không phải của nước nhận vốn, và thậm chí phần
nào các nước đang phát triển phải chịu sự mất cân bằng không

tránh khỏi, nhưng vẫn nên mở cửa hơn là đóng cửa. R.Nurkse
cho rằng, FDI đem lại lại lợi ích chung cho cả hai bên, dù chẳng
bao giờ cân bằng tuyệt đối nhưng không thể làm khác được vì
nó là đòi hỏi tự nhiên, tất yếu của quá trình vận động thị trường.
Đầu tư trực tiếp là kết quả hoàn toàn tự nhiên bởi hoạt động tự
do của các động cơ kiếm lợi nhuận. Lẽ tất yếu là phương hướng
của đầu tư tư nhân chịu tác động lớn của hướng vận động lớn
của hướng vận động thị trường.


- 16 -

2.2 Vai trò của FDI đối với việc phát triển kinh tế
Qua phân tích quan điểm của nhà kinh điển về vai trò của
FDI và đặc điểm của FDI, ta thấy FDI có những thế mạnh của
nó. Dù vẫn chịu chi phối của Chính phủ, nhưng FDI ít lệ thuộc
vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác, bên nước
ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức
độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt la trong việc tiếp cận thị
trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với
dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn
công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của
công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò Phòng tổ chức
hành chính lớn đối với việc thúc đẩy qúa trình phát triển kinh tế
ở nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Cụ thể là:
- Đối với các nước đầu tư, đầu tư ra nước ngoài giúp
nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp
nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi
nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp
nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặc dù, đầu tư ra nước

ngoài giúp bành trươngsuwcs mạnh kinh tế và nâng cao uy tín
chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị
trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được
thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các
nước.
- Đối với các nước nhận đầu tư. Hiện nay có hai dòng
chảy của vốn đầu tư nước ngoài. Đó là dòng chảy vào các nước
phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
+ Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác
dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội
như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI, các tổ chức kinh tế
nước ngoài mua lại những công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị
phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc
làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức
các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi
trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại,
giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm
quản lý của các nước khác.


- 17 -

+ Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những
doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần
nạn thất nghiệp ở nước này. Theo thống kê của Liên hợp quốc,
số người thất nghiệp và bán thât nghiệp của các nước đang phát
triển chiếm khoản 35-38% tổng số lao động
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng

thiếu vốn kéo dài. FDI là phương thức đầu tư phù hớp với các
nước đang phát triển, tình tràng tích lũy quá căng thẳng dẫn đến
những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới, giúp
các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới.
Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và
nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên
thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội
hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức
sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp
hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc
công nghiêpk cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà
doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng
hóa nước ngoài và đi kèm với nó là những hoạt động marketing
được mở rộng không ngừng.
FDI giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc
đánh thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát
triển có nhiều khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính
cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu
tư, bên cạnh những ưu điểm thì FDI cũng có những hạn chế nhất
định. Đó là:
Nếu đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính
trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
Nếu nước sở tại không có một qui hoạch đầu tư cụ thể
và khoa học dẫn tới sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên
thiên nhiên bị khai thác quá mức và nạn ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng.



- 18 -

Cũng như các nước đang phát triển, để phá “cái vòng luẩn
quẩn” và phát triển kinh tế, đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là FDI. Ngày 18-04-1977,
nước ta thông qua “điều lệ đầu tư nước ngoài”. Ngày 29-121987, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
thông qua và đến nay được bổ sung ba lần vào ngày 30-06-1990,
ngày 23-12-1992 và ngày 12-11-1996. Qua các lần sửa đổi bổ
sung Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn
hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù hợp với thực tiễn
phát triển kinh tế Việt Nam và xu hương thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của các khu vực.
Sở dĩ Đảng và Nhà nước ta quan tâm tới FDI như vậy, vị
đối với nước ta, hình thức này có vai trò rất là quan trọng. Điều
này thể hiện ở chỗ:
Giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế của đất
nước. Để đạt được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh
tế xã hội trong những năm tới, thì tốc độ phát triển bình quân
hằng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về vốnước đầu tư có từ
4,2 tỷ USD trở lên cho mỗi năm. Đây là con số không nhỏ đối
với nền kinh tế của nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ sung quan
trọng để phát triển kinh tế ở Việt Nam.
FDI đem lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng
những doanh nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng
sản phẩm xã hội của Việt Nam tăng lên và cho phép giải quyết
được tình trạng thất nghiệp của người lao động. Tính đến hết
năm 1997, đã có 2.317 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy
phép. Hiện nay, cả nước có 1.928 dự án đang hoạt động với tổng

