Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại từ thực tiễn tại ngân hàng cổ phần ngoại thương việt nam (vietcombank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 105 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CAO TH THY

PHáP LUậT Về Xử Lý Nợ XấU
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Từ THựC TIễN TạI
NGÂN HàNG Cổ PHầN NGOạI THƯƠNG VIệT NAM (VIETCOMBANK)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

CAO TH THY

PHáP LUậT Về Xử Lý Nợ XấU
CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI Từ THựC TIễN TạI
NGÂN HàNG Cổ PHầN NGOạI THƯƠNG VIệT NAM (VIETCOMBANK)
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. NGUYN TRNG IP

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Cao Thị Thúy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ
NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ............................. 8
1.1.

Một số vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thƣơng mại ......... 8


1.2.

Một số vấn đề lý luận về pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân
hàng thƣơng mại ............................................................................. 22

1.3.

Kinh nghiệm quốc tế trong việc xử lý nợ xấu .............................. 39

1.3.1.

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Malaysia .......................................... 40

1.3.2.

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Hàn Quốc ........................................ 42

1.3.3.

Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của Thái Lan .......................................... 43

1.3.4.

Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ........................................ 45

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM
(VIETCOMBANK) ......................................................................... 47
2.1.


Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thƣơng mại .... 47

2.1.1.

Tình hình pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại ....... 47

2.1.2.

Một số tồn tại, hạn chế trong pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân
hàng thương mại ............................................................................... 49


2.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng
Thƣơng mại cổ phần Ngoại thƣơng Việt Nam (Vietcombank) ..... 57

2.2.1.

Tình hình nợ xấu tại Ngân hàng Vietcombank ................................. 57

2.2.2.

Thực trạng hoạt động xử lý nợ xấu tại Ngân hàng Vietcombank ........ 60

2.2.3.

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại Ngân
hàng Vietcombank ............................................................................ 69


Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM ......................................................................... 74
3.1.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu
tại các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam ................................... 74

3.1.1.

Một số định hướng trong việc giải quyết nợ xấu tại các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam............................................................ 74

3.1.2.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại
các ngân hàng thương mại ở Việt Nam ............................................ 75

3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết nợ
xấu tại ngân hàng Vietcombank .................................................... 84

KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 95



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BIS

Ngân hàng thanh toán quốc tế

DATC:

Công ty mua bán nợ Việt Nam

DNNN:

Doanh nghiệp Nhà nước

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

TCTD:

Tổ chức tín dụng

VAMC:

Công ty Quản lý tài sản Việt Nam


Vietcombank:

Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Bảng phân tích chất lượng dư nợ tín dụng từ năm

Bảng 2.2:

2009 – 2014

59

Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu từ năm 2009 - 2014

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đổi mới chuyển sang mô hình hai cấp, hệ thống ngân hàng Việt

Nam phát triển nhanh chóng và từng bước hội nhập quốc tế, phát huy vai trò
kênh dẫn vốn lưu thông trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã có những đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên cùng với bước phát triển đó, hoạt động của hệ thống ngân
hàng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro nguyên nhân là do tác động của các nhân tố
bên ngoài như bất ổn kinh tế vĩ mô, suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính
thế giới, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản suy giảm... và các
nhân tố bên trong như quản trị rủi ro kém, qui trình tín dụng chưa hoàn chỉnh,
đầu tư mạo hiểm cao, năng lực và đạo đức của nhân viên chưa đáp ứng được
yêu cầu, sở hữu chéo... Có thể nói, bên cạnh những rủi ro về lãi suất, hối đoái,
đạo đức... thì rủi ro về nợ xấu là vấn đề nghiêm trọng, cần được xử lý hiệu
quả trong điều kiện hiện nay.
Nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của các
tổ chức tín dụng, từ đó có thể thấy được sức khỏe tài chính, kỹ năng quản trị
rủi ro của tổ chức tín dụng đó. Trên thực tế, hoạt động kinh doanh ngân hàng
không thể tránh khỏi nợ xấu, nhưng để nợ xấu tồn tại quá cao và kéo dài là
vấn đề nghiêm trọng cần phải giải quyết. Nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến tổ
chức tài chính bị thua lỗ và giảm lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến uy tín của tổ chức tín dụng. Tình trạng này kéo dài sẽ làm
tổ chức tín dụng bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng. Do đó, việc nhận diện nợ xấu và xử lý
nợ xấu là một trong những vấn đề quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống tài
chính. Làm thế nào để hạn chế, quản lý và xử lý được nợ xấu là một đề tài mà

