Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

ĐỐI TÁC HỢP TÁC GIỮA CƠ SỞ ĐÀO TẠO VÀ CƠ SỞ SỬ DỤNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 141 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
DỰ ÁN PT GDĐH THEO ĐỊNH HƯỚNG

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

NGHỀ NHỆP ỨNG DỤNG GIAI ĐOẠN 2 (POHE2)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KỶ YẾU DIỄN ĐÀN
ĐỐI TÁC HỢP TÁC GIỮA CƠ SỞ ĐÀO TẠO
VÀ CƠ SỞ SỬ DỤNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

(Lƣu hành nội bộ)

THÁI NGUYÊN, THÁNG 10/2014


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
TT

Viết đầy đủ

Viết tắt

1

GV

Giáo viên


2

HS

Học sinh

3

SV

Sinh viên

4

PPDH

Phương pháp dạy học

5

SGK

Sách giáo khoa

6

TTCM

Thực tế chuyên môn


7

TTSP

Thực tập sư phạm

8

KNSP

Kĩ năng sư phạm

9

NVSP

Nghiệp vụ sư phạm

10

CĐSP

Cao đẳng Sư phạm

11

ĐHSP

Đại học Sư phạm


12

CTĐT

Chương trình đào tạo

13

NCKH

Nghiên cứu khoa học

14

CNTT

Công nghệ thông tin

15

TDTT

Thể dục Thể thao

16

ĐTTT

Đào tạo trực tuyến


17

BDTX

Bồi dưỡng thường xuyên

18

THPT

Trung học phổ thông

19

THCS

Trung học cơ sở

20

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

21

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo



MỤC LỤC
STT

Tên bài viết

Trang

Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực tham gia đào tạo giáo viên của
1

các trường phổ thông.

06

Phòng Đào tạo - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên …………….....………

2

Gắn kết giữa trường sư phạm với trường mầm non, phổ thông - Giải pháp
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng giáo dục.

13

Sở Giáo dục và Đào tạo Lạng Sơn ……………………………...........………

Hợp tác với trường phổ thông trong đào tạo giáo viên Toán tại trường Đại
3

học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.


22

Cao Thị Hà - Trường THPT Thái Nguyên …….....................................…….

Phát triển chương trình đào tạo theo định hướng nghề nghiệp bậc đại học
4

(POHE) cho Khoa Thể dục Thể thao: Tầm quan trọng của sự hợp tác giữa
cơ sở đào tạo và cơ quan tuyển dụng lao động.

28

Hà Quang Tiến - Trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên …….....…….……….

Giải pháp hợp tác đào tạo giáo viên ngành Sư phạm Sinh – KTNN theo
5

định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE).

39

Nguyễn Thị Hà - Trường THPT Thái Nguyên ……........................…………….

6

Sự kết nối giữa cơ sở đào tạo giáo viên và trường phổ thông trong triển khai
chương trình thực hành nghề sư phạm.
Tôn Quang Cường - Trường Đại học Giáo dục – ĐHQG Hà Nội ....................


44

7

Hợp tác toàn diện giữa các Khoa, trường Đại học Sư phạm với các trường
phổ thông.
Tô Thị Thoa - Trường THPT Vùng cao Việt Bắc …...............………………

60

Thực trạng và hiệu quả hoạt động thực tập, thực tế của sinh viên trường Đại
8

9

học Sư phạm Thái Nguyên tại trường Mầm non Quang Trung Thái Nguyên.
Nguyễn Thị Hồng Vân - Trường Mầm non Quang Trung – TP. Thái Nguyên ...
Sự phối hợp giữa Trường Thực hành sư phạm với trường Đại học Sư phạm
trong công tác đào tạo giáo viên.

63

68

Bùi Huy Quảng - Trường THPT Thái Nguyên ….....………………………...….

10

Một số định hướng đổi mới thực tập sư phạm nhằm phát triển năng lực sư
phạm cho sinh viên ngành Lịch sử theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng

(POHE).
Hà Thị Thu Thủy, Mai Văn Nam - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên ......

75


Giảng viên Đại học Sư phạm trực tiếp dạy học ở trường phổ thông - Một
11

biện pháp tạo lợi ích kép.

81

Nguyễn Trọng Khanh - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội …...............……...

12

Đào tạo giáo viên Vật lý theo nhu cầu xã hội.
Lê Bá Tứ - Trường THPT Thái Nguyên …..........................…..................………

87

Đào tạo nhân lực ngành sư phạm thông qua gắn kết giữa cơ sở đào tạo với
13

14

các trường phổ thông, mầm non: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho
Việt Nam.
Nguyễn Văn Chiến - Viện KHGD Việt Nam …….......……….....…………….

Phát triển môi trường học tập đa dạng thông qua thực hành, thực tế chuyên
môn tại trường phổ thông và cơ sở giáo dục là một hình thức hợp tác cần
thiết trong đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.

92

101

Phùng Thị Hằng - Trường THPT Thái Nguyên …....…...........................…….

15

Một số vấn đề phối hợp giữa trường Đại học Sư phạm và trường Mầm non
trong đào tạo giáo viên.
Trần Thị Minh Huế - Trường Mầm non 19-5 – TP. Thái Nguyên ….................

106

Trường THPT Thái Nguyên với công tác hướng dẫn thực tập, thực tế sư
16

17

phạm và rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên của sinh viên trường Đại học
Sư phạm.
Trần Nguyệt Anh - Trường THPT Thái Nguyên ..........…………......………
Nâng cao chất lượng đào tạo năng lực nghề nghiệp cho sinh viên ngành
Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Lê Thị Thu Hương, Trần Ngọc Bích - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên


112

119

………………………………………..............................…………………
18

19

Toán học trong trường sư phạm và trường phổ thông.
Vũ Mạnh Xuân - Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên ………..…

Mô hình trường phổ thông gắn với cơ sở sản xuất kinh doanh tại Thái
Nguyên.
Nguyễn Danh Nam – Trung tâm Phát triển kĩ năng sư phạm - Đại học Thái
Nguyên …..........................................................................................……

126

130


LỜI GIỚI THIỆU
Dự án Phát triển Giáo dục Đại học theo Định hướng Nghề nghiệp ứng
dụng (POHE) ở Việt Nam (2012 - 2015) giai đoạn 2 tiếp tục được đặt trong bối
cảnh giáo dục đại học tại Việt Nam đang tìm kiếm câu trả lời cho những thách
thức nổi lên từ quá trình hiện đại hóa đang diễn ra trong xã hội, trong nền kinh tế
và trong nghề nghiệp. Các thành phần xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp, đang đòi
hỏi phải có những thay đổi trong giáo dục đại học. Điểm quan trọng trong mối
liên hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp mà dự án quan tâm tới chính là thị