vốn đăng ký đầu tư là 32,1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho
hàng vạn lao động, tăng thu ngân sách nhà nước.
- Thông đầu tư nước ngoài, nhất là FDI, chúng ta tiếp
nhận thành tựu phát triển khoa học-kỹ thuật tiên tiến của thế
giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so với thế giới.
- Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi
thế của đất nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu
vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản v.v…


- 19 -

Ngoài ra, trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được
kinh ngiệm quản lý kinh doanh và cách làm thương mại trong
điều kiện kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Tóm lại, FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta
nhanh chóng hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
III. Tầm quan trọng của các doanh nghiệp có vốn FDI
1. Doanh nghiệp có vốn FDI
1.1 Nguồn gốc của doanh nghiệp có vốn FDI
Một trong những hình thức biểu hiện của đầu tư trực tiếp
nước ngoài là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Đối với Việt Nam đây là một loại hình doanh nghiệp mới,
được hình thành kể từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành
đầu tiên vào năm 1988. Mặc dù doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chiếm một tỷ trọg không lớn ở nhiều quốc
gia kể cả các nước NICs ở Châu Á, tuy nhiên ở một số nước
ASEAN con số này là khá cao và thực tế đã cho thấy vai trò
quan trọng của loại hình doanh nghiệp này đối với đời sống kinh
tế của Việt Nam. Trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoa, quốc tế

hoá nền kinh tế không thê đảo ngược thì các doanh nghiệp FDI
thực sự trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của toàn nền
kinh tế, là nhân tố cần thiết, quan trọng tạo dựng những nền tảng
cơ bản giúp Việt Nam nói và Đà Nẵng nói riêng từng bước hoà
nhập vào thị trường thế giới.
Bắt đầu từ những năm 90, xu thế toàn cầu hóa và khu vực
hoá nền kinh tế thế giới được mở rộng, cùng với tự do hoá
thương mại, tự do hoá đầu tư xuất hiện đã tạo cơ hội phát triển
mạnh mẽ cho các doanh nghiệp FDI phát triển với quy mô ngày
càng tăng. Đồng thời do nghịch lý của tự do hoá đầu tư, các
doanh nghiệp FDI được coi là phương tiện hữu hiệu để vượt qua
hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Sự khác nhau về văn hóa,
luật pháp và các chính sách của Chính phủ các nước cũng như
trình độ phát triển, các doanh nghiệp FDI thực hiện mở rộng quy
mô, thực hiện chuyển giao công nghệ và do đó kéo dài chu kỳ
sống sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp FDI xuất hiện ở
hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ lĩnh sản xuất - chế tạo lắp ráp, khai thác tài nguyên, dịch vụ như bảo hiểm, kiểm toán,


- 20 -

vận tải, tư vấn, tài chính – ngân hàng … cho đên các lĩnh vực
nghiên cứu, triển khai và đào tạo. Quy mô của các doanh nghiệp
FDI cũng rất đa dạng từ dự án chỉ vài trăm ngàn USD với thời
gian hoạt động ngắn cho đến dự án lên tới vài tỷ USD với thời
gian dài (99 năm).
1.2 Khái niệm doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp FDI không phải là khái niệm mới trong
quan hệ kinh tế quốc tế và trong đời ssống kinh tế thế giới, cho
dù ở Việt Nam chi xuất hiện được hơn 10 năm. Các doanh