1


các ngân hàng đã và đang nghiên cứu nhằm hoàn thiện trong điều kiện mới.
Hiện nay có nhiều điểm bất cập trong quá trình xử lý nợ xấu ngân hàng, đặc
biệt là ở khối ngân hàng thương mại nhà nước. Quy định về lộ trình, các biện

pháp xử lý nợ và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu, chưa hợp lý và
các văn bản chuyên ngành còn khá cứng nhắc, không phù hợp với thực tiễn.
Ngân hàng Vietcombank là ngân hàng hàng đầu Việt Nam với vai trò
tiên phong trong việc thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất, góp phần ổn định thị
trường tiền tệ, kinh tế vĩ mô. Ngân hàng Vietcombank cũng là ngân hàng có
hoạt động kinh doanh tương đối ổn định, có lợi thế về vốn, thế mạnh về hoạt
động dịch vụ và kinh doanh thẻ. Bên cạnh đó Vietcombank có quan điểm thận
trọng trong việc phân loại nợ xấu và khá quyết liệt trong công tác xử lý nợ xấu.
Theo đánh giá của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng Vietcombank đang giữ
một vị thế rất tốt trên thị trường bởi những kết quả tăng trưởng cao, vững vàng
trong khi tình trạng nợ xấu khá thấp lại được xử lý rất thận trọng và hiệu quả.
Chính vì vậy, để có đủ cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam thì việc
nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật về xử lý nợ xấu là hết sức cần thiết.
Đặc biệt, nghiên cứu thực tiễn xử lý nợ xấu tại một ngân hàng lớn, có bề dày
lịch sử như Vietcombank là rất có ý nghĩa, nhằm đưa ra các giải pháp nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng này.
2. Tình hình nghiên cứu
Xử lý nợ xấu ngân hàng là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Mỗi nhà khoa học có một cách khai thác đề tài ở những góc độ khác nhau. Ví
dụ: Luận văn Tiến sĩ Nguyễn Thị Hoài Phương (2013) “Quản lý nợ xấu tại
ngân hàng thương mại Việt Nam” – Đại học kinh tế Quốc dân; Luận văn thạc
sĩ Tài chính và ngân hàng Đặng Thị Thanh Nga (2014) “Nợ xấu tại Ngân
hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” – Đại học Kinh tế -

2


ĐHQGHN; một số bài viết trên báo, tạp chí như: “Những điểm nghẽn cần
giải quyết để xử lý nợ xấu một cách triệt để và có hiệu quả” - Theo Tạp chí

Nghiên cứu khoa học kiểm toán số 71 (Tháng 9/2013); “Nợ xấu – một số thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp” của Ngô Minh Châu, Tổng giám đốc Ngân
hàng thương mại cổ phần Phương Nam; “Cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp trong xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại Việt Nam” của TS.
Nguyễn Thị Phương Lan, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học Ngân
hàng; “Giải quyết nợ xấu – vấn đề mấu chốt trong tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng” của nhóm tác giả Trung tâm thông tin tư liệu số 1/2013;.... Các công
trình nghiên cứu trên đã phân tích rất nhiều yếu tố và tìm hiểu dưới nhiều góc
độ nhưng đa phần đều dừng ở góc độ nghiệp vụ của ngành ngân hàng, chưa đi
sâu về các khía cạnh pháp luật. Cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề xử lý nợ xấu dưới góc độ pháp luật như Luận văn thạc sĩ Phạm Kim Thoa
chuyên ngành Luật kinh tế “Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại nhà nước ở Việt Nam” (năm 2007) – Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, Luận văn Thạc sĩ Đặng Thị Thanh Nga chuyên ngành luật kinh tế “Nợ
xấu tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam” (năm 2014),
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hương chuyên ngành Luật kinh tế “Pháp
luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
ở Việt Nam” (năm 2012) đi sâu vào phân tích những vấn đề pháp lý trong
hoạt động vay của NHTM, qua đó luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ
vốn vay trong hoạt động cho vay của NHTM.... Tuy nhiên các đề tài nghiên
cứu chủ yếu mang tính hệ thống tổng quát, toàn diện chưa đi sâu tìm hiểu cụ
thể từng trường hợp ngân hàng cụ thể, hoặc có đề tài chỉ nghiên cứu một vấn
đề trong nhóm các giải pháp xử lý nợ xấu; cũng có công trình nghiên cứu từ
rất lâu, số liệu cũ. Chính vì vậy, dù ý thức được tầm quan trọng của công tác