trường lao động: Doanh nghiệp thấy khó khăn trong việc tuyển dụng được những
sinh viên tốt nghiệp ra trường đáp ứng được những yêu cầu của công việc và trở
thành những nhân viên chuyên nghiệp.
Do vậy mục tiêu hướng đến của dự án là một hệ thống giáo dục đại học có
định hướng nghề nghiệp, đáp ứng nhanh chóng và tích cực với những đòi hỏi
thay đổi, cụ thể nhất là trong 8 trường đại học tham gia dự án với những chương
trình giáo dục được lựa chọn.
Dự án đặt ra 3 mục tiêu rõ ràng có thể nhận diện và đo lường thông qua
mỗi yếu tố cấu thành. Ở kết quả đầu tiên, dự án sẽ mang đến cho mỗi trường
một chiến lược giảng dạy có tiếp xúc với doanh nghiệp. Điều này được thể hiện
qua cách thức và phương tiện thiết kế và tiến hành chương trình giảng dạy có sự
tham gia của doanh nghiệp, tính lưu động của sinh viên và của giảng viên với
doanh nghiệp cũng như tiếng nói rõ ràng của doanh nghiệp trong quản trị nhà
trường.
Kết quả thứ hai của dự án là sự hình thành một lực lượng giảng viên được
cấp chứng nhận năng lực UBC (University Business Cooperation – Hợp tác giữa
trường Đại học và Doanh nghiệp), thông qua việc xây dựng nên những tiêu
chuẩn giảng viên đồng bộ và áp dụng hài hòa trên cả nước. Các giảng viên sẽ
được tham gia vào những chương trình tập huấn tại trung tâm POHE ở mỗi
trường, góp phần làm gia tăng đáng kể số lượng giảng viên đạt trình độ giảng
dạy có tiếp xúc với doanh nghiệp.
Kết quả thứ ba mà dự án sẽ mang lại là các điều kiện khung cho phép
giảng dạy có tiếp xúc với doanh nghiệp. Cách tiếp cận theo quy trình của dự án


sẽ đưa ra những biện pháp chính sách giúp đem lại những lợi ích, những động lực
lớn hơn cho các trường và giảng viên, đồng thời giảm bớt những rào cản cho họ
trong việc tiếp xúc với doanh nghiệp.
Thực hiện công văn số 17/BQL-POHE2 ngày 06 tháng 9 năm 2014 của
Giám đốc Dự án POHE 2 về việc tổ chức Diễn đàn đối tác Hợp tác trường Đại

học và Doanh nghiệp trong đào tạo POHE, Ban chỉ đạo Dự án POHE Trường
Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên phối hợp với các cơ sở sử dụng đội ngũ
giáo viên tổ chức Diễn đàn với mục đích sau:
1. Chia sẻ kinh nghiệm của công tác phối hợp giữa Trường Đại học Sư
phạm với Sở GD&ĐT và các trường phổ thông trong đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên.
2. Xác định những thuận lợi và rào cản hiện nay trong mối quan hệ hợp
tác.
3. Đề xuất cơ chế, chính sách cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi và thúc
đẩy mối quan hệ hợp tác trong thời gian tới.
Chúng tôi hy vọng rằng cuốn Kỷ yếu Diễn đàn này sẽ là những gợi ý và
tài liệu tham khảo giúp các nhà quản lý giáo dục, các giảng viên và giáo viên phổ
thông vận dụng phù hợp vào thực tiễn quản lý đào tạo góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo đội ngũ giáo viên.
Trong quá trình biên tập chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp qúy báu của các độc giả để
tài liệu này được hoàn thiện. Xin trân trọng cảm ơn các tác giả đã viết bài tham
gia Diễn đàn này.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm 2014

BAN TỔ CHỨC


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THAM GIA
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN CỦA CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG
Phòng Đào tạo
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các hoạt động thực hành ở trường phổ thông có ý nghĩa hết sức quan trọng

trong việc hình thành năng lực sư phạm, rèn luyện tay nghề và bồi dưỡng tình cảm
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. Tuy nhiên, hiện nay quy trình đào tạo của các
trường sư phạm còn tương đối khép kín về nhiều mặt, đặc biệt là nội dung chương
trình và phương pháp dạy nghề ít gắn với thực tiễn phổ thông. Số lượng giảng viên
am hiểu giáo dục phổ thông và tham gia giảng dạy ở các trường phổ thông chiếm tỉ
lệ rất ít, phần lớn giảng viên (trong đó có cả giảng viên giảng dạy bộ môn phương
pháp) chưa tích cực tham gia các hoạt động chuyên môn và nghiệp vụ ở các trường
phổ thông. Đặc biệt, tình trạng chưa có sự tham gia của những người có tay nghề
giỏi ở trường phổ thông trong quá trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên
vẫn còn khá phổ biến. Điều này làm cho kết quả đào tạo nghề của các trường sư
phạm chưa thực sự gắn liền và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đổi mới giáo dục
phổ thông.
Các môn học cung cấp tri thức sư phạm cần được gắn kết chặt chẽ với hoạt
động rèn luyện các kỹ năng sư phạm. Nói cách khác, giảng viên giảng dạy các môn
giáo dục chuyên ngành và nghiệp vụ sư phạm (Tâm lý học, Giáo dục học, Phương
pháp giảng dạy bộ môn) cần là mô hình cho sinh viên về cách dạy, cách học. Do đó,
việc đổi mới phương pháp dạy học trong các trường sư phạm chính là cái gốc,
là căn cốt để sinh viên – người giáo viên tương lai học cách dạy sáng tạo, học cách
học sáng tạo và rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp của mình. Tuy nhiên, chương trình
đào tạo của các trường sư phạm hiện nay tương đối hàn lâm, đa số các ngành học
chỉ dành khoảng 10% số tiết cho các hoạt động thực hành và hầu như không có thảo
luận. Điều này chỉ ra rằng, quá trình đào tạo ở trường sư phạm chưa quan tâm đến
việc phát triển các kĩ năng thực hành, kĩ năng thuyết trình của sinh viên. Chính vì
thế, để đổi mới cách dạy ở trường sư phạm, riêng các học phần về nghiệp vụ sư
6


phạm cần dành ít nhất từ 20% đến 40% số tiết để sinh viên được tham gia thực
hành, thực tế và thảo luận tại các trường phổ thông. Từ đó, giúp sinh viên có cơ hội
được vận dụng những kiến thức của môn học để xử lý các tình huống cụ thể sát với

thực tiễn dạy học và giáo dục.
Nhìn chung, trong chương trình đào tạo của hầu hết các trường sư phạm, tỉ lệ
khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm so với khối kiến thức cơ sở ngành và kiến thức
ngành vẫn còn tương đối thấp (dưới 20%) là chưa phù hợp, chương trình còn nặng
về khối kiến thức khoa học chuyên ngành. Do đó, năng lực sư phạm của sinh viên
mới tốt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu giảng dạy thực tế tại các trường phổ
thông. Dưới đây là biểu đồ biểu diễn tỉ lệ dành cho khối kiến thức nghiệp vụ sư
phạm trong chương trình đào tạo của một số ngành tại Trường Đại học Sư phạm –
Đại học Thái Nguyên:

Tỉ lệ khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm trong chương trình đào tạo
Như vậy, có thể nói, để sinh viên ra trường có thể đáp ứng ngay được yêu
cầu giảng dạy tại các trường phổ thông thì chương trình đào tạo ở các trường sư
phạm cần thay đổi theo hướng tăng khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm, “đi trước
phổ thông” trong việc đổi mới phương pháp dạy học và gắn kết chặt chẽ với các
trường phổ thông trong hoạt động đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên.