nghiệp FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau vơi quy luật
vận động nội tại và những đặc thù hoạt động và phát triển. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp FDI cũng được quan niệm theo những
cách khác nhau.
Quan niệm thứ nhất: cho rằng doanh nghiệp FDI là một
quan hệ bạn hàng lâu dài giữa các bên tham gia trên cơ sở cùng
góp vốn và các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt động
kinh doanh nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
Quan niệm thứ hai: cho rằng doanh nghiệp FDI là một
thực thể kinh doanh được thành lập bởi các bên có quốc tịch
khác nhau để cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi
nhuận và chia sẽ rủi ro.
Quan niệm thứ ba: cho eằng doanh nghiệp FDI bao gồm
doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
và doanh nghiệp FDI là nước tiếp nhận đầu tư vì được thành lập
theo Luạt pháp của nước đó.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định”Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài “. Theo nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước đánh giá đây là một quy định thông thoáng
và có khả năng hấp nhẫn đầu tư cao. Kết hợp với chính sách
khác như cho phép người nước ngoài vốn và lợi nhuận ra nước
ngoài , rõ ràng tạo ràng ra một môi trường đầu tư thuận lợi, cho
phép nhà đầu tư được hưỡng những điều kiện kinh doanh hết
sức ưu đãi.
1.3 Các hình thức của các doanh nghiệp có vốn FDI
Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp do hai bên
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng



- 21 -

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và chính phu nước ngoài hoặc là
doanh nghiệp do doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài hợp tác
vóidn Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với
nhà đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Có thể chia doanh nghiệp liên doanh thành 3 loại hình sau:
- Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu
tư, kinh doanh tại Việt Nam.
- Doanh nghiệp liên doanh mới: là doanh nghiệp được
thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã được
phép hoạt động tại Việt Nam hoặc với doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã
được phép hoạt động tại Việt Nam.
- Trong trường hợp đặc biệt,doanh nghiệp liên doanh
có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết
giữa chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
với chính phủ nước ngoài.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên
doanh dẫn đến sự hình thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp
liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm
hữu hạn, có tư cách pháp nhân tuân theo pháp luật Việt Nam.
Đối với doanh nghiệp liên doanh, các bên tham gia được chia lợi
nhuận và chia sẽ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào phần
vốn pháp định của liên doanh. Theo pháp luật Việt Nam phần
góp vốn pháp định của bên nước ngoài không hạn chế về mức
cao nhất như một số nước khác, nhưng không được ít hơn 30%
vốn pháp định.

Hiện nay, tại Việt Nam doanh nghiệp liên doanh chiếm tới
61% dự án và 70% số vốn đầu tư. Việc các nhà đầu tư nước
ngoài quan tâm nhiều đến hình thức thành lập các doanh nghiệp
liên doanh chủ yếu là do khi đầu tư vào thị trường mới, các nhà
đầu tư nước ngoài chưa hiểu rõ phong tục tập quán, thói quen
tiêu dùng, luật lệ kinh doanh, nên muốn liên doanh với các
doanh nghiệp trong nước để giúp họ khắc phục mọi khó khăn về
thủ tục, thông tin, chia sẻ rủi ro trong quá trình tiến hành thành
lập cũng như khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Thêm vào


- 22 -

đó,với chính sách khuyến khích đầu tư chiều sâu, đã kích thích
các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu liên doanh với các đối
tác nước ngoài, nhằm sử dụng có hiệu quả hơn mặt bằng, nhà
xưởng, máy móc, có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới, nâng
cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp
hoàn toàn thuộc quyền sở hữu cảc các tổ chức, cá nhân nước
ngoài, do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập và tự quản lý.
Doanh nghiệp này được thành lập dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn và là một pháp nhân Việt Nam.
Khác với xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước
ngoài hoàn toàn do bên nước ngoài góp vốn, tự quản lý, tự chịu
mọi rủi ro, thu mọi lợi nhuận. Nhưng doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài phải chịu sự kiểm soát của nước sở tại và thực hiện
mọi nghĩa vụ theo luật định cũng như theo cam kết.
Mặc dù số doanh nghiệp được thành lập theo hình thức 1))