3


xử lý nợ, nhưng do luật pháp trong vấn đề này còn thiếu và yếu nên việc xử lý

nợ chưa mang lại kết quả tốt đẹp theo như mong muốn của các bên có liên
quan. Ở góc độ luật pháp, hiện nay có rất ít công trình khoa học nghiên cứu
cụ thể vấn đề nợ xấu của một ngân hàng thương mại cụ thể nào dù đây là vấn
đề gây bức xúc, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh toàn diện và cụ thể của các nhà
làm luật. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại từ thực tiễn Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương
Việt Nam (Vietcombank)” làm luận văn thạc sĩ với mong muốn góp phần làm
sáng tỏ các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại (ngân hàng Vietcombank), từ đó đề xuất một
vài ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trên cơ sở tiếp thu, học hỏi
kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng các luận cứ lý luận và
thực tiễn cho các giải pháp nhằm nâng cao khả năng xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại có vốn của nhà nước nói chung, ngân hàng Vietcombank nói
riêng trong tiến trình hội nhập và phát triển của các định chế ngân hàng với
các tiêu chuẩn quốc tế.
Với mục đích trên, đề tài đặt các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận khái niệm nợ xấu, phân loại nợ xấu.
- Phân tích, đánh giá một cách khoa học và đầy đủ về nguyên nhân,
biện pháp xử lý nợ xấu và nguyên tắc xử lý nợ xấu của các ngân hàng thương
mại trong những năm qua.
- Phân tích trực trạng xử lý nợ xấu tại ngân hàng Vietcombank từ đó
đánh giá thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu, cũng như xác định nhu cầu
thực tiễn phải hoàn thiện xử lý nợ xấu đối với các ngân hàng thương mại.
- Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết nợ xấu của ngân hàng
thương mại.
4



- Đề xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu
tại ngân hàng thương mại Vietcombank và kiến nghị một số giải pháp nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Việt Nam.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài.
* Về tư liệu: Hệ thống hóa tư liệu, tài liệu, văn bản pháp lý về hoạt
động xử lý nợ xấu tại các ngân hàng thương mại.
* Về nội dung khoa học:
Thứ nhất, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nợ xấu, xử lý nợ xấu.
Các nội dung như khái niệm nợ xấu, phân loại nợ xấu, các nguyên nhân dẫn
đến nợ xấu từ đó thấy được tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế. Đồng
thời luận văn cũng phân tích các biện pháp xử lý nợ xấu của các ngân hàng
thương mại hiện nay. Đây là cơ sở lý luận cơ bản có thể nhận thức sâu sắc về
nợ xấu và xử lý nợ xấu.
Thứ hai, luận văn tiếp cận tìm hiểu, nghiên cứu về nợ xấu, xử lý nợ xấu
và các biện pháp, nguyên tắc xử lý nợ xấu từ thực tiễn của ngân hàng
Vietcombank; đối chiếu các qui định pháp luật hiện hành với thực tiễn để
phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các qui định pháp luật và
hoạt động thực thi pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng Vietcombank. Đề
ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hoạt động xử
lý nợ xấu của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng
Vietcombank nói riêng.
Thứ ba, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
việc xử lý tốt các vấn đề liên quan đến nợ xấu, trên cơ sở phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về pháp
luật xử lý nợ xấu ngân hàng thương mại nói chung và thực tiễn tại ngân hàng

5



Vietcombank nói riêng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo
trong công tác xây dựng, nghiên cứu và áp dụng pháp luật nhất là trong bối
cảnh chúng ta tiến hành cổ phần hóa các ngân hàng thương mại lớn và quá
trình cải cách ngân hàng theo cam kết khi gia nhập WTO.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các qui định hiện hành của pháp
luật điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt
Nam, các qui chế và thực tiễn về xử lý nợ xấu của Vietcombank.
Trong luận văn này, chúng tôi không đi sâu tìm hiểu tất cả các vấn đề
về xử lý nợ xấu mà chỉ tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý, cơ sở lý luận,
thực tiễn và nội dung pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam, và đi sâu tìm hiểu hoạt động xử lý nợ xấu của ngân hàng
Vietcombank, đồng thời tham khảo các qui định xử lý nợ xấu của một số quốc
gia trên thế giới. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra những
khuyến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu của
ngân hàng thương mại nói chung và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu
của ngân hàng Vietcombank nói riêng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên những chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước. Những chủ trương đó được thể hiện nhất quán trong các văn
kiện của Đại hội Đảng, đặc biệt là Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung
ương. Luận văn vận dụng rất nhiều phương pháp khác nhau trong quá trình
nghiên cứu, chủ yếu là sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Ngoài ra, để hoàn thành luận văn, người viết còn sử dụng phối hợp
nhiều phương pháp khác, để luận văn có tính lý luận và thực tiễn cao:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, thống kê.