7


2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THAM GIA ĐÀO TẠO
GIÁO VIÊN CỦA CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG THỰC HÀNH
2.1. Tham gia đổi mới chƣơng trình đào tạo giáo viên
Xác định trường phổ thông là “thị trường lao động” là nơi sử dụng những sản
phẩm đào tạo, do đó trường sư phạm phải tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị
trường lao động. Do vậy, trường sư phạm cần thường xuyên phối hợp chặt chẽ với
hệ thống giáo dục phổ thông trong việc đổi mới nội dung, chương trình đào tạo.
Hàng năm, các trường sư phạm cần tiến hành cuộc điều tra thị trường lao động về tỉ
lệ sinh viên đã tốt nghiệp (có việc làm, chưa có việc làm, làm trái nghề,…), tìm hiểu
ý kiến phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về những kiến thức được trang bị tại trường

sư phạm có giúp ích trong cuộc sống và nghề nghiệp của mình hay không? những
kiến thức nào là cần thiết và không cần thiết? Từ đó xây dựng hồ sơ năng lực nghề
nghiệp của sinh viên và thiết kế lại chương trình đào tạo theo định hướng tiếp cận
năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu xã hội. Vì thế, các trường sư phạm cần phối
hợp chặt chẽ với các trường phổ thông trong việc tiếp nhận thông tin phản hồi về
năng lực của sinh viên mới tốt nghiệp, từ đó tham gia góp ý giúp cơ sở đào tạo giáo
viên điều chỉnh nội dung và chương trình đào tạo phù hợp với thực tiễn dạy học ở
phổ thông.
Bên cạnh đó, các trường sư phạm cũng cần được kết nối với nhau nhằm đảm
bảo khung chương trình đào tạo giáo viên phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn và đặc
điểm vùng miền, xác định chuẩn đầu ra và chia sẻ giáo trình giảng dạy. Đồng thời,
chính các trường sư phạm cần phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong việc kiến
tạo môi trường giáo dục, phối hợp tổ chức các hoạt động phong trào, điều tra nhu
cầu nguồn nhân lực,… nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội được rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm dưới nhiều hình thức khác nhau.
2.2. Tham gia đào tạo nghiệp vụ sƣ phạm
2.2.1. Tăng cường hoạt động thực hành sư phạm
Trường phổ thông là nơi sử dụng những sản phẩm đào tạo của trường sư
phạm. Do đó, trường sư phạm cần gắn kết chặt chẽ với các trường phổ thông nhằm
đảm bảo quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên luôn bám sát thực
tiễn giáo dục phổ thông. Vì thế, việc đưa sinh viên xuống các trường phổ thông
8


tham quan, thực hành sư phạm thường xuyên sẽ giúp các em bồi dưỡng tình cảm
nghề nghiệp, có ý thức tự điều chỉnh và rèn luyện bản thân cho phù hợp với nghề
nghiệp tương lai của mình.
Giảng viên cần phải tăng cường các hoạt động thực hành sư phạm, liên hệ
thực tế cho sinh viên khi giảng dạy các học phần thuộc khối kiến thức nghiệp vụ sư
phạm như: tìm hiểu môi trường giáo dục, quan sát sư phạm, tìm hiểu tâm lý lứa tuổi

học sinh, tìm hiểu công tác chủ nhiệm lớp, tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn, dự
giờ, làm bài tập nghiên cứu giáo dục, tổ chức các hoạt động tập thể, rèn luyện kĩ
năng xử lý các tình huống sư phạm, tham gia dạy thử nghiệm,…. Như vậy, ngay từ
năm thứ nhất, việc sinh viên được thường xuyên xuống trường phổ thông thực hành,
thực tế sẽ giúp các em nắm được các hoạt động dạy học, giáo dục trong nhà trường
phổ thông, hình dung được những nhiệm vụ, những công việc mà người giáo viên
phổ thông phải đảm nhiệm.
Mô hình này tạo cho sinh viên có cơ hội được làm quen nhiều hơn với công
việc của nghề dạy học, liên hệ giữa kiến thức trong nhà trường với thực tế giảng
dạy, giữa kiến thức ở bậc đại học với kiến thức ở bậc phổ thông, có điều kiện thể
nghiệm và vận dụng những gì tích lũy được ở trường đại học vào các hoạt động dạy
học cụ thể. Để làm được điều này, cần phải có sự liên thông, gắn kết chương trình
đào tạo của trường sư phạm và thực tế dạy học ở trường phổ thông, cả về chuyên
môn và nghiệp vụ, cả về lý thuyết lẫn thực hành.
2.2.2. Giảng viên sư phạm thăm lớp, dự giờ và giảng mẫu tại các trường phổ
thông
Mục đích của hoạt động thăm lớp, dự giờ của giảng viên là nhằm tìm hiểu
thực trạng về việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực của giáo viên phổ
thông, phương pháp học tập của học sinh; đồng thời quan sát, phỏng vấn giáo viên
phổ thông để tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc dạy và học. Kết thúc
công tác dự giờ, thăm lớp, giảng viên sư phạm cần tổ chức họp tổ bộ môn, phân tích
bài học, trao đổi, bình luận và rút kinh nghiệm các tiết dạy dự giờ và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả sinh hoạt tổ chuyên môn. Đặc biệt, giảng viên sư phạm
cần hướng dẫn giáo viên phổ thông về phương pháp (theo hướng nghiên cứu bài
học) và nội dung các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn (khung chương trình, đổi mới
9


phương pháp dạy học, sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học, dạy học phân
hóa, dạy học tích hợp, đổi mới kiểm tra đánh giá, dạy học những nội dung khó trong

chương trình,…).
Sau khi rút kinh nghiệm trong các tiết dạy dự giờ ở các trường phổ thông,
giảng viên sư phạm thực hiện giảng mẫu nhằm chuyển giao mô hình cho trường phổ
thông. Giáo viên phổ thông và sinh viên sư phạm cùng tham gia dự giờ giảng mẫu
của giảng viên và phân tích bài học, rút kinh nghiệm sau giờ dạy. Tóm lại, các
trường sư phạm cần có chủ trương yêu cầu giảng viên chuyên ngành phương pháp
giảng dạy phải dành ít nhất 10 tiết trong năm học để dự giờ, thăm lớp, giảng mẫu
và tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn với các trường phổ thông nhằm tăng cường
giao lưu, hợp tác, trao đổi chuyên môn giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng giáo
viên.
2.2.3. Mời giáo viên dạy giỏi ở trường phổ thông tham gia giảng dạy một số
chuyên đề ở trường sư phạm
Trường sư phạm cần phối hợp với các trường phổ thông để mời những giáo
viên dạy giỏi tham gia giảng dạy cho sinh viên sư phạm một số chuyên đề phục vụ
cho hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm như: kinh nghiệm làm giáo viên chủ
nhiệm; kinh nghiệm của giáo viên dạy giỏi; phương pháp thiết kế giáo án, sử dụng
đồ dùng dạy học hiệu quả; phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh; cách thức tổ
chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp,… Ngoài ra, giáo viên dạy giỏi ở
trường phổ thông cũng được mời đến để cùng giảng viên sư phạm thiết kế, xây
dựng và thực hiện những giờ giảng mẫu theo hướng đổi mới phương pháp dạy học
ngay tại giảng đường đại học.
2.3. Tham gia nghiên cứu khoa học giáo dục
Trường sư phạm cần tích cực phối hợp với các giáo viên phổ thông trong
nghiên cứu khoa học giáo dục, đặc biệt là trong các khâu: đề xuất, nghiên cứu thực
trạng (điều tra, quan sát, phỏng vấn), triển khai thực nghiệm và chuyển giao kết quả
của các đề tài nghiên cứu. Để tạo mối liên hệ gắn kết giữa việc nghiên cứu lý luận ở
trường đại học và tổ chức thực nghiệm ở các trường phổ thông, mang lại lợi ích cho
cả hai phía, các đề tài nghiên cứu ở trường sư phạm cần chú trọng vào giải quyết
các vấn đề bức xúc đặt ra ở trường phổ thông như: giúp đỡ học sinh yếu kém, thiết
10