% vốn nước ngoài chưa nhiều, nhưng có thể thấy rằng xu hướng
gia tăng các dự án đầu tư theo hình thức này đã thể hiện rõ trong
thời gian qua. Điều này thể hiện qua việc gia tưng tỷ trọng các
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong tổng số dự án được
cấp giấy phép. Xu hướng này một mặt phản ánh trạng thái của
các nhà đầu tư nước ngoài muốn được tự chủ trong kinh doanh,
trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp, không bị lệ thuộc
vào đối tác Việt Nam, đồng thời tận dụng được nguồn lao động,
tài nguyên và thị trường sẵn có. Mặt khác cũng thể hiện một
thực tế là khả năng góp vốn, khả năng hợp tác của các tổ chức
kinh tế Việt Nam với nước ngoài còn có nhiều hạn chế.
Như vậy, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cho phép các nước chủ nhà tăng cường
khai thác nguồn vốn bên ngoài, cũng như giải quyết các vấn đề
vướng mắc khác. Thực tế ở nhiều nước đang phát triển mà nôit
bật là ASEAN, nhở FDI đã giải quyết một phần khó khăn, góp
phần thúc đẩy việc thực hiện thành công quá trình công nghiệp
hoá đất nước.
2. Đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn FDI


- 23 -

Là một loại hình doanh nghiệp hình thành và phát triển bắt
nguồn từ hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, nên loại
hình doanh nghiệp có những đặc điểm riêng, khác biệt với các
loại hình doanh nghiệp khác, cần phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ
lưỡng, để hạn được những sai lầm không đáng có trong quá
trình quản lý hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp này.
2.1 Loại hình doanh nghiệp và chủ thể của các doanh

nghiệp có vốn FDI
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dù hình thức
đầu tư là doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài nhưng điều được thành lập duới dạnh các công ty
trách nhiệm hữu hạng. Do đó trong quá trình hoạt động, cũng
như khi thanh lý hợp đồng, xử lý tranh chấp đều tiến hành áp
dụng những quy định của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn.
Trong hoạt động của các doanh nghiệp này cá sự tham gia
có đối tác nước ngoài, chủ yuế làn công ty đa quốc gia ( chiếm
90% số lượng vốn đầu tư trực tiếp FDI trên thế giới ). Khi đầu
tư vào các quốc gia khác các công ty đa quốc gia có thể lựa chọn
nhiều hình thức. Nhưng dưới hình thức nào thí chủ đầu tư nước
ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật đầu tư của
mõi nước. Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng
góp một số vốn tối thiểu 30% pháp định của dự án. Quyền quản
lý doanh nghệp cũng như mức độ gánh chịu trách nhiệm về hoạt
động của doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. nếu chủ
đầu tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do
họ quản lý, điều hành. Nhìn chung do nắm ty lệ vốn lớn nên đối
tác nước ngoài thường nằm quyền chủ động trong các doanh
nghiệp. Bởi vậy cơ cấu tổ chức cũng như quản lý điều hành hoạt
động của các doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng rõ nét, mang
phong cách của các công ty đa quốc gia nước ngoài.
Khi tiến hành đầu tư nước ngoài trực tiếp, động cơ chung
của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm một thị trtường hấp
dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu được lợi nhuận cao và đảm
bảo nkhả năng phát triẻn lâu dài của doanh nghịêp. Tuy nhiên,
do chiến lược phát triển của các doanh nghiệp và mục tiêu của
nó ở thị trường nước ngoài là khác nhau, mối quan hệ sẵn có của
doanh nghiệp với nước chủ nhà là khác nhau do đó động cơ cụ



- 24 -

thể trong từng doanh nghiệp cũng khác nhau. Nhìn chung có 3
động cơ chính sau:
- Đầu tư định hướng thị trường: là hình thức đầu tư nhằm
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang nước
sở tại.
- Đầu tư định hướng chi phí: là hình thức đầu tư nước
ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, thông qua việc
tận dụng lao động và tài nguyên rẽ của nước sở tại nhằm tăng
sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
- Định hướng nguyên liệu: là hình thứcdt theo chiều dọc.
Các doanh nghiệp nước ngoài là một bộ phạn cấu thành trong
dây chuyền của công ty mẹ. nó chịu trách nhiệm khai thác
nguồn nguên liệu tại chỗ của nước sở tại cung cấp cho công ty
mẹ đẻ tiếp tục sản xuất dảnb phẩm hoàn chỉnh.
2.2 Lĩnh vực và địa bàn đầu tư của doanh nghiệp có đầu
tư FDI
Thời gian qua cơ cáu đầu tư của các doanh nghệp Fdi đã
có những sự chuyển dịch khá lớn theo định hướngb và nhu cầu
phát triển kinh tế và Việt Nam. Về cơ cấu ngành, nếu trong
nhữnh năm đầu khi luật đầu tư nước ngoài ra đời, đa số các
doanh nghiệp tẩp trung vài các ngành dầu ( 32,2% ), khách sạn (
20,6% ) thì hiện nay đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào lĩnh
vực sản xuất ra của cải vật chất, xây dựng két cấu hạ tầng. Số
lưọng các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp vào công nghiệp ngày
càng tăng lênm, nhiều doanh nghiệp đàu tư chiều sâu nhằm khai
thác, nâng cấp năng lực sản xuất hiện có. Đến nay có khoảng