6



- Phương pháp mô hình hóa, hệ thống hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cấu thành 3 chương bao gồm:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương
mại từ thực tiễn ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank).
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề chung về nợ xấu của ngân hàng thƣơng mại
* Khái niệm nợ xấu
Đối với các ngân hàng, nợ xấu được coi là rủi ro tín dụng, nó phản ánh
trình độ phát triển và sức khỏe của toàn bộ nền kinh tế, năng lực kiểm soát rủi
ro của hệ thống ngân hàng trước những sức ép thường xuyên do tác động của
tình trạng bất ổn vĩ mô. Vậy nợ xấu được định nghĩa như thế nào? “Nợ xấu”
được dịch thành “bad debt” là một thuật ngữ khá chung chung, chủ yếu phổ
biến trên báo chí và các chuyên gia kinh tế. Dưới góc độ pháp lý và các
chuyên gia về lĩnh vực ngân hàng thường sử dụng thuật ngữ “non –
performing loans” (NPLs – các khoản vay không hiệu quả/ có thể bị mất vốn),

trong đi đó các tiêu chuẩn kế toán lại sử dụng thuật ngữ như “non-accrual
loans” (US GAAP) hay “impaired loans” (IAS 39). NHNN Việt Nam sử dụng
thuật ngữ NPLs nhưng dịch thành “nợ xấu” trong Quyết định 493/2005/QĐNHNN ngày 20/4/2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng. Nghiên cứu dưới góc độ pháp lý nên bài luận văn sẽ sử dụng thuật
ngữ “nợ xấu” với nghĩa của từ “non – performing loans”.
Nợ xấu được hiểu là một khoản nợ khó có thể thu hồi được và/hoặc trở
nên không còn khả năng sinh lời với các chủ nợ khi mà tất cả những nỗ lực để
thu hồi khoản nợ được thực hiện. Nợ xấu thường là sản phẩm của các con nợ
không trả được nợ (đúng hạn hoặc phá sản) hay các chi phí bỏ ra cho việc thu
hồi nợ còn nhiều hơn khoản nợ mà chủ nợ có thể thu hồi được. Các khoản nợ
xấu này sẽ được chủ nợ xử lý rủi ro tín dụng (write-off).

8


Quan điểm về nợ xấu khác nhau ở mỗi quốc gia và khác nhau dưới góc
nhìn của các chủ thể. Có thể nhắc tới một số khái niệm như sau:
+ Khái niệm nợ xấu của Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS):
Dù chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về nợ xấu, nhưng trong các hướng dẫn
về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác
định: Khoản nợ được coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai
hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: Ngân hàng thấy người vay không có khả
năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu
hồi nợ; người vay đã quá hạn trả nợ quá 90 ngày [1]. Dựa trên hướng dẫn này,
nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 ngày và có dấu
hiệu người đi vay không trả được nợ.
+ Khái niệm nợ xấu của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB) [18]:
Nợ xấu là những khoản cho vay không có khả năng thu hồi như: Những
khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi

thường từ người mắc nợ; hoặc người mắc nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài
sản để thanh toán nợ; hoặc những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động
kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại
không đủ để trả nợ.
Nợ xấu là những khoản cho vay có thể không thay toán đầy đủ cho
ngân hàng: Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa
ra để thế chấp không đủ để trả nợ. Điều đó đồng nghĩa với việc ngân hàng
không thể thu hồi đầy đủ món nợ vì người mắc nợ rất khó kiếm được lợi
nhuận từ công việc kinh doanh hoặc người mắc nợ không liên lạc với ngân
hàng để thanh toán hoặc hoàn cảnh chỉ rõ rằng phần lớn tiền nợ sẽ không thể
thu hồi được.
+ Khái niệm nợ xấu của Tổ chức tiền tệ Quốc tế (IMF) [26]: Một khoản
vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn;

9


khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu
lại, hoặc trì hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90
ngày nhưng có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ
không hoàn trả nợ đầy đủ. Như vậy, về cơ bản nợ xấu được xác định dựa trên
2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày hoặc (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây
được coi là định nghĩa hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới.
+ Tại Việt Nam, theo Thông tư số 02/2013/TT – NHNN ngày
21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự phòng rủi
ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong việc hoạt động của tổ chức
tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì: “Nợ xấu (NPL) là nợ thuộc các
nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), 4 (Nợ nghi ngờ) và 5 (Nợ có khả năng mất
vốn)”. Nợ xấu bao gồm tất cả các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 đến
nhóm 5 tùy theo cấp độ rủi ro khác nhau, theo nguyên tắc chỉ cần một khoản