kế các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học, hướng
dẫn học sinh tự học, thí điểm mô hình dạy học mới, nghiên cứu bài học,…
Hơn nữa, trường sư phạm cần thường xuyên mời giáo viên phổ thông tham
gia hướng dẫn các đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên nhằm tạo điều kiện cho
họ được tham gia nghiên cứu khoa học, tìm hiểu thực tiễn, đề xuất giải pháp và vận
dụng những sáng kiến kinh nghiệm trong việc nâng cao chất lượng dạy học và đào
tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Bên cạnh đó, trường sư phạm cũng cần
thường xuyên tổ chức các hội thảo khoa học chuyên đề với sự tham gia của giáo
viên phổ thông nhằm tìm hiểu và đề xuất các hướng nghiên cứu phù hợp với tình
hình thực tiễn dạy và học ở phổ thông.
3. KẾT LUẬN
Đào tạo giáo viên không chỉ là nhiệm vụ của trường sư phạm mà cần có sự
tham gia phối hợp của các trường phổ thông từ khâu xây dựng chương trình đào tạo,
tổ chức các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm đến khâu đánh giá chất lượng
đầu ra. Vì thế, trong chương trình đào tạo giáo viên, chỉ khi có sự tham gia tích cực,
nhiệt tình từ các trường phổ thông thì các hoạt động đào tạo nghiệp vụ sư phạm mới
thực sự có hiệu quả, giúp sinh viên phát triển các kĩ năng nghề nghiệp của mình.
Như vậy, các trường phổ thông không chỉ là điểm đến của các đợt thăm quan, thực
hành, thực tập sư phạm của sinh viên mà còn là đối tác chiến lược của trường sư
phạm trong việc xây dựng môi trường đào tạo nghiệp vụ sư phạm tích cực, có hệ
thống và có ảnh hướng quyết định đến chất lượng nhân cách người giáo viên tương
lai.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Hồng Quang, Nguyễn Danh Nam (2013). Tăng cường các hoạt động gắn

kết với trường phổ thông trong quá trình đào tạo giáo viên. Kỷ yếu Hội thảo khoa
học “Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các trường, khoa sư phạm với các trường phổ
thông và mầm non trong công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chuẩn bị triển khai
chương trình giáo dục sau 2015”. Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên.
[2]. Nguyễn Danh Nam (2013). Thực trạng hoạt động phát triển nghiệp vụ sư phạm
và giải pháp phát triển kĩ năng sư phạm cho sinh viên tại Trường Đại học Sư phạm
Thái Nguyên. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Xây dựng mô hình hoạt động của Trung
tâm Phát triển kĩ năng sư phạm cho sinh viên”. Trường Đại học Sư phạm – Đại học
Thái Nguyên.

12


GẮN KẾT GIỮA TRƢỜNG SƢ PHẠM VỚI TRƢỜNG MẦM NON,
PHỔ THÔNG - GIẢI PHÁP TRONG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƢỠNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC
Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lạng Sơn

1. SỰ CẦN THIẾT GẮN KẾT GIỮA TRƢỜNG SƢ PHẠM VỚI TRƢỜNG
MẦM NON, PHỔ THÔNG
Nói đến sự gắn kết giữa trường sư phạm với trường mầm non, phổ thông (cơ
sở giáo dục) là nói đến mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo GV và cơ sở sử dụng GV.
Các trường/khoa sư phạm là nơi cung cấp nguồn nhân lực, là nơi “tạo ra sản phẩm”,
còn các cơ sở giáo dục là “khách hàng tiêu thụ sản phẩm”.
Cơ sở giáo dục có quyền đòi hỏi được tuyển dụng những GV có năng lực
chuyên môn vững vàng, có phẩm chất nghề nghiệp và KNSP cần thiết đáp ứng vị trí
phân công công tác. Vì thế, các trường/khoa sư phạm cần phải bám sát những yêu
cầu thực tiễn của cơ sở giáo dục để thiết kế chương trình, nội dung đào tạo phù hợp
nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học, giáo dục của nhà trường trong thời kỳ hội nhập. Nói

cách khác, việc đào tạo nguồn nhân lực trong trường/khoa sư phạm với việc sử
dụng nguồn nhân lực này ở cơ sở giáo dục phải là một quy trình liên thông và khép
kín.
Tuy nhiên, điều này chưa được thực hiện tốt ở một số trường/khoa sư phạm,
dẫn đến tình trạng nhiều SV tốt nghiệp ra trường, đi dạy thì cơ sở giáo dục khi tiếp
nhận lại phải mất khá nhiều thời gian bồi dưỡng thêm về chuyên môn và một số kĩ
năng nghiệp vụ. Có thể nói, nội dung CTĐT ở các trường/khoa sư phạm chưa thật
sự bắt nhịp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay đồng thời chưa gắn với yêu cầu
tuyển dụng của cơ sở giáo dục. Hai bên chưa tìm được sự gắn kết về “chất lượng
đào tạo - tuyển dụng” mà xã hội hiện nay yêu cầu.
Để có được đội ngũ GV đạt chuẩn nghề nghiệp và trình độ, đáp ứng nhu cầu
của nhà trường phổ thông, thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học và giáo dục được
phân công thì giữa trường/khoa sư phạm và các cơ sở giáo dục phải tìm được “tiếng
nói chung” về chất lượng. Trường/khoa sư phạm, dù muốn hay không, phải thường
xuyên lấy ý kiến phản hồi từ phía các cơ sở tuyển dụng để tự điều chỉnh, đổi mới
13


nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Trường sư phạm phải xác định vị trí
của trường mầm non, phổ thông như là các cơ sở vệ tinh trong việc tổ chức thực tế,
thực hành nghề nghiệp. Nếu trường sư phạm nào đào tạo GV mà không có bất cứ
mối quan hệ nào với cơ sở giáo dục thì chắc chắn “sản phẩm” của họ không thể
được hoàn thiện.
Do vậy, sự gắn kết giữa trường/khoa sư phạm và cơ sở giáo dục đề cập ở đây
được hiểu là mối quan hệ hai chiều và qua lại giữa hai bên. Nếu một bên không thiện
chí hợp tác với tinh thần tự giác, trách nhiệm cao chắc chắn mối quan hệ đó sẽ không
bền vững và công việc hai bên trao đổi, hợp tác sẽ kém hiệu quả.
2. MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA SỰ GẮN KẾT GIỮA TRƢỜNG SƢ PHẠM
VỚI CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG, MẦM NON
2.1. Công tác đào tạo giáo viên