70% số doanh nghiệp các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ
sở hạ tầng, sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ và hàng xuất nhập
khẩu. Cụ thể, công nghiệp: 1.985 dự án, vốn đầu tư 20.878 triệu
USD; dịch vụ (giao thông vận tải, bưu điện, khách sạn – du lịch,
tài chính – ngân hàng, xây dựng): 679 dự án, vốn đầu tư 14.838
triệu USD. Trong đó Đà Nẵng có 52 dự án (trong đó có 42 dự án
công nghiệp và 10 dự án dịch vụ).
Về cơ cấu vùng lãnh thổ, đa số các doanh nghiệp tập trung
vào vùng kinh tế trọng điểm là: thành phố Hồ Chí Minh - Đồng
Nai – Vũng Tàu, Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Đà Nẵng Huế - Quảng Ngãi. Số lượng và tỷ trọng các doanh nghiệp có


- 25 -

vốn đầu tư nước ngoài tại các vùng có điều kiện kinh tế xã hội
khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa là rất ít.
Tuy có những chuyển biến tích cực so với những năm đầu
thực hiện luật đầu tư, nhưng hiện đa số các doanh nghiệp tạp
trung vào các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất gia công, lắp ráp,
khách sạn, dịch vụ, du lịch những ngành có tỷ suất sinh lời cao
và có khả năng nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư. Các ngành kinh
tế then chốt, các vùng kinh tế trọng điểm, đặc biệt là những
ngành quan trọng đối với đời sống xã hội nhưng sinh lời ít, thu
hồi vốn như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nông lâm ngư nghiệp, cơ
khí chế tạo, các ngành yêu cầu kỹ thuật cao thì số lượng doanh
nghiệp cũng như tỷ trọng vốn đầu tư còn thấp. Nếu có, thường
là những doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu là thuộc về các chủ đầu tư
tại các nước trong khu vực, số lượng các công ty lớn quá ít.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này, bắt nguồn từ chính
mục đích của nhà đầu tư đó là lợi nhuận. Đây là động lực thúc

đẩy họ tiến thành mọi hoạt động đầu tư kinh doanh. Do đó đối
với những lĩnh vực, khu vực đầu tư không” hấp dẫn” rất khó có
thể thu hút được họ
2.3 Vốn đầu tư lớn
Là sản phẩm của các tổ chức kinh tế, các tập đoàn hùng
mạnh nên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, nhìn chung đều là các doanh nghiệp có vốn lớn, có tiềm
lực về lực về tài chính tốt hơn các doanh nghiệp nội địa. Trong
một số lĩnh vực kinh doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài hầu như không có đối thủ trong nước. Ví dụ như
trong lĩnh vực khai thác dầu khí, chế tạo và lắp ráp xe máy, kinh
doanh mỹ phẩm, nước giải khát. Số lượng các doanh nghiệp
tăng với nhịp độ khá nhanh, quy mô bình quân của một doanh
nghiệp những năm 188 – 1990 là 10 triệu USD, đến năm 1995 –
1996 quy mô bình quân tăng lên đến 30 triệu USD, số doanh
nghiệp có vốn đầu tư trên 30 – 40 triệu USD ngày càng nhiều,
cá biệt có những dự án tới hàng trăm triệu USD. Nhưng có một
thực tế là tỷ lệ vốn thực hiện không cao chỉ khaỏng 31%. Trong
thời gian gần đây do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
Châu Á số vốn trên 10 triệu USD chỉ chiếm khoảng 10%.


×