vay (trong tổng thể nhiều khoản vay khác) phát sinh quá hạn, hoặc được điều
chỉnh kỳ hạn nợ, hoặc gia hạn nợ thì toàn bộ dư nợ này của khách hàng đó
phải chuyển sang nhóm nợ xấu. Như vậy, nợ xấu theo pháp luật Việt Nam
được xác định theo 2 yếu tố: (i) đã quá hạn trên 91 ngày hoặc (ii) khả năng trả
nợ đáng lo ngại.
Từ những định nghĩa trên cho thấy có sự tương đồng trong cách nhận
thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản
nợ được coi là nợ xấu nếu nó xuất hiện một hoặc cả hai dấu hiệu sau: Quá
hạn trả nợ gốc và lãi; khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng hoặc ngân
hàng coi là không có khả năng trả nợ. Song cũng cần phân biệt giữa hai khái
niệm nợ xấu và nợ khó đòi. Nợ xấu (NPLs) và nợ khó đòi (Doubtful debt) là
hai khái niệm khác biệt nhau. Nợ xấu là khoản phải thu đặc biệt mà được
xác định rõ ràng là không thể thu hồi được và cần phải xử lý rủi ro, nợ xấu là
nợ khó thu hồi bị xóa khỏi danh sách các khoản nợ phải thu. Trong khi đó

10


nợ khó đòi là một khoản thu mà có thể trở thành nợ xấu ở một thời điểm
trong tương lai khi không còn cách nào để thu hồi lại được khoản nợ. Nợ
khó đòi được ghi dưới dạng chi phí của các ngân hàng và sẽ ảnh hưởng đến
lợi nhuận của ngân hàng.
* Bản chất của nợ xấu
Xét về bản chất, nợ xấu như một khoản cho vay bắt nguồn từ quan hệ
hợp đồng giữa các đối tượng dân sự, mối quan hệ cho vay giữa chủ nợ (ngân
hàng) và con nợ (khách hàng). Các mối quan hệ đi vay – cho vay này dựa
trên các công cụ nợ. Thông thường, hợp đồng cho vay quy định các nghĩa vụ
cơ bản nhất của hai bên: bên cho vay có nghĩa vụ cho vay trong một khoảng
thời gian cụ thể và ngược lại người đi vay có nghĩa vụ trả nợ gốc và trả lãi
đúng thời hạn.

Về mặt lý thuyết, tất cả quan hệ hợp đồng này được dựa trên các tiêu
chuẩn thương mại, theo đó người đi vay và người có vay có thể thỏa thuận về
quyền lợi của mình một cách bình đẳng. Ví dụ: người cho vay có thể yêu cầu
các khách hành bảo đảm cung cấp tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh khoản vay
để gánh vác trách nhiệm trong trường hợp không trả được nợ. Khi khoản vay
chuyển sang nợ quá hạn, người cho vay và người đi vay có thể giải quyết nợ
xấu bằng cách tham khảo các điều khoản của hợp đồng vay ban đầu.
Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều giao dịch cho vay có thể có sự can thiệp
đáng kể từ bên ngoài chẳng hạn áp lực Chính phủ buộc các ngân hàng phải
cho vay chính sách. Trong các khoản vay chính sách, người cho vay không
còn đưa ra quyết định cho vay theo các tiêu chuẩn thương mại thay vào đó là
các tiêu chuẩn phù hợp với chính sách của chính phủ. Do vậy, một số người
đi vay có thể không thực hiện trả nợ cũ nhưng vẫn có thể nhận được các
khoản vay mới từ ngân hàng. Khi các khoản vay chính sách được xếp vào
xấu, nó có thể gây khó khăn cho ngân hàng để thu hồi nợ theo hợp đồng đã

11


giao kết bởi hầu hết các trường hợp người đi vay có thể bị phá sản và không
thể thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Có thể thấy, việc mở rộng chính sách cho vay
theo chính sách cũng góp phần gia tăng mức độ của nợ xấu trong hệ thống tài
chính. Khi có quá nhiều nợ xấu trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng,
ngân hàng có khả năng giảm tính thanh khoản bởi dòng tiền mặt từ khách
hàng bị chảy chậm lại.
Do đó, khi nhìn từ một góc độ toàn diện, vấn đề nợ xấu không còn là
mối quan hệ hợp đồng đơn giản, mà ở mức cao hơn cụ thể là: điều tiết hệ
thống thị trường ngân hàng một cách toàn thể. Việc giải quyết nợ xấu cần
phải xem xét trong một phạm vi hệ thống pháp luật toàn diện không chỉ đơn
giản là luật hợp đồng mà còn là luật tài chính, luật thuế, luật tài sản và các