2.1.1. Đổi mới nội dung, CTĐT ở trường sư phạm
Cần phải điều chỉnh sao cho phù hợp theo định hướng nội dung, chương
trình SGK của CTĐT mầm non/phổ thông, tức là theo mô hình người GV mà thực
tiễn đòi hỏi.
Ở các trường sư phạm, SV được học rất nhiều kiến thức: từ Tâm lí học, Giáo
dục học… đến các môn học chuyên ngành, các môn học về PPDH bộ môn... Các
môn học ở trường sư phạm hiện nay còn nặng về lý thuyết, yếu thực hành. Cần
giảm tính lý thuyết hàn lâm để tăng cường tính thực tiễn, phải áp sát hơn nữa CTĐT
ở trường sư phạm với chương trình dạy học ở trường phổ thông.
Hầu hết SV khi đến các trường phổ thông thực tập mới nhận ra rằng một số
môn học ở trường sư phạm không giúp họ được nhiều trong việc nắm bắt tâm lí HS,
trong việc xử lí các tình huống dạy học và giáo dục, trong công tác chủ nhiệm, giáo
dục kỷ luật tích cực trong việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, trong việc
lập một kế hoạch công tác,…
Chuẩn GV phổ thông đã được ban hành. CTĐT GV căn cứ vào chuẩn này để
xây dựng các tiêu chí đầu ra. Tuy nhiên, giữa các tiêu chí lý thuyết và tiêu chí thực
tế là cả một khoảng cách.
Thời gian thực tập giữa khoá và tốt nghiệp là quá ngắn, SV chưa đủ tự tin để
chủ động thực hiện một cách sáng tạo, linh hoạt các nhiệm vụ dạy học và giáo dục ở
14


cơ sở thực tập. SV phải được “hình dung” sớm hơn chức năng, nhiệm vụ của người
GV phổ thông trong thực tiễn để sớm có sự định hướng rèn luyện ngay từ khi bước
chân vào trường sư phạm.
2.1.2. Đổi mới nội dung, CTĐT của bộ môn PPDH theo hướng bám sát nội dung,
chương trình SGK phổ thông
Một tình trạng tương đối phổ biến đó là giảng viên dạy học phần PPDH dành
không nhiều thời gian dạy về phương pháp, trái lại, họ thiên về dạy lại các kiến thức
chuyên ngành. Vì vậy, mỗi khoa đặc thù trong đào tạo GV ở trường sư phạm cần

phải điều chỉnh lại CTĐT. Đặc biệt, bộ môn PPDH của mỗi ngành cần phải đổi mới
nội dung đào tạo bám sát vào các yêu cầu thực tế của trường phổ thông.
Giảng viên bộ môn PPDH cần xuống trường phổ thông, nắm vững chương
trình dạy và học ở phổ thông, nắm vững các thay đổi về phương pháp, cập nhật
thông tin về các nhiệm vụ cụ thể của người GV về dạy học, về hồ sơ sổ sách,… để
xây dựng nội dung đào tạo ở trường sư phạm thiết thực hơn, hữu ích hơn.
2.1.3. SV cần bám sát giáo dục phổ thông một cách thường xuyên ngay từ khi
vào năm thứ nhất cho đến hết năm cuối ở trường sư phạm
Dạy học là một nghề tạo ra sản phẩm đặc biệt. Vì vậy, quá trình học nghề
không thể thoát ly thực tế dạy học. Ngay từ năm thứ nhất, trường sư phạm nên bố trí
cho SV có khoảng thời gian nhất định tiếp xúc với giáo dục phổ thông. Mục đích là
để SV làm quen với giáo dục phổ thông với tư cách người GV. Từ những quan sát
ban đầu, SV sẽ xác định cho mình những yêu cầu rèn luyện để trở thành một người
GV thực thụ.
Sang năm thứ hai, vẫn tiếp tục cho SV xuống trường phổ thông nhưng nội
dung thay đổi: SV dự giờ để nắm được yêu cầu và cách thức tiến hành một bài dạy.
SV tham gia làm công tác chủ nhiệm để nắm được các nội dung cần phải thực hiện
và cách thức thực hiện các nội dung đó, chọn một số SV có năng lực dạy thử rút
kinh nghiệm. Với các nội dung này, SV bước đầu đã rèn luyện được một số phẩm
chất, năng lực cần thiết của người GV: tự tin trước HS, ý thức được vị trí, vai trò
của mình trong nhà trường, trong việc giúp đỡ, giáo dục HS. Bước đầu nắm được
yêu cầu, nội dung và cách thức thực hiện các thao tác nghề nghiệp.

15


Bước vào năm thứ ba, SV xuống trường phổ thông để làm công tác chủ
nhiệm, dự giờ và chuẩn bị soạn bài để dạy thử một số tiết. Ở năm thứ ba này, SV đã
cơ bản nắm được các hoạt động dạy học, giáo dục trong nhà trường phổ thông, hình
dung được những nhiệm vụ, những công việc mà người GV phổ thông phải đảm

nhiệm. Thời gian này, SV đã tích luỹ cho mình bản lĩnh nghề nghiệp, các thao tác
nghề nghiệp, các kĩ năng dạy học - giáo dục… từ các đợt xuống phổ thông trước đó.
Có thể khẳng định, việc đưa SV tới các trường phổ thông sớm và thường
xuyên ngay trong những năm học tại các trường sư phạm là một việc làm quan
trọng, góp phần đào tạo những GV có trình độ chuyên môn vững vàng, có năng lực
sư phạm, có bản lĩnh nghề nghiệp, yêu nghề,… đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông.
2.2. Công tác bồi dƣỡng GV các trƣờng phổ thông
Thực tiễn cho thấy, nhu cầu tiếp tục học tập, bồi dưỡng để hoàn thiện năng
lực chuyên môn, để hoàn thành nhiệm vụ dạy học của GV ở các trường phổ thông là
rất lớn. Họ muốn được cập nhật thông tin khoa học từ trường sư phạm - nơi họ đã
từng được đào tạo. Họ mong muốn có những sự đổi mới về nội dung và phương
pháp, có những lời giải đáp cho những thắc mắc chuyên môn nảy sinh trong quá
trình dạy học từ các nhà nghiên cứu, các tác giả viết SGK, sách tham khảo mà họ
đang sử dụng hàng ngày.
Các đợt TTSP chính là một cơ hội cho sự gắn kết giữa trường sư phạm và
trường phổ thông. Tuy nhiên, sự gắn kết mới chỉ diễn ra một chiều: SV nhận được
sự hướng dẫn từ GV phổ thông về các hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ
thông. GV phổ thông mong muốn khi SV về trường thực tập nên có giảng viên đi
cùng để ngoài việc giúp đỡ SV trong chuyên môn cũng như trong sinh hoạt hàng
ngày tại nhà trường, họ muốn có tiếng nói góp ý của giảng viên.
GV phổ thông muốn trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chuyên đề về
đổi mới PPDH, về công tác chủ nhiệm, về các vấn đề liên quan đến dạy học và giáo
dục nói chung và có mời GV phổ thông cùng tham gia để trường sư phạm có dịp
lắng nghe tiếng nói của phổ thông, còn GV phổ thông thì được cập nhật thông tin
khoa học mới.