quy định hành chính, các quy tắc, thông báo hoặc hướng dẫn.
* Phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng nợ xấu
Phân loại nợ xấu được hiểu là quá trình các ngân hàng xem xét các
danh mục cho vay và đưa khoản vay vào các nhóm khác nhau dựa trên rủi ro
và điểm tương đồng của khoản vay [24]. Việc xem xét và phân loại nợ giúp
các ngân hàng có thể kiểm soát chất lượng danh mục cho vay và trong trường
hợp cần thiết, sẽ có các biện pháp xử lý các vấn đề phát sinh trong chất lượng
tín dụng các danh mục cho vay.
Hiện nay, vẫn chưa có tiêu chuẩn về phân loại nợ xấu mà được áp dụng
thống nhất trong tất cả các nước trên thế giới. Có chăng là một số thông lệ
được nhiều nước sử dụng và một số hướng dẫn do các tổ chức quốc tế (BIS,
IMF) khuyến cáo. Do vậy, phân loại nợ xấu chủ yếu phụ thuộc vào cơ chế,
khuôn khổ pháp lý của các nước. Hầu hết các định chế tài chính trên thế giới,
phân loại nợ xấu theo 2 tiêu chí sau: Dựa vào tính chất quá hạn của khoản nợ
và dựa vào khả năng trả nợ đáng lo ngại. Ngân hàng thế giới phân loại nợ xấu
thành các loại sau [22]:

12


Nợ đạt tiêu chuẩn: Là có tài sản thế chấp theo nghĩa đầy đủ hoặc
không quá hạn.
Nợ cận chuẩn: Là có tài sản thế chấp đầy đủ nhưng có biểu hiện các
điểm yếu tín dụng. Những điểm yếu tín dụng này bao gồm các yếu tố chậm
trễ đến việc trả nợ có thể hơn 30 ngày nhưng chưa đến 90 ngày. Nguồn vốn
của người vay có biểu hiện không đủ đáp ứng cho các cam kết trả nợ, cần
phải có thêm nguồn vốn vay lưu động.
Nợ có vấn đề: Khoản vay được đánh giá là có vấn đề bao gồm tất cả
các khoản vay cận chuẩn kèm theo các đặc điểm sau: dựa trên thực tiễn, các
điều kiện và giá trị hiện tại sẵn có, việc thu đủ nợ là không chắc chắn và rất

đang ngờ. Không chắc chắn về việc đánh giá và tính khả mại của thế chấp.
Tính đầy đủ của hồ sơ pháp lý thế chấp cũng cần nghiên cứu và xem xét lại.
Và các khoản vay có vấn đề đang trì trệ hoạt động, việc trả lãi nợ vay vượt
quá thời hạn 90 ngày nhưng không quá 365 ngày.
Nợ không thu hồi được: Khoản cho vay bị liệt vào loại nợ này là
khoản cho vay không thể thu hồi được hoặc thu hồi rất ít. Sự tồn tại của nó
trong danh mục tài sản của ngân hàng được coi là không đảm bảo. Tài sản này
có thể có một số giá trị thu lại được hoặc còn lại giá trị sau khi khấu hao,
nhưng khả năng thiệt hại cao nên khả năng lỗ cần được ghi nhận ngay hoặc tài
sản nên được xóa sổ.
Đối với hướng dẫn của BIS trong Basel I thì việc phân loại nợ được
chia thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (pass), nợ cần chú ý (special mention),
nợ dưới chuẩn (substandard), nợ khó thu hồi được (doubtful) và nợ có khả
năng mất vốn (loss) [23]. Hướng dẫn này đang được rất nhiều nước áp dụng.
Từ hướng dẫn này thông lệ quốc tế xếp những khoản nợ bị quá hạn (vốn hoặc
lãi) quá hạn 90 ngày vào nhóm 3 (substandard) và 3 nhóm cuối (substandard,
doubtful, loss) thường được gộp chung thành nợ xấu (NPLs).

13


Tại Việt Nam, Điều 10, Điều 11 Thông tư số 02/2013/TT – NHNN
ngày 21/01/2013 về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong việc hoạt động
của tổ chức tín dụng; chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại nợ thành năm
nhóm theo phương pháp tiếp cận định lượng và năm nhóm theo phương pháp
định tính. Các khoản nợ được phân loại theo phương pháp định lượng, trong
đó các khoản nợ xấu nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 là các khoản nợ quá hạn từ 91
ngày trở lên; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu; các khoản nợ
được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo

hợp đồng tín dụng. Các khoản nợ được phân loại theo phương pháp định tính
và nợ xấu thuộc nhóm 3, 4, 5 bao gồm các khoản nợ dưới chuẩn (nhóm 3): nợ
được đánh giá không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn; nợ nghi ngờ
(nhóm 4): nợ được đánh giá có khả năng tổn thất cao; và nợ có khả năng mất
vốn (nhóm 5): nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Cho dù phân loại nợ theo phương pháp định lượng hay phương pháp
định tính thì các khoản nợ từ nhóm 3 tới nhóm 5 đều được xếp vào danh mục
nợ xấu của ngân hàng. Về cách xếp loại nhóm nợ cho thấy Việt Nam có sự
thống nhất với nhiều quốc gia trên thế giới (Mỹ, Nhật, Singapore, Hồng
Kong, Trung Quốc). Việc chia làm năm nhóm nợ và giải thích cơ bản từng
nhóm là tương đồng với các nhóm nợ ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Các khoản tín dụng được phân loại theo 5 nhóm nợ, căn cứ từng nhóm
các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro. Theo Thông tư số 02/2013/TT –
NHNN yêu cầu trích lập 2 loại dự phòng là dự phòng cụ thể và dự phòng
chung. Dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Dự phòng chung là số tiền
được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác
định được khi trích lập dự phòng cụ thể. Cụ thể, nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn)

14


trích dự phòng 0%, nhóm 2 (nợ cần chú ý) trích dự phòng 5%, nhóm 3 (nợ
dưới tiêu chuẩn) trích dự phòng 20%, nhóm 4 (nợ nghi ngờ) trích 50%, nhóm
5 (nợ có nguy cơ mất vốn) trích dự phòng 100%. Ngoài ra, ngân hàng còn
phải trích dự phòng rủi ro chung bằng 0,75% tổng giá trị các khoản nợ.
Dự phòng rủi ro là một nguồn quan trọng để các ngân hàng sử dụng để
xử lý nợ. Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng là phương pháp các ngân hàng sử
dụng để ghi nhận tổn thất so với giá trị ghi nhận ban đầu của khoản vay [3].
Và mức trích lập dự phòng càng lớn thì lợi nhuận ngân hàng càng giảm và

ngược lại. Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng gặp nhiều khó khăn cả về
mặt lý thuyết và thực tế bởi các quốc gia có lựa chọn rất đa dạng cho hệ thống
phân loại và lập dự phòng. Quá trình phân loại và trích lập dự phòng là vấn đề
đánh giá chủ quan, do đó kết quả đánh giá có thể rất khác nhau giữa những
người đánh giá. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng pháp lý ở từng quốc gia cũng ảnh
hưởng tới việc thực hiện các điều khoản của hợp đồng. Ở các quốc gia có cơ
sở hạ tầng pháp lý chuẩn hóa thường có xu hướng đưa các khoản vay vào diện
quá hạn nhanh hơn ngay sau khi người vay không trả được một khoản thanh
toán. Ở các quốc gia cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, thời gian giữa việc chưa
thanh toán và thay đổi phân loại khoản vay có thể dài hơn.
* Tỷ lệ nợ xấu
Tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Do đó, đo lường chất lượng tín dụng là một nội dung quan trọng trong việc
phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tùy theo
mục đích phân tích mà người ta đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau, tuy mỗi chỉ
tiêu có nội dung khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Một trong những chỉ tiêu đó là tỷ lệ nợ xấu. Tại khoản 9 Điều 3 Thông
tư số 02/2013/TT- NHNN ngày 21/01/2013 về quy định phân loại tài sản có,
mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dựng dự phòng

15


để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài có quy định: “Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng nợ từ
nhóm 1 đến nhóm 5”.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu là một chỉ số quan trọng để đo lường chất lượng
nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, đồng thời nó còn phản ánh khả năng quản
lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay và thu hồi nợ của khách hàng.
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng kém và

ngược lại. Thông thường thì tỷ lệ nợ xấu tốt nhất ở mức dưới 3%. Tuy nhiên,
tỷ lệ này đôi khi cũng chưa phản ánh hết chất lượng tín dụng của một ngân
hàng. Bởi vì bên cạnh những ngân hàng có được tỷ lệ nợ xấu hợp lý do đã
thực hiện tốt các khâu trong quy trình tín dụng, còn có những ngân hàng có
được tỷ lệ nợ xấu thấp thông qua việc cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá
hạn theo đúng quy định...
* Nguyên nhân của nợ xấu
Phân tích nguyên nhân nợ xấu là một trong những điều quan trọng cần
phải làm để từ đó đưa ra được chiến lược cũng như phương pháp quản lý, xử
lý có khả thi và hiệu quả tình trạng nợ xấu của các ngân hàng thương mại.
- Nhóm nguyên nhân từ môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng và
cơ chế xử lý nợ xấu: Có thể nói rằng lĩnh vực hoạt động ngân hàng luôn tiềm
ẩn rủi ro cao và để giúp giảm thiểu rủi ro thì luôn đòi hỏi sự hậu thuẫn của hệ
thống pháp luật. Nếu hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện sẽ tạo tiền đề
cho sự hoạt động an toàn lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Còn ngược lại,
nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, thiếu tính khả thi thì luôn tiềm ẩn rủi
ro rất cao đối với hệ thống ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng của môi
trường pháp lý, nên tất cả các nước đều rất chú trọng, đồng bộ hóa và hoàn
thiện các văn bản pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Đối với Việt Nam, mặc dù trong những năm qua chúng ra đã rất chú ý