16



GV phổ thông đề nghị trước khi đưa SV về trường thực tập, trường sư phạm
nên cử người về trường phổ thông trước tìm hiểu chương trình SGK, tìm hiểu cơ sở
vật chất của trường, tìm hiểu đội ngũ GV để phân công SV về thực tập hợp lí, tránh
tình trạng có môn học nhà trường phổ thông còn thiếu GV nhưng số lượng giáo sinh
về thực tập nhiều nên nhà trường phải phân công cả người chưa đạt chuẩn hướng
dẫn. Về phía Ban Giám hiệu trường phổ thông, họ muốn hàng năm trường sư phạm
mời các Hiệu trưởng có nhận SV về thực tập dự họp để bàn bạc cụ thể cách thức
phối kết hợp làm thế nào để chất lượng đào tạo GV đạt hiệu quả cao nhất.
Thiết nghĩ, các đề nghị trên của trường phổ thông hoàn toàn hợp lí, nếu được
thực hiện, chắc chắn sẽ tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa trường sư phạm và trường
phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo SV của trường sư phạm cũng như
chất lượng học tập, bồi dưỡng của GV phổ thông.
3. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GẮN KẾT GIỮA TRƢỜNG CĐSP LẠNG SƠN
VỚI CÁC TRƢỜNG MẦM NON, PHỔ THÔNG
Để nâng cao chất lượng đào tạo GV, trong những năm qua Trường đã không
ngừng tìm ra những giải pháp tích cực nhằm tăng cường trang bị kĩ năng nghề
nghiệp cho SV đồng thời với việc trang bị kiến thức chuyên môn, giảm bớt kiến
thức hàn lâm không cần thiết. Với chức năng là bộ phận tham mưu cho Ban Giám
hiệu nhà trường về đào tạo - bồi dưỡng, Phòng Quản lý đào tạo đã tích cực đề xuất
cho nhà trường những sáng kiến thiết thực và mang tầm chiến lược về giáo dục đào
tạo. Có thể nêu một số hoạt động cụ thể sau:
- Trường CĐSP đã tham gia tích cực và đầy đủ các hội nghị, hội thảo, đợt tập
huấn do Sở GD & ĐT tổ chức có mời giảng viên sư phạm tham gia theo các bậc
học.
- Nhà trường đã ký văn bản với Phòng Giáo dục thành phố Lạng Sơn cho
phép cán bộ, giảng viên và SV sư phạm xuống các trường mầm non, phổ thông tiến
hành thực tế, thực hành, thực tập trong quá trình đào tạo. Hai bên đã xây dựng hệ
thống trường thực hành để tạo thuận lợi cho giảng viên, SV sư phạm thường xuyên
trao đổi với trường phổ thông về hoạt động giảng dạy, hoạt động giáo dục, trong đó
một số trường được coi là những cơ sở vệ tinh. Giảng viên trường CĐSP đã tổ chức

cho SV xuống các trường thực tế làm quen công tác giáo dục, hoạt động ngoài giờ
17


lên lớp, dự giờ GV phổ thông (Khoa Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Mầm non, tổ
Tâm lý học - Giáo dục học); phối hợp tổ chức ngoại khoá, thi làm đồ dùng dạy học
với các trường Mầm non trên địa bàn thành phố (Khoa Giáo dục Mầm non) gắn liền
với nội dung CTĐT.
- Tổ chức các hội thảo “Đảm bảo chất lượng đào tạo ở trường cao đẳng”,
“Nâng cao chất lượng kĩ năng nghề nghiệp” có mời các trường mầm non, phổ thông
tham gia viết bài, phát biểu ý kiến.
- Tập huấn, phổ biến cho SV nắm rõ các phong trào đang diễn ra ở phổ
thông: “Trường học thân thiện, HS tích cực”, “Thư viện thân thiện”,…
- Phối hợp với Phòng Giáo dục, các trường mầm non, phổ thông xây dựng
chương trình TTSP đảm bảo chu trình khép kín từ khâu lập kế hoạch, triển khai
thực hiện đến khâu đánh giá, rút kinh nghiệm. Trong nhiều năm qua, được sự chỉ
đạo của Sở GD&ĐT, Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Quản lý đào tạo đã không
ngừng cải tiến công tác thực tế, thực tập cho SV. Điểm rõ nét nhất là nhà trường đã
giao cho SV tự quản đoàn thực tập tốt nghiệp (không có giảng viên sư phạm đi theo
quản lý trực tiếp). Phòng Quản lý đào tạo đã tập huấn cho các trưởng/phó đoàn SV
về nghiệp vụ quản lý đoàn; phối hợp với Ban chỉ đạo các cơ sở thực tập quản lý và
triển khai các đợt thực tập tốt nghiệp một cách hiệu quả. Qua kiểm tra của nhà
trường và đánh giá của Ban chỉ đạo thực tập cấp huyện, thành phố và các trường
mầm non, phổ thông thì sự đổi mới này không những không giảm đi chất lượng
thực tập mà đã tạo điều kiện cho các em phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt
trong việc thực hiện công việc được giao. Để thực hiện được nhiệm vụ này giữa
trường sư phạm và phổ thông đã tìm được “tiếng nói chung” trong việc rèn kĩ năng
nghề nghiệp cho SV bằng thực tế.
- Tổ chức cho cán bộ, giảng viên đi thực tế các cơ sở giáo dục: Địa bàn đi
thực tế của cán bộ, giảng viên rất đa dạng, không chỉ bó gọn ở địa bàn thành phố và

các cơ sở có SV thực tập mà đã mở rộng ra các Phòng Giáo dục khác, các trường
thuộc các huyện. Nội dung thực tế phong phú hơn, thiết thực hơn tránh việc xuống
phổ thông mang tính hình thức như trước đây. Nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên khi
tham gia thực tế là:
+ Tìm hiểu về các hoạt động của trường mầm non, phổ thông.
18


+ Dự giờ GV phổ thông, trao đổi kinh nghiệm.
+ Giúp đỡ SV thực tập.
+ Tìm hiểu nhu cầu của các trường mầm non, phổ thông để xây dựng chuyên
đề bồi dưỡng GV về đổi mới phương pháp giảng dạy, kĩ năng nghề nghiệp, kĩ năng
quản lý nhà trường,…
Việc đẩy mạnh các hoạt hoạt động nhằm gắn kết công tác đào tạo - bồi
dưỡng giữa trường sư phạm với trường mầm non, phổ thông đã khắc phục đáng kể
tình trạng “sư phạm tụt hậu so với phổ thông” như nhiều người vẫn nghĩ trước đây.
4. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
4.1. Quán triệt cho cán bộ, giảng viên tầm quan trọng của việc gắn kết giữa
trƣờng sƣ phạm với phổ thông trong việc đào tạo - bồi dƣỡng
Ngay từ đầu năm học, với chức năng tham mưu đào tạo cho Ban Giám hiệu
nhà trường, Phòng Quản lý đào tạo đã xây dựng một số văn bản yêu cầu các khoa/tổ
trong trường đưa các hoạt động gắn kết với phổ thông vào kế hoạch hoạt động
nghiêm túc của đơn vị. Từng cá nhân giảng viên, tổ bộ môn phải xây dựng chương
trình hành động cụ thể và phải lượng hóa được kết quả sau từng giai đoạn, năm học.
Đặc biệt trong năm học 2012 - 2013, Trường đã có văn bản đề nghị các
Phòng Giáo dục các địa phương tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên của trường
được tham quan thực tế ở các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nếu có
nhu cầu.
4.2. Tăng cƣờng đƣa SV thực tế và tham gia các hoạt động ở trƣờng phổ thông
ngay từ năm thứ nhất

Phòng Quản lý đào tạo đã chỉ đạo các khoa/tổ bộ môn xây dựng kế hoạch
cho SV tham gia thực tế phổ thông trong quá trình học tập học phần nào đó. Giảng
viên bộ môn lập kế hoạch cụ thể, chi tiết chương trình của học phần; quyết định
xem phần nào cho HS xuống phổ thông học tập, thực tế là hợp lý và hiệu quả. Đây
là biện pháp có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành các KNSP và phương pháp
giảng dạy cho SV. Ở trường sư phạm, SV ngoài việc được trang bị những kiến thức
mang tính hàn lâm thì “học phải đi đôi với hành” mới đạt hiệu quả cao nhất.
Thực tế ở các trường sư phạm, công tác này cũng đã được tiến hành song vẫn
bộc lộ nhiều hạn chế như: chỉ tập trung chủ yếu cho SV cao đẳng năm thứ hai và
19


thứ ba, số SV cao đẳng năm thứ nhất và số HS học trung cấp được tham gia thực tế
ở phổ thông là rất ít.
4.3. Tăng cƣờng công tác thực tế các cơ sở giáo dục
Ngay từ đầu năm, khi duyệt kế hoạch, Trường đã yêu cầu các đơn vị đồng
thời xây dựng kế hoạch thực tế các cơ sở giáo dục. Trong đó yêu cầu mỗi giảng viên
phải thực hiện ít nhất 02 lần/năm, không được trùng ở một cơ sở và hạn chế tối đa
trường hợp trùng lặp về nội dung thực tế. Mỗi giảng viên xây dựng kế hoạch riêng,
như dự kiến về thời gian, địa điểm và nội dung đi thực tế. Sau mỗi lần thực tế viết
báo cáo thu hoạch có xác nhận của đơn vị chủ quản. Thông qua thực tế các cơ sở
giáo dục, cán bộ - giảng viên nhà trường được tiếp cận các hoạt động ở trường phổ
thông, đặc biệt giảng viên có cơ hội trao đổi về chuyên môn, học tập kinh nghiệm
của GV phổ thông.
4.4. Xây dựng chuyên đề bồi dƣỡng GV phổ thông, mầm non
Trên cơ sở tìm hiểu thực tế tại các Phòng Giáo dục, các trường mầm non,
tiểu học, THCS, vận dụng đa dạng phương pháp điều tra nghiên cứu, các khoa/tổ bộ
môn và giảng viên của trường CĐSP đã nắm được nhu cầu của cán bộ, GV các
Phòng Giáo dục, GV các trường để từ đó đề xuất với trường sư phạm xây dựng hệ
thống các chuyên đề bồi dưỡng GV.

Mặt khác, do có định hướng ngay từ đầu năm học là mỗi tổ bộ môn phải xây
dựng được ít nhất một chuyên đề bồi dưỡng nên các chuyên đề bồi dưỡng đề xuất
đã bám sát nhu cầu của cán bộ, GV các nhà trường. Nhiều chuyên đề có chất lượng
rất tốt có thể triển khai bồi dưỡng đại trà cho GV mầm non, tiểu học, THCS trên
phạm vi toàn tỉnh.
4.5. Tổ chức hội nghị, hội thảo, chuyên đề có sự tham gia của các trƣờng phổ
thông
Một trong những biện pháp gắn kết giữa trường sư phạm và phổ thông là tổ
chức các hội nghị, hội thảo, chuyên đề đề có sự tham gia của cả hai bên để cùng
trao đổi, bàn bạc những vấn đề cùng quan tâm, đặc biệt là chất lượng giáo dục HS
và chất lượng đào tạo GV.
Các hội thảo: “Đảm bảo chất lượng ở trường sư phạm”, “Thực trạng kĩ năng
nghề nghiệp của SV sư phạm”… đã nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp quý báu
20


của cán bộ, GV các Phòng Giáo dục, GV mầm non, phổ thông. Thực tế đã cho thấy
việc vận dụng các biện pháp này đã mang lại những hiệu quả nhất định trong việc
gắn kết giữa trường CĐSP Lạng Sơn với các trường mầm non, phổ thông trong thời
gian hai năm vừa qua.
5. KẾT LUẬN
Trong công tác đào tạo và bồi dưỡng GV, việc gắn kết chặt chẽ giữa trường
sư phạm với trường phổ thông là việc làm rất cần thiết. Quá trình đào tạo không thể
thoát ly với quá trình thực tế ở trường phổ thông. Người GV phải thường xuyên tự
học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao chất lượng giảng dạy.
Đây là nhiệm vụ quan trọng trong suốt cuộc đời dạy học của người GV. Và địa chỉ
tin cậy để người GV tham gia bồi dưỡng chính là trường sư phạm - nơi tập trung
những nhà nghiên cứu, những người thầy luôn tâm huyết và trách nhiệm với sự
nghiệp đào tạo GV nói riêng, với công cuộc đổi mới nền giáo dục nước nhà nói
chung.


21


HỢP TÁC VỚI TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRONG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
TOÁN TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Cao Thị Hà
Trường THPT Thái Nguyên

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo giáo viên (GV) là một công việc quan trọng đối với mỗi quốc gia,
việc đào tạo được những người GV tốt sẽ là tiền đề vô cùng quan trọng để quốc gia
đó đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Không giống như quá trình đào tạo các ngành khác đôi khi chỉ bó gọn trong môi
trường ĐH, đào tạo GV chỉ hoàn thiện khi sinh viên (SV) có điều kiện thực hành
nghề nghiệp trong môi trường phổ thông. Hay nói cách khác, nhà trường phổ thông
là khâu cuối cùng và vô cùng quan trọng trong việc hoàn thiện nhân cách và năng
lực của người GV trong tương lai. Trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo để đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn đang là yêu cầu bức thiết đối với giáo dục đại học. Vậy,
quá trình đào tạo GV trong các trường ĐHSP cần phải thay đổi thế nào để có thể
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giáo dục, trường phổ thông cần có phối hợp như
thế nào với các trường ĐHSP trong công tác đào tạo GV? Trong bài viết này chúng
tôi xin đưa ra kinh nghiệm đào tạo GV của một số nước, từ đó một số thực trạng
trong công tác đào tạo GV tại trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên để có những gợi ý
cho công tác đào tạo của trường trong giai đoạn tới.
2. SỰ ĐÓNG GÓP CỦA CÁC TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRONG CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở MỘT SỐ NƢỚC
2.1. Đào tạo GV tại Hoa Kỳ
Ở Hoa kỳ hiện nay vẫn đang tồn tại hai loại hình đào tạo GV (ĐTGV), đó là
đào tạo 4 năm và đào tạo 5 năm (Nguồn: [1]). Hình thức đào tạo 4 năm, trong