16


xây dựng và từng bước hoàn thiện các văn bản pháp lý về hoạt động ngân
hàng, nhưng nhìn tổng thể có thể thấy hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng
bộ, chưa hoàn thiện và tính khả thi chưa cao. Pháp luật hiện hành đã có khung
pháp lý cơ bản trong việc hạn chế cũng như giải quyết nợ xấu của các tổ chức
tín dụng như: quy định về phân loại nợ, quy định về trích lập dự phòng rủi ro,
quy định về xử lý tài sản bảo đảm nợ, quy định về hoạt động mua bán nợ…

Tuy nhiên, thực tế cho thấy các quy định khi đi vào thực tế trở nên không phù
hợp, không phát huy hiệu quả trong giải quyết nợ xấu dẫn đến tình trạng nợ
xấu không được cải thiện mà còn có xu hướng tăng lên. Mặt khác, hiệu lực
văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng chưa cao, điều này đã và đang tiếp
tục gây ra những rủi ro tiềm ẩn lớn đối với lĩnh vực ngân hàng Việt Nam. Bên
cạnh đó, chính sách của Nhà nước còn thiếu tính ổn định làm cho hệ thống
ngân hàng đối mặt với nguy cơ rủi ro chính sách nhất là chính sách về lãi suất,
tỷ giá, vàng… Sự thay đổi hoặc áp dụng các chính sách không hiệu quả nhiều
khi gây ra những khối lượng nợ xấu rất lớn cho các ngân hàng.
Một thực tế không thể không xem xét là mối quan hệ rằng buộc giữa
Chính phủ và các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước trong nền
kinh tế chuyển đổi: Chính sự trợ giúp của Chính phủ đã tạo ra tâm lý ỷ lại của
các doanh nghiệp nhà nước. Sự rằng buộc này thể hiện ở các mặt như thành
lập (nhà nước vẫn quyết định về việc thành lập mới các doanh nghiệp độc lập
thuộc sở hữu công cộng, quyết định việc cấp giấy phép thành lập các doanh
nghiệp tư nhân và có cho phép cạnh tranh nhập khẩu không); sát nhập và tách
(cơ hội việc sáp nhập hay tách các doanh nghiệp vẫn cần quyết định cuối cùng
của nhà nước); xuất nhập khẩu và trao đổi ngoại hối; giá cả; việc làm và
lương; tín dụng và thanh toán nợ…
Ngoài ra, nợ xấu ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu nhưng quá trình xử lý nợ
xấu lại thiếu hiệu quả, nguyên nhân là do cơ chế xử lý nợ xấu chưa thực sự
hợp lý, còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế.

17


- Nhóm nguyên nhân từ phía các ngân hàng thương mại: Tình hình nợ
xấu của Việt Nam hiện nay có một phần lớn nguyên nhân đến từ sự yếu kém
của nội bộ các ngân hàng, tổ chức tín dụng:
+ Nợ xấu tăng cao cũng là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín

dụng quá nóng [6]. Một số ngân hàng nhỏ, năng lực quản trị tín dụng yếu kém
đã tìm mọi cách tăng vốn huy động, thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu
chuẩn cho vay, cho vay dễ dãi, thiếu các điều kiện đảm bảo cần thiết... Thực
tế, luôn có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại để dành dật thị phần,
đặc biệt là ở các ngân hàng thương mại nhỏ, mới được thành lập. Các ngân
hàng này có xu hướng mở rộng thị phần tín dụng bằng mọi giá, bỏ qua quy
trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, tìm cách lần tránh hàng rào kiểm
soát của Chính phủ.
+ Năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín
dụng yếu kém: Hiện nay, việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng của tổ
chức tín dụng mang tính chất chủ quan. Các ngân hàng chưa xây dựng được
thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được yếu tố này dẫn
đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác. Những khoản rủi ro to
được làm bé đi, khoản vay bé thì làm cho nó to lên.
Theo kết quả khảo sát năm 2013 của Trung tâm nghiên cứu kinh tế và
chính sách – Đại học Quốc gia Hà Nội thì mới chỉ có 47% các ngân hàng
thương mại tiếp cận với Basel 2 và chỉ có 40% các ngân hàng thương mại đã
tiếp cận với Basel 3 [7]. Khuôn khổ quản trị hiện hành này chưa bảo vệ được
quyền cổ đông đối với tất cả các cổ đông. Vai trò và nhiệm vụ của hội đồng
quản trị chỉ tuân theo một phần hoặc chưa tuân thủ các nguyên tắc quản trị của
OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) [8] và Basel. Khả năng quản trị
rủi ro còn yếu dẫn đến đánh giả khả năng xảy ra rủi ro tín dụng thấp hơn so với
thực tế cũng như khả năng ngăn ngừa rủi ro thị trường và tác nghiệp yếu.

18


×