chương trình đào tạo của mình, SV phải thực hành giảng dạy trong tổng khối lượng
là 13 tuần trong một trường phổ thông, thời gian này là tương đương với một học
kỳ. Trong hình thức đào tạo 5 năm, sinh vien có thời gian thực hành giảng dạy trong
cả 1 năm (gấp đôi thời gian thực hành giảng dạy của SV trong chương trình 4 năm).
Trong thời gian 1 năm thực hành giảng dạy tại trường phổ thông, SV bắt đầu phối
hợp công việc với người GV trước khi bắt đầu một năn học, học cách tổ chức lớp
22


học, chuẩn bị kế hoạch bài học và giáo án, gặp gỡ học sinh vào ngày đầu tiên của
năm học, có những kinh nghiệm đầu tay trong việc tổ chức các hoạt động bổ túc cho
học sinh thường diễn ra đầu năm học. Cuối cùng, SV làm việc với GV hướng dẫn
để kết thúc năm học. Với thời gian thực tập 1 năm ở trường phổ thông, SV có rất
nhiều kinh nghiệm thực hành giảng dạy và giáo dục học sinh, họ có thể đã trở thành
“người nhà” của trường phổ thông chứ không phái là “người khách” chỉ đảo qua
một thời gian ngắn (nguồn [1]).
2.2. Đào tạo GV tại Đức
Chương trình đào tạo GV tại Đức dựa theo quá trình Bologna (không gian
giáo dục châu Âu), theo mô hình này quá trình đào tạo GV tại Đức được chia ra làm
2 bậc như sau:
- Bậc Bachelor: Thời gian đào tạo từ 6 – 8 học kì, tương đương với 160 –
240 tín chỉ.
- Bậc Master: từ 2 – 4 học kì, tương đương với 60 – 120 tín chỉ.
Tuy nhiên, nếu tốt nghiệp bậc Bachelor trong chương trình SV thì chưa đủ
điều kiện để trở thành GV (mặc dù trong chương trình bachelor đã có nội dung về
khoa học giáo dục và thực tiễn phổ thông), nghĩa là người tốt nghiệp bachelor có thể
đi tìm việc làm khác ở thị trường lao động theoo chuyên ngành mà học đã theo học.
Muốn trở thành GV họ phải học hết bậc Master sau đó đăng kí vào giai đoạn đào
tạo GV tập sự (kéo dài từ 12 – 18 tháng). Đào tạo GV tập sự được gọi là giai đoạn 2
của đào tạo GV sau giai đoạn đào tạo đại học. Sau kết thúc giai đoạn đào tạo đại

học, những người tốt nghiệp các ngành đào tạo GV được tuyển vào các cơ sở đào
tạo GV tập sự. Việc đào tạo GV tập sự được thực hiện tại các cơ sở đào tạo GV tập
sự của các bang chứ không thuộc vào các trường Đại học (nguồn [ 1]). Chương
trình đào tạo GV tập sự bao gồm: Xêmina chính (có nội dung của khoa học giáo
dục, đặc biệt là lí luận DH đại cương); các xêmina chuyên ngành (đề cập đến các
đối tượng của thực tiễn DH chủ yếu dưới góc độ của lý luận DH chuyên ngành);
đào tạo thực tiễn nhà trường, ở đó các GV thực tập được sự hướng dẫn của các GV
của trường. Quá trình đào đạo thực tiễn nhà trường gồm 12 giờ mỗi tuần bao gồm
các công việc: dự giờ, lên lớp có hướng dẫn, dạy độc lập cũng như một số nhiệm vụ
khác liên quan đến tổ chức giờ học và các công việc của trường phổ thông.
23


2.3. Đào tạo GV tại Australia
Trước năm 1945, việc sở hữu một tấm bằng đại học về một bộ môn cụ thể
nằm trong diện chương trình đào tạo của nhà trường phổ thông được coi là điều
kiện đủ để trở thành GV trung học ở Australia. Ngày nay, việc đào tạo GV trung
học của Australia đã đi vào chính thống, chương trình đào tạo được thiết kế theo
dạng đào tạo tiếp nối. Nghĩa là nó được thực hiện sau khi hoàn thành một tấm bằng
đại học chuẩn (thường là 3 năm) về ít nhất hai môn nằm trong diện giảng dạy tại
trường phổ thông (chẳng hạn Toán học và khoa học tự nhiên; vật lí và hóa học ,,,).
Chương trình đào tạo nối tiếp này được thực hiện ở các trường ĐHSP hoặc cũng có
thể là các trường ĐH khác. Nó dẫn đến trao bằng đại cương bậc đại học sau một
năm. Để được công nhận tốt nghiệp SV cần thể hiện năng lực giảng dạy của mình
trong ít nhất là hai môn nằm trong chương trình giáo dục phổ thông ở tất cả các lớp
của bậc học này.
Tuy nhiên, một vài thập kỉ gần đây, mô hình đào tạo GV của Đại học
Macquarie- bang New South Wales (mô hình TEP) đang là một trong các mô hình
đào tạo GV thành công không chỉ ở Australia mà còn trên cả thế giới. TEP đã thiết
lập ba hình thức liên kết quan trọng để hỗ trợ cho cách tiếp cận “GV – học giả”: (1)

Quan hệ giữa các học giả về giáo dục và học giả các ngành khác trong toàn trường;
(2) Quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng giáo dục, đặc biệt là sở Giáo dục New
South Wales, cơ quan hỗ trợ tuyển dụng hàng đầu để GV vào làm việc tại các
trường phổ thông của bang; (3) Quan hệ giữa SV và các GV lão luyện ở trường phổ
thông và những giảng viên chịu trách nhiệm thực hiện các bộ môn chuyên ngành
trong chương trình giảng dạy của TEP (nguồn [1]). Đặc biệt, sự tồn tại và phát triển
của mối liên kết giữa SV với các GV lão luyện của trường phổ thông và các giảng
viên chịu trách nhiệm giảng dạy các môn chuyên ngành trong chương trình đóng vai
trò sống còn của chương trình TEP hiện nay. Theo đó, một số lượng nhỏ GV phổ
thông đã được thuyên chuyển sang trường ĐH trong khoảng thời gian khoảng 3
năm để hỗ trợ cho những kinh nghiệm thực hành giảng dạy tại trường phổ thông,
cung cấp những kinh nghiệm làm việc tại trường phổ thông cập nhật, thích ứng cho
SV. Trong phạm vi các trường phổ thông cũng có một sự thiện chí và cam kết duy
trì mối quan hệ làm việc với các giáo sinh và đội ngũ nhân sự thực hiện TEP.
24


×